Tiểu luận Quan điểm toàn diện trong Triết học Mác - Lênin, những nguyên nhân, quá trình đổi mới kinh tế ở Việt Nam

MỤC LỤC

Trang

Lời mở đầu 1

Nội dung 2

I. Nội dung cơ bản về quan điểm toàn diện của Triết học Mác-Lênin 2

1. Quan điểm siêu hình về mối liên hệ phổ biến giữa các sự vật và hiện tượng trong thế giới. 2

2. Quan điểm của chủ nghĩa Mác- Lênin về mối liên hệ phổ biến giữa các sự vật và hiện tượng trong thế giới. 2

a. Cơ sở lý luận của quan điểm. 2

b. Nội dung quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin về mối liên hệ phổ biến giữa các sự vật và hiện tượng. 3

3. Ý nghĩa việc nghiên cứu nguyên lý về mối liên hệ phổ biến của các sự vật, hiên tượng trong hoạt động nhận thức và thực tiễn. 5

II. Nguyên nhân và quá trình đổi mới nền kinh tế ở Việt Nam. 5

1. Nguyên nhân và quá trình đổi mới nền kinh tế ở Việt Nam. 5

2. Kinh tế thị trường định hướng XHCN. 10

a. Đặc trưng cơ bản của nền kinh tế thị trường. 10

b. Vai trò của Nhà nước XHCN trong nền kinh tế thị trường. 10

III. Giải pháp cơ bản tiếp tục phát triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam hiện nay. 12

Kết luận 14

Tài liệu tham khảo 15

 

