Tiểu luận Quan điểm toàn diện trong vấn đề phát triển nền nông nghiệp Việt Nam hiện nay

MỤC LỤC

A- LỜI MỞ ĐẦU 1

1. Tính cấp thiết của đề tài 1

2. Mục đích nghiên cứu đề tài 2

B - NỘI DUNG 3

I. Cơ sở lí luận của đề tài 3

1. Nội dung cơ bản của nguyên lí về mối liên hệ phổ biến 3

2. Nội dung cơ bản của nguyên lí về sự phát triển 5

II. Vận dụng nguyên lí vào thực tiễn 6

1. Khái quát chung về nền nông nghiệp Việt Nam . 6

2. Giải pháp đối với nền nông nghiệp Việt Nam 13

C- KẾT LUẬN 16

 

 

 

doc17 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 2437 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tiểu luận Quan điểm toàn diện trong vấn đề phát triển nền nông nghiệp Việt Nam hiện nay, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
uộc ràng buộc và quy định lẫn nhau. Nếu giữa chúng có sự quy định lẫn nhau thì cũng chỉ là quy định bề ngoài, mang tính ngẫu nhiên. Tuy vậy trong số những người theo quan điểm siêu hình cũng có một số người cho rằng các sự vật hiện tượng có mối liên hệ với nhau, mối liên hệ rất đa dạng và phong phú song cac hình thức liên hệ khác nhau, không có khả năng chuyển hóa lẫn nhau . - Quan điểm biện chứng về mối liên hệ phổ biến: Những người theo quan điểm biện chứng cho rằng các sự vật hiện tượng, các quá trình khác nhau vừa tồn tại độc lập vừa quy định, tác động qua lại chuyển hóa lẫn nhau 1.2. Quan điểm duy tâm và quan điểm duy vật biện chứng về sự liên hệ. - Quan điểm duy tâm về sự liên hệ: trả lời câu hỏi thứ 2, những người theo chủ nghĩa duy tâm khách quan và chủ nghĩa duy tâm chủ quan trả lời rằng: Cái quyết định mối liên hệ, sự chuyển hoá lẫn nhau giữa các sự vật, hiên tượng là một lực lượng siêu tự nhiên hay ở ý thức cảm giác của con người. - Quan điểm duy vật biện chứng về sự liên hệ: Trả lời câu hỏi thứ 2, những người theo quan điểm duy vật biện chứng khẳng định tính thống nhất vật chất của thế giới là cơ sở của mối liên hệ giữa các sự vật hiện tượng. Các sự vật hiện tượng tạo thành thế giới, dù có đa dạng phong phú, có khác nhau bao nhiêu, song chúng đều chỉ là những dạng khác nhau của một thế giới duy nhất, thống nhất - thế giới vật chất. Nhờ có tính thống nhất đó, chúng không thể tồn tại biệt lập, tách biệt nhau mà tồn tại trong sự tác động qua lại, chuyển hoá lẫn nhau theo những quan hệ xác định. Chính trên cơ sở đó, triết học duy vật biện chứng khẳng định rằng: mối liên hệ là phạm trù triết học dùng để chỉ sự quy định, sự tác động qua lại, sự chuyển hóa lẫn nhau giữa các sự vật, hiện tượng và hay giữa các mặt của một sự vật, của một hiện tượng trong thế giới. 1.3. Các tính chất của mối liên hệ: - Tính khách quan: Mọi mối liên hệ của các sự vật hiện tượng là khách quan, là vốn có của mọi sự vật, hiện tượng. - Tính phổ biến được thực hiện: + Bất cứ sự vật hiện tượng nào cũng liên hệ với sự vật hiện tượng khác + Mối liên hệ biểu hiện bằng những hình thức riêng biệt, cụ thể tuỳ theo điều kiện nhất định. 1.4. Phân loại mối liên hệ . Dựa vào tính đa dạng, nhiều vẻ của mối liên hệ mà ta có thể phân chia ra các mối liên hệ khác nhau theo từng cặp . - Mối liên hệ bên trong và mối liên hệ bên ngoài - Mối liên hệ chủ yếu và mối liên hệ thứ yếu - Mối liên hệ bản chất và mối liên hệ không bản chất - Mối liên hệ tất nhiên và mối liên hệ ngẫu nhiên. Các cặp mối liên hệ có quan hệ biện chứng với nhau . Mỗi loại mối liên hệ có vai trò khác nhau đối với sự vận động và phát triển của sự vật . 1.5. ý nghĩa phương pháp luận. - Vì bất cứ sự vật, hiện tượng nào trong thế giới đều tồn tại trong mối liên hệ với các sự vật hiện tượng khác và mối liên hệ rất đa dạng, phong phú, do đó khi nhận thức về sự vật, hiện tượng chúng ta phải có quan điểm toàn diện tránh quan điểm phiến diện chỉ xét sự vật, hiện tượng ở mối liên hệ vội vàng kết luận về bản chất hay về tính quy luật của chúng. - Quan điểm toàn diện đòi hỏi chúng ta nhận thức về sự vật trong mối liên hệ qua lại giữa sự vật đó và các sự vật khác, kể cả mối liên hệ trực tiếp và mối liên hệ gián tiếp. Chỉ trên cơ sở đó mới nhận thức đúng sự vật. - Quan điểm toàn diện đòi hỏi chúng ta phải phân biệt từng mối liên hệ, phải biết chú ý tới mối liên hệ bên trong, mối liên hệ bản chất, mối liên hệ chủ yếu, mối liên hệ tất nhiên... để hiểu rõ bản chất của sự vật và có phương pháp tác động phù hợp nhằm đem lại hiệu quả cao nhất trong hoạt động của bản thân. - Trong hoạt động thực tế, theo quan điểm toàn diện khi tác động vào sự vật, chúng ta không những phải chú ý tới những mối liên hệ nội tại của nó mà còn phải chú ý tới những mối liên hệ của sự vật ấy với các sự vật khác. Đồng thời chúng ta phải biết sử dụng đồng bộ các biện pháp, các phương tiện khác nhau để tác động nhằm đem lại hiệu quả cao nhất. 2. Nội dung cơ bản của nguyên lí về sự phát triển. - Quan điểm siêu hình về sự phát triển: quan điểm siêu hình xem sự phát triển chỉ là sự tăng lên hay giảm đi đơn thuần về mặt số lượng, không có sự thay đổi gì về mặt chất của sự vật. Những người theo quan điểm siêu hình coi tất cả chất của sự không có sự thay đổi gì trong quá trình tồn tại của chúng .Sự vật ra đời với những chất như thế nào thì quá trình tồn tại của nó vẫn được giữ nguyên hoặc nếu có sự thay đổi nhất định về chất thì sự thay đổi ấy cũng chỉ diễn ra theo một vòng khép kín. Họ coi sự phát triển chỉ là sự thay đổi về mặt lượng của từng loại mà sự vật đang có, chứ không có sự sinh thành ra cái mới với những chất mới. Những người theo quan điểm siêu hình xem xét sự phát triển như là một quá trình tiến lên liên tục, không có những bước quanh co, thăng trầm, phức tạp . - Quan điểm biện chứng về sự phát triển: quan điểm biện chứng xem xét sự phát triển là một quá trình tiến lên từ thấp lên cao. Quá trình đó diễn ra vừa dần dần, vừa nhảy vọt, đưa tới sự ra đời của cái mới thay thế cái cũ. Dùa trong hiện thực khách quan hay trong tư duy, sự phát triển diễn ra không phải lúc nào cũng tuân theo đường thẳng, mà rất quanh co, phức tạp, thậm chí có thể có những bước lùi tạm thời. Theo quan điểm biện chứng, sự