doc16 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 3920 | Lượt tải: 5download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tiểu luận Quan điểm toàn diện trong Triết học Mác - Lênin, những nguyên nhân, quá trình đổi mới kinh tế ở Việt Nam, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
t học Mác - Lênin đến quá trình đổi mới nền kinh tế ở Việt Nam. Vì thế em chọn đề tài : "Quan điểm toàn diện trong Triết học Mác - Lênin, những nguyên nhân, quá trình đổi mới kinh tế ở Việt Nam". Nhưng do chưa có kinh nghiệm và vốn kiến thức còn hạn chế nên em không thể tránh khỏi những thiêú sót nhất định. Em mong có được sự nhận xét và góp ý của thầy giáo. Em xin chân thành cảm ơn ! Nội dung I. Nội dung cơ bản về quan điểm toàn diện của Triết học Mác-Lênin 1. Quan điểm siêu hình về mối liên hệ phổ biến giữa các sự vật và hiện tượng trong thế giới. Phương pháp siêu hình được phổ biến rộng rãi trước hết trong khoa học tự nhiên và sau đó trong triết học suốt các thế kỷ XVII, XVIII. Khi nghiên cứu và bàn luận về mối liên hệ phổ biến giữa các sự vật và hiện tượng trong thế giới, phương pháp siêu hình coi các sự vật hiện tượng trong thế giới tồn tại trong trạng thái biệt lập, tách rời nhau, cái này bên cạnh cái kia, hết cái này rồi đến cái kia. Giữa chúng không có mối liên hệ ràng buộc, quy định và chuyển hoá lẫn nhau, nếu có chỉ là những liên hệ có tính ngẫu nhiên, hời hợt bên ngoài. Như vậy những quan điểm ttên đây của phương pháp siêu hình đã phủ nhận hoàn toàn mối liên hệ phổ biến của các sự vật, đồng thời cũng dẫn đến những sai lầm về thế giới quan triết học, dựng lên những ranh giới giả tạo giữa các sự vật và hiện tượng, đối lập một cách siêu hình giữa các nghành nghiên cứu khoa học. Chính bởi sự hạn chế của trình độ khoa học tự nhiên ở phương pháp sưu tập tài liệu, nghiên cứu tách rời từng bộ phận riêng rẽ, phương pháp siêu hình đã không có khả năng phát hiện ra cái chung, cái bản chất và qui luật của sự vận động và phát triển của các sự vật, hiện tượng trong thế giới. 2. Quan điểm của chủ nghĩa Mác- Lênin về mối liên hệ phổ biến giữa các sự vật và hiện tượng trong thế giới. a. Cơ sở lý luận của quan điểm. Trong các học thuyết triết học duy vật trước Mác, vật chất được coi là vật thể, cơ sở đầu tiên bất biến của tất cả các sự vật, hiện tượng tồn tại trong thế giới khách quan. Chỉ có một thế giới duy nhất tồn tại là thế giới vật chất, không thể có thế giới tinh thần ở ngoài hoặc bên cạnh thế giới vật chất. Vật chất biểu hiện sự tồn tại của mình bằng vận động, hay nói cách khác vận động là phương thức tồn tại của vật chất, vật chất thông qua vận động mà biểu hiện sự tồn tại của mình. Là thuộc tính không tách rời của vật chất, nên không thể có vật chất nếu không có vận động và ngược lại. F. Ăng-ghen trong ''Biện chứng của tự nhiên'' đã viết : ''Vận động, hiểu theo nghĩa chung nhất, tức được hiểu là một phương thức tồn tại của vật chất, là một thuộc tính cố hữu của vật chất, thì bao gồm tất cả mọi sự thay đổi và mọi quá trình trong vũ trụ, kể từ sự thay đổi vị trí đơn giản cho đến tư duy''. Giữa các sự vật để có sự vận động thì sự vật phải tác động và ràng buộc lẫn nhau, tức là phải có liên hệ. Mọi mối liên hệ đều là sự tác động của các sự vật hiện thực của thế giới vật chất, các mối liên hệ đó được con người phản ánh dưới hình thức các khái niệm phạm trù. Như vậy con người không thể sáng tạo ra các mối liên hệ mà nó là cái vốn có của thế giới vật chất, liên hệ là khách quan, nó không phải do thượng đế sinh ra hay nhẫu nhiên mà có, không phải là sự thể hiện của bất cứ một ý niệm tuyệt đối nào. Thế giới vật chất là muôn hình muôn vẻ tồn tại dưới nhiều dạng cụ thể khác nhau, nhưng không tách rời biệt lập mà liên hệ thống nhất với nhau. Tất cả các sự vật và hiện tượng tồn tại bằng cách tác động nhau, ràng buộc nhau, quy định và chuyển hoá lẫn nhau. F. Ăng-ghen đã viết :'' Tất cả thế giới mà chúng ta có thể nghiên cứu được là một hệ thống, một tập hợp gồm các vật thể khăng khít với nhau…Việc các vật thể ấy đều có liên hệ qua lại với nhau đã có nghĩa là các vật thẻ này tác động lẫn nhau vì sự tác động qua lại ấy chính là sự vận động. b. Nội dung quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin về mối liên hệ phổ biến giữa các sự vật và hiện tượng. Căn cứ vào thực tiễn đời sống xã hội và sự phát triển của khoa học, triết học Mác-Lênin đã khẳng định : Bản chất của thế giới là vật chất, thế giới thống nhất ở tính vật chất của nó. Mọi sự vật, hiện tượng, bộ phận khác nhau của thế giới đều có sự liên hệ vật chất với nhau, nhưng không có cái nào tồn tại riêng lẻ, biệt lập, mà hợp thành một chỉnh thể, một hệ thống thống nhất và tồn tại một cách khách quan, vĩnh hằng. Không có sự vật nào lại không có mối liên hệ với các sự vật và hiện tượng khác, ngay trong cùng một sự vật, hiện tượng thì vẫn phải có sự tác động, liên hệ và ràng buộc lẫn nhau giữa các mặt và các yếu tố. Sự vật có vô vàn mối liên hệ, mối liên hệ tồn tại cả trong thế giới vĩ mô lẫn vi mô, cả trong thế giới vô cơ và hữu cơ, cả trong tự nhiên, xã hội và tư duy. Ví dụ, trong tự nhiên, giữa động vật và thực vật, giữa cơ thể sống và môi trường có mối quan hệ với nhau. Trong đời sống xã hội, giữa cá nhân và các tập đoàn người, giữa các quốc gia có quan hệ với nhau. Trong lĩnh vực nhận thức tư duy, giữa các hình thức của nhận thức, giữa các giai đoạn của nhận thức cũng có quan hệ với nhau… Mối liên hệ của các sự vật và hiện tượng trong thế giới là đa dạng và nhiều vẻ. Mỗi sự vật khác nhau có mối liên hệ khác nhau, mỗi một mối liên hệ lại có vị trí, vai trò khác nhau trong sự vận động của sự vật. Lại tiếp tục căn cứ vào vai trò, tính chất và phạm vi các mối liên hệ người ta lại chia thành các mối liên hệ sau: Liên hệ bên trong, liên hệ bên ngoài; liên hệ trực tiếp, liên hệ gián tiếp; liên hệ không gian, liên hệ thời gian; liên hệ chủ yếu, liên hệ thứ yếu; liên hệ cơ bản, liên hệ không cơ bản; liên hệ chung nhất và liên hệ đặc thù… Mặc dù sự phân loại các liên hệ này chỉ có ý nghĩa tương đối, song sự phân loại các mối liên hệ lại rất cần thiết, vì rằng vị trí của từng mối liên hệ trong việc quy định sự vận động và phát triển của sự vật và hiện tượng không hoàn toàn như nhau. Những hình thức riêng biệt, cụ thể của từng mối liên hệ là đối tượng nghiên cứu của từng nghành khoa học cụ thể. Phép biện chứng duy vật nghiên cứu những mối liên hệ chung nhất, phổ biến nhất của thế giới, tác động trong mọi lĩnh vực tự nhiên, xã hội và tư duy. Các khoa học cụ thể khác nghiên cứu các mối liên hệ đặc thù. Vì thế, F. Ăng-ghen viết: ''Phép biện chứng là khoa học về mối liên hệ phổ biến''. 3. ý nghĩa việc nghiên cứu nguyên lý về mối liên hệ phổ biến của các sự vật, hiên tượng trong hoạt động nhận thức và thực tiễn. Như ta đã biết, các sự vật và hiện tượng trong thế giới đều tồn tại trong mối liên hệ phổ biến và nhiều vẻ, bởi vậy muốn nhận thức và tác động vào chúng, chúng ta phải có quan điểm toàn diện, khắc phục quan điểm phiến diện một chiều. Quan điểm toàn diện đòi hỏi chúng ta khi phân tích sự vật phải đặt nó trong mối quan hệ với sự vật và hiện tượng khác, phải xem xét tất cả các mắt trung gian, gián tiếp, các yếu tố cấu thành nên sự vật, đồng thời cũng phải xác định được vai trò của các mối liên hệ trong hệ thống các mối liên hệ của sự vật. Trong hoạt động thực