phát triển là kết quả của quá trình biến đổi dần dần về lượng dẫn đến sự thay đổi về chất, là quá trình diễn ra theo đường xoay ốc. Điều đó có nghĩa là quá trình phát triển, dường như sự vật ấy quay trở về điểm khởi đầu, song trên cơ sở mới cao hơn. 2.1. Quan điểm duy tâm và quan điểm duy vật biện chứng về sự phát triển. - Quan điểm duy tâm về sự phát triển: cho rằng nguồn gốc của sự phát triển ở thần linh, thượng đế, ở các lực lượng siêu tự nhiên hay ở ý thức của con người. - Quan điểm duy vật biện chứng về sự phát triển: Khẳng định nguồn gốc của sự phát triển nằm trong bản thân sự vật. Đó là do mâu thuẫn trong chính sự vật quy định. Nói cách khác đó là quá trình giải quyết liên tục mâu thuẫn trong bản thân sự vật, do đó cũng là quá trình tự thân của mọi sự vật. Như vậy quan điểm duy vật biện chứng khẳng định rằng: sự phát triển là một phạm trù triết học dùng để chỉ quá trình vận động tiến lên từ thấp tới cao, từ đơn giản đến phức tạp, từ kém hoàn thiện đến hoàn thiện hơn của sự vật . 2.2. ý nghĩa phương pháp luận - Đòi hỏi khi xem xét bất kì sự vật, hiện tượng nào cũng phai đặt chúng trong sự vận động, phát triển, vạch ra xu hướng biến đổi, chuyển hoá của chúng . - Đòi hỏi không chỉ nắm bắt những cái hiện đang tồn tại ở sự vật, mà còn phải thấy rõ khuynh hướng phát triển trong tương lai của chúng, phải thấy được những biến đổi đi lên, cũng như những biến đổi có tính chất thụt lùi . - Phải bết phân chia quá trình phát triển của sự vật ấy thành những giai đoạn. Trên cơ sở ấy để tìm ra phương pháp nhận thức và cách tác động phù hợp nhằm thúc đẩy sự vật tiến triển nhanh hơn hoặc kìm hãm sự phát triển của nó, tuỳ theo sự phát triển đó có lợi hay có hại đối với đời sống của con người. - Góp phần khắc phục tư tưởng bảo thủ, trì trệ, định kiến trong hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn của chúng ta. Nếu chúng ta tuyệt đối hoá nhận thức, nhất là nhận thức khoa học về sự vật hay hiện tượng nào đó thì các khoa học tự nhiên, khoa học xã hội và nhân văn sẽ không thể phát triển và thực tiễn sẽ dẫm chân tại chỗ. Chính vì thế chúng ta phải tăng cường, phát huy nỗ lực của bản thân trong việc hiện thực hoá quan điểm phát triển vào nhận thức và cải tạo sự vật nhằm phục vụ nhu cầu, lợi ích của chúng ta và của toàn xã hội. II. Vận dụng nguyên lí vào thực tiễn 1. Khái quát chung về nền nông nghiệp Việt Nam. 1.1. Đặc điểm của nền nông nghiệp Việt Nam: Việt Nam là một nước có nền văn minh lúa nước từ lâu đời cho nên nông nghiệp gắn liền với người dân Việt Nam rất sâu sắc. Nền nông nghiệp VN mang những đặc điểm sau: - Xuất hiện và phát triển rất sớm ở nước ta. Nông nghiệp gắn liền với đời sống của mọi người dân, gắn liền với công cuộc dựng nước, giữ nước hàng ngàn năm của dân tộc ta . - Sản xuất nông nghiệp phụ thuộc rất nhiều vào tự nhiên. Những điều kiện tự nhiên như đất đai, nhiệt độ, độ ẩm, lượng mưa.... trực tiếp ảnh hưởng đến năng suất, sản lượng cây trồng vật nuôi. - Nông nghiệp cũng là nghành có năng suất lao động thấp vì đây là nghành phụ thuộc rất nhiều vào tự nhiên, là nghành sản xuất mà việc ứng dụng tiến bộ khoa hoc công nghệ gặp rất nhiều khó khăn . - Nông nghiệp ta chiếm tỉ trọng rất lớn trong GDP và thu hút một bộ phận lao động trong nước. - Nền nông nghiệp nước ta tuy phat triển theo chiều rộng nhưng mà chưa phát triển theo chiều sâu. Chưa áp dụng được nhiều máy móc, khoa học công nghệ vào sản xuất nên năng suất đạt được chưa cao. 1.2. Vai trò của nông nghiệp trong phát triển kinh tế a, Cung cấp lương thực, thực phẩm cho xã hội: Nghành nông nghiệp sản xuất ra lương thực để cung cấp cho toàn xã hội, góp phần ổn định xã hội, ổn định kinh tế. Đây cũng là tiền đề phát triển các mặt khác của đời sống kinh tế xã hội. b, Cung cấp nguyên liệu để phát triển công nghiệp nhẹ: Các nghành công nghiệp nhẹ như: chế biến lương thực thực phẩm, chế biến hoa quả, công nghiệp dệt, giấy, đường ... Phải dựa vào nguồn nguyên liệu chủ yếu từ nông nghiệp. Quy mô, tốc độ tăng trưởng của các nguồn nguyên liệu là nhân tố quyết định quy mô, tốc độ tăng trưởng của các nghành công nghiệp này . c, Cung cấp một phần vốn để công nghiệp hóa: Là 1 nước nông nghiệp thông qua việc xuất khẩu nông phẩm, nông nghiệp có thể góp vốn giải quyết nhu cầu vốn cho nền kinh tế. Khi có vốn, sự công nghiệp hoá đất nước sẽ thuận lợi hơn. d, Nông nghiệp nông thôn là thị trường quan trọng của các nghành công nghiệp và dịch vụ: Nông nghiệp nước ta tập trung một phần lớn lao động và dân cư, do đó đây là thị trường quan trọng của công nghiệp và dịch vụ. Nông nghiệp càng phát triển thì nhu cầu về hàng hoá tư liệu sản xuất như: thiết bị nông nghiệp, điện năng, phân bón thuốc trừ sâu... càng tăng đồng thời các nhu cầu về dịch vụ cho sản xuất nông nghiệp như: vốn, thông tin, giao thông vận tải, thương mại ... cũng ngày càng tăng. Mặt khác, sự phát triển nông nghiệp làm cho thu nhập của dân cư nông thôn tăng lên và nhu cầu của họ về các loại sản phẩm công nghiệp như: tivi, tủ lạnh, xe máy, vải vóc ... và nhu cầu về dịch vụ, văn hoá, y tế, giáo dục, du lịch, thể thao.... cũng ngày càng tăng. Nhu cầu về các loại sản phẩm công nghiệp và dịch vụ của khu vực công nông nghiệp góp phần mở rộng thị trường của công nghiệp và dịch vụ. Đây là điều kiện thuận lợi cho sự phát triển công nghiệp, dịch vụ . e, Tạo cơ sở ổn định kinh tế chính trị - xã hội: Nền nông nghiệp đảm bảo nhu cầu lương thực, thực phẩm cho xã hội, nguyên liệu cho công nghiệp nhẹ, là thị trường của công nghiệp và dịch vụ ... Do đó phát triển kinh tế nông nghiệp là cơ sở ổn định phát triển nền kinh tế quốc dân. Mặt khác, phát triển nông thôn trực tiếp nâng cao đời sống vật chất tinh thần cho dân cư nông thôn. Do đó phát triển nông thôn là cơ sở ổn định chính trị xã hội Nông nghiệp càng phát triển càng tạo điều kiện thuận lợi củng cố liên minh công nông, tăng cường sức mạnh của chuyên chính vô sản . 