tiễn, quan điểm toàn diện giúp chúng ta tránh những sai lầm và sự cứng nhắc, chống lại quan điểm siêu hình coi sự vật là cái gì riêng lẻ, biệt lập. Tuy nhiên, quan điểm toàn diện không có nghĩa là các xem xét cao bằng, tràn lan mà phải thấy được vị trí của từng mối liên hệ, từng mặt, từng yếu tố trong tổng thể của chúng. Có như thế chúng ta mới thực sự nắm được bản chất của sự vật. Vì vậy, quan điểm toàn diện bản thân nó đã bao hàm quan điểm lịch sử cụ thể. II. Nguyên nhân và quá trình đổi mới nền kinh tế ở Việt Nam. 1. Nguyên nhân và quá trình đổi mới nền kinh tế ở Việt Nam. Lịch sử nhân loại đã chứng kiến nhiều mô hình kinh tế khác nhau. Mỗi mô hình đó là sản phẩm của trình độ nhận thức nhất định trong những điều kiện lịch sử cụ thể. Song, nghiên cứu một cách nghiêm túc các mô hình đó, cùng với thời gian và kinh nghiệm thực tế, chúng ta đã rút ra cho mình một cách nhìn đúng đắn hơn và một sự lựa chọn thực tế hơn. Trước đây, mô hình kinh tế hiện vật được coi là lý tưởng, thì nay đã bộc lộ những hạn chế, vô tình nó đã phủ định những mục tiêu ban đầu của chủ nghĩa xã hội. Đặc trưng cơ bản của mô hình kinh tế hiện vật là nền kinh tế bị hiện vật hoá, tư duy hiện vật, chỉ có sở hữu toàn dân và sở hữu tập thể là phổ biến, nền kinh tế khép kín với cơ chế quản lý kế hoạch hoá tập trung cao độ. Trên thực tế, yếu tố kế hoạch hoá tập trung đã loại bỏ yếu tố thị trường, quan hệ hàng hoá - tiền tệ chỉ còn là hình thức. Sự điều tiết theo chiều dọc đã lấn át các quan hệ kinh tế theo chiều ngang. Vai trò người tiêu dùng bị hạ thấp. Hệ thống quản lý quan liêu tỏ ra không có khả năng gắn sản xuất với nhu cầu. Kinh tế hiện vật gắn liền với quan niệm truyền thống về kinh tế xã hội chu nghĩa tuy đã có tác dụng trong điều kiện chiến tranh, góp phần mang lại chiến thắng vẻ vang của dân tộc ta, song khi chuyển sang xây dựng và phát triển kinh tế, chính mô hình đó đã tạo ra nhiều khuyết tật: nền kinh tế không có động lực, không có sức đua tranh, không phát huy được tính chủ động sáng tạo của người lao động, các chủ thể sản xuất - kinh doanh, sản xuất không gắn với nhu cầu, ý chí chủ quan đã lấn át khách quan và triệt tiêu mọi động lực, sứ mạnh nội sinh của bản thân nền kinh tế, đã làm cho nền kinh tế suy thoái, thiếu hụt, hiệu quả thấp, nhiều mục tiêu của chủ nghĩa xã hội không được thực hiện. Đó là tất yếu của sự chuyển đổi nền kinh tế hiện vật sang nên kinh tế thị trường. Kinh tế thị trường có những đặc trưng cơ bản như : phát triển kinh tế hàng hoá, mở rộng thi trường, tự do kinh doanh, tự do thương mại, tự định giá cả, đa dạng hoá sở hữu, phân phối do quan hệ cung- cầu… đó là cơ chế hỗn hợp '' có sự điều tiết vĩ mô '' để khắc phục những khuyết tật của nó. ở nước ta, sự lựa chọn mô hình kinh tế thị trường là một tất yếu. Do những hoàn cảnh lịch sử đặc biệt, trong một thời kỳ dài chúng ta đã duy trì nền kinh tế hiện vật theo mô hình của các nước xã hội chủ nghĩa. Chế độ kinh tế - xã hội đó đã tỏ rõ sức mạnh trong chiến tranh, nhưng những khuyết tật nghiêm trọng của nó lại được chính hoàn cảnh chiến tranh che lấp. Mặt khác, nước ta đi lên chủ nghĩa xã hội từ điểm xuất phát rất thấp, cơ cấu kinh tế mang nặng đặc trưng của một nước nông nghiệp lạc hậu. Nhận rõ điểm xuất phát đó, trong chính sách kinh tế, Đảng ta đã có những tìm tòi với mong muốn thoát khỏi sản xuất nhỏ, nhưng những giải pháp đó được đặt trong môi trường kinh tế hiện vật, nên không mang lại kết quả. Sau chiến tranh, do nguồn viện trợ to lớn từ bên ngoài bị cắt giảm đột ngột nên khủng hoảng kinh tế - xã hội ở nước ta vốn đã gay gắt, nay càng gay gắt hơn. Đồng thời, hàng loạt thử thách làm bộc đầy đủ những khuyết