1.3. Nghành nông nghiệp trong mối liên hệ phổ biến và phát triển. a, Trong mối liên hệ phổ biến: Đặt nông nghiệp trong mối liên hệ phổ biến ta thấy được các sự vật hiện tượng, các quá trình khác nhau vừa tồn tại độc lập vừa quy định, tác động qua lại, chuyển hoá lẫn nhau. Cụ thể, trong nghành sản xuất nông nghiệp bao gồm rất nhiều các yếu tố của sản xuất như: sản xuất, thu hoạch, bán ra thị trường ... Mỗi yếu tố của sản xuất đều chiếm vịt trí quan trọng, không thể thiếu. Chúng đảm nhận những vai trò, chức năng khác nhau. Nhưng chúng không tồn tại độc lập, tách rời nhau mà chúng quy định, tác động qua lại lẫn nhau. Các quá trình sản xuất bổ sung lẫn nhau, tạo thành thể thống nhất hoàn thành nhiệm vụ sản xuất và đưa sản phẩm ra thị trường cho người tiêu dùng . Nhưng đặt ra câu hỏi: Cái gì quyết định mối liên hệ giữa các yếu tố sản xuất ? Chắc chắn đó không phải là các yếu tố thần linh, mà chính là yếu tố con người. Bắt đầu từ khâu đầu tiên của quá trình sản xuất đến chăm sóc, thu hoạch và bán hàng hoá. Tất cả do tay con người điều khiển và phân phối làm cho các quá trình trở thành một thể thống nhất . Các yếu tố trên đã khẳng định mối liên hệ trong quá trình sản xuất . b, Trong sự phát triển . Đặt nghành nông nghiệp trong sự phát triển, ta thấy sự phát triển, vươn lên lên rõ rệt của nghành công nghiệp. Từ thuở khai sinh, nông nghiệp chỉ phát triển đơn thuần nhưng qua thời gian cùng với sự phát triển của khoa hoc kỹ thuật nhiều giống cây mới, con mới ra đời và phát triển rộng rãi đã làm cho năng suất, chất lượng tăng lên rõ rệt. Tuy nhiên, quá trình đó diễn ra vừa dần dần, vừa nhảy vọt, đưa tới sự ra đời cái mới thay thế cái cũ . Nguồn gốc cảu sự phát triển nằm ngay trong bản thân của nghành nông nghiệp. sự phát triển đó là sự phủ định cái cũ, thay thế bằng cái mới tiến bộ hơn, hoàn thiện hơn. Đó là sự thay thế phủ định các giống cây, con năng suất thấp, khả năng chống chọi sâu bệnh thấp bằng các giống cây, con năng suất cao. Đó là sự thay thế phủ định của phương pháp canh tác lạc hậu, khoa học kỹ thuật thấp kém bằng khoa học công nghệ hiện đại .... Sự phát triển trong nông nghiệp đã làm cho nền nông nghiệp không ngừng phát triển và hoàn thiện hơn. 1.4. Những thành tựu của nền nông nghiệp. a, Thành tựu đạt được: Bằng những chính sách đường lối đúng đắn của đảng và nhà nước, nền nông nghiệp nước ta đã phát huy sức mạnh vốn có của mình và đạt được những thành tựu to lớn sau 20 năm đổi mới: - Tốc độ tăng trưởng nhanh, giải quyết tương đối vững chắc vấn đề lương thực. Lượng gạo xuất khẩu lớn và ổn định hơn một thập kỉ nay. Sau hơn 16 năm xuất khẩu gạo nông nghiệp nước ta đã cung cấp cho thị trường thế giới hàng chục triệu tấn gạo, thu về cho đất nước khoảng 10 tỷ USD. Trong quá trình đổi mới, nông nghiệp nước ta đã có mức tăng trưởng khá, tương đối liên tục. Trong nông nghiệp trên cơ sở tăng trưởng sản lượng lương thực và tự do hoá lưu thông lương thực, nhiều sản phẩm nông nghiệp đạt tăng trưởng khá cao. Bình quân lương thực theo đầu người ở nước ta tăng liên tục. Nếu như ở năm 1980 bình quân lương thực ở mức 267kg/người thì bình quân thời kì 1981-1985 đạt 295kg/người, năm 1990 là 327,5kg/người và đến năm 2003 là 464,8kg/người. Sản lượng lương thực tăng tạo ra lượng gạo lớn cho xuất khẩu, đồng thời là cơ sở kinh tế quan trọng để thúc đẩy tăng trưởng các sản phẩm khác trong nông nghiệp: năm tốc độ tăng giá trị sản xuất (%) tốc độ tăng gía trị gia tăng ( %) 1996 6,4 4,3 1997 4,9 3,5 1998 7,4 5,2 1999 7,3 4,6 2000 4,9 3,0 2001 6,5 4,1 2002 4,9 3,2 2003 6,2 4,1 - Cơ cấu nông nghiệp bước đầu có chuyển dịch. Nhiều loại nông sản được sản xuất theo vùng chuyên canh lớn, tỷ suất hàng hoá tăng nhanh như gạo, cà phê, cao su, chè. cây ăn quả, thuỷ sản .Đặc biệt từ năm 2000 đến nay, nông nghiệp đã thực sự chuyển sang chiều sâu . Trong nông thôn, các nghành nghề phi nông nghiệp đã được khôi phục và phát triển với hơn 1,35 triệu cơ sở kinh doanh, tạo việc làm cho hơn 10 triệu lao động, góp phần đưa tỉ lệ các hoạt động kinh tế phi nông nghiệp chiếm 30%( năm 2000) trong cơ cấu kinh tế nông thôn lên 35%( năm2003). Các làng nghề được khôi phục và phát triển hiện nay cả nước có 2.015 làng nghề. - Cơ sở vật chất kĩ thuật nhất là điện và thuỷ lợi được tăng cường. Chỉ tính 10 năm gần đây, năng lượng các công trình thuỷ lợi tăng thêm 1,4 triệu ha .Tỷ lệ số xã có đường ôtô đến trung tâm xã tăng từ 86,5 % năm 1994 lên 93% năm 1998. Nhà nước tập trung ưu tiên đầu tư cho việc xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế -xã hội miền núi. - Bước đầu hình thành những vùng nông sản tập trung quy mô lớn. Có 5 mặt hàng xuất khẩu chủ lực với kim nghạch trên 100 triệu USD/năm, xuất khẩu gạo và thuỷ sản những năm gần đây đạt trên 1 tỷ USD/ năm - Thu nhập bình quân của nông dân tăng nhanh. Thu nhập bình quân của hộ nông dân tăng từ 7,7 triệu đồng năm 1993 lên 9,8 triệu đồng năm 1998. Tỷ lệ trẻ em nông thôn suy dinh dưỡng từ 51% năm 1993 giảm còn 43% năm 1998. Số hộ nghèo đói ở nông thôn từ 29,1% năm 1993 giảm xuống còn 13,8% năm 1998 và 11% năm 2003. Năng lực cạnh tranh của nông sản từng bước được cải thiện. Thu nhập bình quân một nhân khẩu nông thôn từ 92.100đồng /tháng năm 1992 tăng lên 295.000/tháng năm 1999 và 365.000đồng/ tháng /bình quân 2 năm 2001-2002. Nhiều địa phương đã hoàn thành chương trình xây dựng bốn công trình chủ yếu ( điện, đường, trường học và trạm y tế) - Nền nông nghiệp bước đầu chuyển sang cơ chế thị trường. Do nhu cầu gắn với thị trường, nhất là thị trường thế giới, nhiều hoạt động công nghệ ,chế biến .... đã gắn bó với nông nghiệp để tạo ra những sản phẩm cạnh tranh trên thị trường thế giới. Tỷ lệ hàng hoá tăng, nền nông nghiệp Việt Nam đã thực sự chuyển sang sản xuất hàng hóa. Đến nay, nhiều loại nônh sản của nước ta không những đáp ứng thị trường trong nước mà còn chiếm thị phần đáng kể trên thị trường quốc tế trong điều kiện cạnh tranh ngày càng gay gắt. Việc chuyển nền nông nghiệp từ tự cung tự cấp sang sản xuất hàng hóa ở nước ta thật sự là một cuộc cách mạng lớn trong tư duy và cách làm nông nghiệp, hiểu mình để tìm ra lợi thế, hiểu đối thủ để cạnh tranh để có