tật của mô hình cũ và hệ quả của những bước đi nóng vội, chủ quan. Trong thực tiễn kinh tế hiện vật với cơ chế quản lý tập trung quan liêu, đã bộc lộ nhiều tiêu cực: sản xuất đình trệ, đời sống nhân dân sa sút. Trong nông nghiệp, khoán chui trở thành phổ biến còn trong công, thương nghiệp, các nhà máy, xí nghiệp không thể bằng lòng với cơ chế '' cấp phát- giao nộp'' đã tự động '' xé rào '' do thiếu vật tư nguyên liệu, vốn liếng, do sự bất lực của công cụ kế hoạch hoá kiểu cũ. Sự phát triển của thị trường tự do chen lẫn thị trường có tổ chức. Nhìn thẳng vào sự thật Đảng ta đã sớm có những chuyển biến, bắt đầu uốn nắn những lệch lạc trong phong trào hợp tác hoá, công nghiệp hoá đến việc thay đổi thể chế chính sách. Nghị quyết TW lần thứ sáu (khoá IV) được đánh dấu như một cái mốc trong quá trình chuyển đổi cơ chế quản lý kinh tế: cho sản xuất bung ra; thừa nhận quan hệ hàng hóa - tiền tệ; cho tự do lưu thông. Chỉ thị 100 của Ban Bí thư cho phép khoán sản phẩm trong nông nghiệp; Quyết định 25CP của Chính phủ cho phép thực hiện kế hoạch ba phần trong các xí nghiệp công nghiệp. Vấn đề giá cả, cốt lõi của cơ chế cũ được coi là đột phá khẩu đầu tiên triển khai mạnh mẽ những thử nghiệm về giá cả 1981, tổng điều chỉnh giá - lương - tiền 1985, bỏ phân phối theo định lượng, bù giá vào lương ở các tỉnh phía Nam… Chỉ đến năm 1986, khi những tiền đề và điều kiện cho công cuộc đổi mới đã xuất hiện đầy đủ thì những quan điểm trên mới được công khai, thừa nhận. Đại hội lần thứ VI của Đảng đựơc đánh dấu như một cái mốc quan trọng trong việc chuyển đổi cơ chế. Trên cơ sở phê phán một cách nghiêm khắc cơ chế tập trung quan liêu, bao cấp mà nguồn gốc từ kinh tế hiện vật và những hậu quả của nó, nhất quán chuyển sang nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, cũng từ đó tạo ra những tiền đề cần thiết để chuyển sang kinh tế thị trường. Tổng kết hai năm thực hiện Đại hộiVI, nền kinh tế phát triển, khắc phục được suy thoái, nền kinh tế - xã hội đã có những thay đổi căn bản đó là những căn cứ để đẩy tới một bước cao hơn. Đại hội lần thứ VII của Đảng nhất quán chuyển sang kinh tế thị trưòng với những quan điểm khá triệt để: chấp nhận thị trường một cách cơ bản, tổng thể lâu dài, một thị trường thống nhất thông suốt, hoà nhập với thị trường thế giới, thị trường là đối tượng quản lý của Nhà nước. Sự hình thành và phát triển thị trường ở nước ta gắn liền với quá trình đổi mới kinh tế từ cơ cấu đến cơ chế quản lý kinh tế, nhất quán chuyển sang kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước, gắn liền với đổi mới một cách cơ bản chính sách kinh tế vĩ mô như giá cả, kế hoạch hoá, tài chính - tiền tệ, đầu tư, thương mại chuyển hoạt động sản xuất - kinh doanh và tiêu dùng xã hội sang kinh tế thị trường, trong đó giải pháp có ý nghĩa quyết định là xử lý giá cả. Quan hệ hàng hoá - thị trường ngày càng mở rộng và đi sâu vào các lĩnh vực của quá trình sản xuất - kinh doanh với sức mạnh của tất yếu kinh tế, sức mạnh hồi sinh sau chiến tranh. Sức sản xuất phát triển làm bật dậy các tiềm năng, hàng loạt nhân tố mới xuất hiện xen lẫn những bề bộn phức tạp của sự chuyển đổi mang tính cách mạng mà thực chất là sự giải thể, cấu trúc lại cơ cấu sản xuất, cơ cấu sở hữu, quan hệ kinh tế, cơ chế quản lý. Tư duy nhất là tư duy kinh tế thay đổi một cách căn bản: từ thụ động an bài sang năng động sáng tạo, tự chủ; từ tư duy hiện vật sang tư duy giá trị; sự nhạy cảm về lợi ích, hiệu quả, về thang giá trị, đạo đức lối sống… Những chuyển đổi đó thực sự tạo ra bước ngoặt trong kinh tế. Chỉ một thời gian ngắn, đất nước có nhiều thay đổi. Bước đầu tình trạng suy thoái dần dần được khắc