cách thức đối phó hữu hiệu, hiểu thị trường để có cách sản xuất, tiêu thụ thích ứng. Tỷ suất, quy mô hàng nông sản tăng liên tục không chỉ là kết quả của chủ trương chính sách đúng đắn của nhà nước mà còn là kết quả vươn lên của các chủ thể sản xuất, nuôi trồng, chế biến, tiêu thụ. Nhờ giải quyết được vấn đề lương thực, tự do lưu thông nông sản và nhiều chủ trương, chính sách khác nên cơ cấu nghành trồng trọt cũng có chuyển biến tích cực. Trong giai đoạn 1991-2000, diện tích cây lâu năm đạt tốc độ tăng trưởng bình quân 8,3%. Nhiều cây công nghiệp như đỗ tương, lạc, bông .. có tốc độ tăng trưởng khá cao. Trong thời gian trên, diện tích tăng hàng năm của đỗ tương là 5%, bông là 7,2%, lạc là 5%... b, Hạn chế và tồn tại: bên cạnh những thành tựu to lớn đạt được, nhưng do điều kiện tự nhiên không thuận lợi và các yếu tố khách quan tác động làm cho nền nông nghiệp nước ta vấp phải nhiều khó khăn, từ đó bộc lộ ra các hạn chế và tồn tại sau: - Trình độ công nghệ kỹ thuật còn lạc hậu, hầu hết các khâu canh tác nông nghiệp chủ yếu vẫn dùng sức người và sức kéo gia súc - Năng suất lao động cây trồng còn thấp. Mức độ khai thác nguồn lực còn thấp. Năng suất lúa của chúng ta chỉ bằng 80% của Inđônêxia và 60% của Trung Quốc. - Khả năng cạnh tranh hàng hoá nông sản và hàng hoá sản xuất từ nông thôn rất hạn chế. Tiêu thụ nông sản đang trở thành thách thức lớn đối với sự phát triển nông nghiệp nước ta.Giá nông sản giảm sút. Đến nay trừ một số nông sản có khả năng cạnh tranh cao như gạo, hồ tiêu, hạt điều .... còn lại năng lực cạnh tranh của hầu hết nông sản nước ta đều thấp. VD: năng suất dứa chỉ đạt 13tấn/ha. Chi phi bảo quản, chế biến, dịch vụ vận tải .... của các nông sản VN đều cao hơn nhiều so với nhiều nước trong khu vực, làm cho khă năng cạnh tranh của hầu hết nông sản Việt Nam đều thấp. Các hoạt động nông nghiệp, dịch vụ liên quan đến chế biến và lưu thông nông sản đều cao hơn so với nhiều nước. Tỷ lệ hao hụt sau khi thu hoạch của rau quả thường đến mức 20-25% sản lượng. Các nghành sản xuất vật tư máy móc nông nghiệp quy mô nhỏ, giá thành sản phẩm cao nên ko đáp ứng được nhu cầu nông nghiệp. - Chuyển dịch cơ cấu kinh tế chậm, không sát thị trường. Thể hiện ở nhiều khía cạnh, tính cách độc canh lúa chậm thay đổi, nhiều loại nông sản khó tiêu thụ, quy mô tăng giảm thất thường . Nông thôn nước ta chiếm khoảng 70% lao động xã hội, dù có nhiều giải pháp tích cực tạo việc làm nhưng tỉ lệ thiếu việc làm, thất nghiệp ở nông thôn vẫn rất cao. Năm 1997, tỷ lệ sử dụng lao động nông thôn trong độ tuổi là 71,3%, năm 2000 là 74,2% năm 2003 là 77,7%. Thiếu việc làm và thiếu thu nhập là nguyên nhân gây ra nhiều hậu quả xấu về kinh tế -xã hội và môi trường sinh thái. - Đời sống của nhân dân nói chung còn thấp kém, kết cấu hạ tầng còn lạc hậu. Chênh lệch giữa thành thị và nông thôn, giữa các vùng và ngay trong từng vùng ngày càng gia tăng. Năm 1994 mưc thu nhập bình quân của một nhân khẩu ở nông thôn là 1 thì thu nhập mọtt nhân khẩu ở thành thị