phục. Tổng sản phẩm tronh nước năm 1994 tăng 8.5%/năm, trong đó sản xuất công nghiệp tăng 13%, sản xuất nông nghiệp tăng 4%, kim nghạch xuất khẩu tăng 20.8%; lạm phát được kiềm chế. Bước đầu thu hút được vốn đầu tư nước ngoài với số vốn đăng ký 10 tỷ USD. Nền kinh tế đã bắt đầu có tích luỹ nội bộ. Xuất khẩu và nhập khẩu đã lấy lại thế cân bằng, dần dần biết phát huy và tận dụng được lợi thế so sánh trong quan hệ kinh tế quốc tế. Thành tựu nổi bật nhất trong thời gian qua là sản xuất nong nghiệp phát triển, từ chỗ thiếu lương thực triền miên, đến nay chúng ta đã có khả năng tự túc, phần nào dự trữ và xuất khẩu. Năm 1993, mặc dù một số vùng gặp nhiều thiên tai nhưng sản lượng lương thực đạt mức kỷ lục 25 triệu tấn. Cơ cấu kinh tế nhiều thành phần đang được hình thành và phát huy tác dụng. Khu vực kinh tế quốc doanh đang được tổ chức sắp xếp lại; cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa trở thành cơ chế vận hành nền kinh tế. Vai trò tự điều tiết của thị trường bắt đầu phát huy tác dụng, giá cả thị trường đi dần vào thế ổn định đã chuyển từ thị trường của người bán sang thị trường người mua. Cơ chế cạnh tranh đã có tác dụng điều chỉnh tích cực cơ cấu kinh tế, đào thải những yếu tố lạc hậu, làm bộc lộ đầy đủ những yếu kém trong sản xuất - kinh doanh, trong quản lý từ vĩ mô đến vi mô. Thị trường đã trở thành căn cứ quan trọng để chuyển đổi cơ cấu kinh tế. Một số nghành, lĩnh vực đã gắn thị trường trong nước với thị trường ngoài nước theo hướng kinh tế mở. Việc đổi mới cơ chế quản lý kinh tế đã thu được những thành tựu bước đầu: hẹ thống pháp luật được bổ sung hoàn chỉnh, kế hoạch hoá được đổi mới, các chính sách tài chính - tiền tệ, giá cả, đàu tư thương mại, đã tạo môi trường thuận lợi cho các doanh nghiệp phát huy tính chủ động sáng tạo trong sản xuất - kinh doanh. Nhà nước có tích luỹ thêm kinh nghiệm trong việc quản lý điều hành nền kinh tế. Nhờ sản xuất, dịch vụ phát triển, giá cả tương đối ổn định, đời sống nhân dân được cải thiện Tuy đã đạt được những thành tựu quan trọng, nhưng nhìn chung chúng ta vẫn chưa thoát khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội, vẫn là một nước nghèo, kém phát triển, năng xuất lao động và tích luỹ còn thấp, kỹ thuật công nghệ lạc hậu. 2. Kinh tế thị trường định hướng XHCN. a. Đặc trưng cơ bản của nền kinh tế thị trường. Khác với nền kinh tế tự nhiên và nền kinh tế kế hoạch hoá, nền kinh tế thị trường là một hệ thống có cấu trúc phức tạp và vận hành trên những nguyên tắc, nhưng quy luật riêng có của nó. Bởi vậy, nền kinh tế thị trường có những đặc điểm cơ bản sau: - Nền kinh tế trị trường là một chỉnh thể thống nhất và vận hành đồng bộ. Đó là một tổ hợp hữu cơ các thị trường riêng biệt ( Thị trường hàng hoá và dịch vụ, thị trường vốn, thị trường sức lao động, thị trường trong nước, thị trường quốc tế…), cũng như các quan hệ kinh tế - xã hội, các quy luật kinh tế… Sự vận hành của nền kinh tế là tống hoà của sự vận hành các thị trường, các quan hệ và các quy luật kinh tế. - Nền kinh tế thị trường là một nền kinh tế mở, không bị giới hạn bởi các ranh rới không gian trật hẹp. Điều đó được quyết định bởi bản chất các quan hệ giá trị, thị trường là không bị giới hạn bởi các ranh giới địa lý, hành chính. Hệ thống kinh tế thị trường về nguyên tắc là một hệ thống mở, chứ không khép kín, cục bộ địa phương. - Nền kinh tế thị trường hoạt động vừa có tính tự phát, vừa mang tính tự điều tiết bởi những quy luật kinh tế khách quan của nó. Do vậy, trong quản lý và hoạt động kinh doanh đòi hỏi con nguời phải nhận thức đúng và vận dụng khoa học các quy luật kinh tế khách quan ấy. Mọi sự nhận thức phiến diện, hoạt động trái quy luật đều phải nhận lấy những hậu quả khó lường. b. Vai trò của Nhà nước XHCN trong nền kinh tế thị trường. Nói chung, trong một nền kinh tế, Nhà nước đều đóng vai trò quan trọng đối với các hoạt động kinh tế - xã hội. Tuy nhiên, mỗi thời đại khác nhau thì vai trò của nhà nước được thể hiện ở những phương pháp và hình thức khác nhau. Trong nền kinh tế thị trường, cùng với sự gia tăng cua quá trình xã hội hoá sản xuất, vai trò điều tiết của nhà nước ngày càng được mở rộng. Bởi lẽ, cơ chế thị trường, bên cạnh những ưu thế của nó, còn có những khuyết tật không nhỏ. Để khắc phục những khuyết tật đó, làm tăng tính hữu hiệu của các giải pháp thị trường, bên cạnh sự tác động của '' bàn tay vô hình'', phải có sự can thiệp của '' bàn tay hữu hình'', tức là sự tác động của Nhà nước. Vai trò của Nhà nước trong nền kinh tế thị trường là sử dụng các công cụ kinh tế vĩ mô tác động vào nền kinh tế nhằm giải quyết ba mục tiêu cơ bản: hiệu quả, công bằng và ổn định. + Mục tiêu hiệu quả. Trong nền kinh tế thị trường, trên giác độ vĩ mô thì hoạt đông thị trường nhiều khi cũng dãn đến thất bại bởi những ứng xử vi mô không phù hợp. Nguyên nhân chính là do sự độc quyền, các yếu tố tác động không theo nguyên tắc thị trường, thiếu định hướng và hỗ trợ của Nhà nước. Để tăng cường hoạt động hiệu quả nền kinh tế, Nhà nước phải sử dụng một loạt các chính sách, các giải pháp kinh tế để khắc phục những vấn đề trên. Trong nền kinh tế, sự độc quyền thường dẫn đến triệt tiêu động lực cạnh tranh, gây thiệt hại lớn cho nền inh tế. Tình trạng độc quyền về giá cả, khống chế khối lượng sản xuất, cản trở áp dụng khoa học kỹ thuật… sẽ dẫn đến thất bại thị trường xét trên tổng thể. Do vậy, can thiệp của Nhà nước vào nền kinh tế nhằm hạn chế sự thao túng của độc quyền, tăng hiệu quả hoạt động của '' bàn tay vô hình'' là cần thiết. Ngoài ra, sự tác động mạnh mẽ đến hiệu quả hoạt động kinh tế - xã hội nói chung còn phụ thuộc vào những yếu tố bên ngoài như tình trạng khan hiếm nguồn, ô nhiễm môi trường sinh thái…Thường những nhân tố này không nằm trong phạm vi tự điều chỉnh của thị trường. ở đây, việc Nhà nước quy định các luật lệ nhằm hạn chế những tác động tiêu cực của các yếu tố bên ngoài là rất quan trọng. Mặt khác, việc Nhà nước đưa ra những định hướng phát triển thông qua các chiến lược tổng thể, đầu tư hỗ trợ phát triển các lĩnh vực trong yếu, là yếu tố cực kỳ quan trọng để tăng hiệu quả vĩ mô của nền kinh tế. + Mục tiêu ổn định. ổn định luôn là cơ sở cho sự phát triển bền vững nền kinh tế - xã hội. Trong nền kinh tế thị trường thì tính chu kỳ của sự phát triển là một đặc trưng nổi bật, lạm phát và thất nghiệp là những căn bệnh kinh niên. Trước những vấn đề mang tầm cỡ vĩ mô này, không một chủ thể tư nhân nào có thể giải quyết được. Chỉ có Nhà nước, với quyền lực tổng hợp và sức mạnh tập trung mới có thẻ giải quyết được các căn bệnh nói trên. Với vai trò quản lý của Nhà nước, hiện nay nhiều quốc gia đã thu được nhiều thành tựu trong các chương trình chống suy thoái kinh tế, chống lạm phát, chống thất nghiệp. + Mục tiêu công bằng. Cơ chế thị trường không chỉ có những khuyết tật về mặt kinh tế, mà còn cho ra nhiều vấn đề xã hội to lớn. Không thể phủ nhận được tình trạng '' cá lớn nuốt cá bé '', sự phân hoá giàu nghèo như những sản phẩm tất yếu của nền kinh tế thị trường, của sự cạnh tranh. Để hạn chế bớt tình trạng này, Nhà nước phải sử dụng các chính sách, các công cụ trong tay để tiến hành phân phối và phân phối lại sản phẩm xã hội. Các chính sách chủ yếu ở đây là: chính sách tài chính quốc gia, chính sách thuế, chính sách trợ cấp, chính sách xã hội… III. Giải pháp cơ bản tiếp tục phát triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam hiện nay. Sau 15 năm đổi mới cơ chế quản lý kinh tế, xây dựng nền kinh tế thị trường theo định hướng XHCN ở Việt Nam, chúng ta đã đạt được nhiều thành tựu đáng kể: đặc biệt 10 năm 1991 - 2000. Tuy nhiên bên cạnh những thành tựu to lớn đó, trong quá trình xây dựng nền kinh tế thị trường theo định hướng XHCN ở nước ta vẫn còn nhiều mặt yếu kém, cần khắc phục. Nhịp độ tăng trưởng mấy năm gần đây chậm lại, nền kinh tế hoạt động còn kém hiệu quả và kém sức cạnh tranh, một số hành hoá khó tiêu thụ. tích luỹ nội bộ nền kinh tế và sức mua còn thấp, cơ cấu kinh tế chuyển dịch chậm, cơ chế bao cấp còn nặng nề. Môi trường đầu tư nhiều vướng mắc, lực lượng sản xuất chưa được giải phóng triệt để, các yếu tố thị trường chưa được tạo lập đồng bộ, các thành phần kinh tế chưa yên tâm đầu tư lâu dài vào sản xuất, đầu tư nước ngoài giảm mạnh. Một số cân đối nền kinh tế còn thiếu vững chắc như thu chi ngân sách Nhà nước, xuất nhập khẩu, tích luỹ - tiêu dùng… Đời sống một bộ phận dân cư còn thấp, nhất là ở vùng núi, vùng sâu hải đảo; còn có sự phân hoá giàu nghèo khá lớn. Những mặt yếu kém, bất cập đã nói trên đây có phần do những nguyên nhân khách quan tạo ra, song phần quan trọng là do những khuyết điểm trong việc hoạch định chính sách. Trong đó nổi lên là: công tác tổ chức, cán bộ chậm đổi mới, bộ máy còn cồng kềnh, chồng chéo, kém hiệu lực; một bộ phận cán bộ , công chức tha hoá biến chất, thiếu năng lực; tệ nạn quan liêu cửa quyền, tham nhũng, lãng phí, sách nhiễu còn nặng nề. Bên cạnh đó, một số vấn đề về quan điểm phát triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN như : vấn đề sở hữu và các thành phần kinh tế ; vai trò của Nhà nước và thị trường ; xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ và hội nhập kinh tế quốc tế… vẫn chưa được sáng tỏ. Bởi vậy, để tiếp tục kiên trì đường lối của Đảng và Nhà nước ta về phát triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, chúng ta phải có những giải pháp cơ bản sau đây : 1. Nhận thức đúng đắn về quan điểm toàn diện của chủ nghĩa Mac - Lenin và phát triển nền kinh tế định hướng XHCN. 2. Nâng cao năng lực quản lý của Nhà nước trong việc hoạch định chính sách và tổ chức thực hiện chính sách đó. 3. Tiếp tục hoàn thiện môi trường pháp lý, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp hoạt động. 4. Nâng cao chất lượng đào tạo cán bộ quản lý kinh tế cho Nhà nước và quản trị doanh nghiệp cho các doanh nghiệp. Kết luận Triết học Mác - Lênin là môn khoa học trang bị tư duy và phương pháp luận để khám phá, nghiên cứu sự phát triển xã hội qua các chế độ xã hội khác nhau, hiểu rõ cơ cấu chung của hình thái kinh tế - xã hội và những quy luật phổ biến tác động, chi phối sự vận động và phát triển của xã hội. Trong công cuộc đổi mới nền kinh tế từ nền kinh tế hiện vật sang nền kinh tế thị trường, chúng ta vẫn giữ vững mục tiêu XHCN. Do nền kinh tế đang còn lạc hậu so với quốc tế và khu vực nên chúng ta cần phải tập trung phát triển mạnh mẽ lực lượng sản xuất. Việc phát triển lực lượng sản xuất thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước lại không tách rời việc xây dựng nền kinh tế hành hoá nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của nhà nước theo định hướng XHCN. Quá trình xây dựng nền kinh tế hành hoá nhiều thành phần gắn liền với quá trình xây dựng nền kinh tế mở. Chúng ta phải không ngừng mở rộng quan hệ kinh tế với các nước trên thế giới và khu vực, tham gia phân công lao động quốc tế và khu vực, mở rộng quan hệ thị trường thế gi

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc35270.doc
Tài liệu liên quan