là 2,25 đến năm 1999 tăng 3,7 - Chất lượng hiệu quả của lao động nông nghiệp thấp. Những điều kiện để đầu tư tích luỹ, tăng nội lực đều thấp kém. Lao động nông thôn nhiều nhưng sức khoẻ yếu, tay nghề thấp, khả năng tiếp cận thị trường thông tin kinh tế rất hạn chế . Theo ước tính của bộ kế hoạch và đầu tư, dân cư nông thôn chiếm khoảng 70% dân số cả nứớc nhưng chỉ chiếm 29-33% tỉ lệ chi phí tiêu dùng của xã hội (giai đoạn 1996-1998). Do thu nhập thấp của nông dân phải góp nhiều khoản trái với quy định của nhà nước nên tích luỹ của nông dân để mở rộng sản xuất rất thấp. Từ năm 1990-1995, tỉ lệ tiết kiệm của nông dân từ 5,2% tăng lên 10,6% so với thu nhập nhưng do thu nhập thấp nên số dư tuyệt đối không nhiều. Hơn nữa, số hộ có tích luỹ chỉ tập trung vào những vùng sản xuất hàng hóa có bình quân ruộng đất theo đầu người cao. - Tài nguyên bị giảm sút, môi trường bị ô nhiễm nghiêm trọng ở nhiều địa phương. Độ che phủ rừng đến năm 1996 chỉ còn 28%. Những năm gần đây độ che phủ của rừng tăng lên nhưng chưa đạt yêu cầu cần thiết để giữ vững môi trường môi sinh. Nguồn lợi hải sản bị giảm sút. Việc đánh bắt hải sản bằng những cách thức có tính chất huỷ diệt đang diễn ra ở nhiều nơi. - Quyền làm chủ của dân cư nông thôn bị vi phạm nghiêm trọng ở một số nơi. Nông thôn xuất hiện nhiều vấn đề xã hội cần giải quyết: + ở một số vùng miền núi, vùng đồng bào dân tộc thiểu số - nhất là ở Tây Nguyên, các thế lực thù địch trong và ngoài nước tăng cường hoạt động chống phá chế độ ta . + ở một số tỉnh đồng bằng, giá đất, nhà tăng nhanh cùng với việc chuyển đất nông nghiệp sang đất công nghiệp nhanh chóng. - Năng lực chung của các đơn vị kinh doanh trong nông nghiệp còn yếu kém. Lực lưỡng sản xuất chủ yếu trong nông nghiệp là 13 triệu hộ nông dân. Mặc dù đã trở thành đơn vị sản xuất tự chủ nhưng năng lực của hộ nông dân thấp: Tỷ lệ hộ làm nông nghiệp cao, thuần trồng trọt nhưng bình quân đất nông nghiệp thấp, mức tích luỹ thấp, trình độ văn hóa tay nghề còn hạn chế. Hầu hết các doanh nghiệp nhà nước trong nông lâm nghiệp đều nhỏ, năng lực và hiệu quả doanh nghiệp thấp. Trên thực tế, nhiều công ty hội đồng quản trị chỉ tồn tại như là tổ chửc trung gian, không đủ quyền lực tổ chức, quản lý nghành, sản phẩm trên từng địa bàn. Đa số các doanh nghiệp nhà nước chưa thực hiện tốt nhiệm vụ doanh nghiệp, quản lý nội bộ nên không làm được nhiệm vụ trung gian liên kết, hỗ trợ, làm gương cho các thành phần kinh tế khác trong nông nghiệp, nhất là hỗ trợ kinh tế hộ nông dân và hợp tác xã. - Doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài là hình thức kinh doanh được hinh thành ở nước ta trong khoảng 20 năm gần đây, tuy nhiên: + Tỷ lệ đầu tư của nước ngoài vào nông nghiệp quá thấp. + Hầu hết các doanh nghiệp đầu tư trực tiếp nước ngoài trong nông nghiệp hoạt động chưa hiệu quả . Trên đây là một số hạn chế và tồn tại còn mắc phải đã làm kìm hãm phần nào sự phát triển của nền nông nghiệp nước ta. Vì vậy, để nền nông nghiệp phát triển nhanh chóng cần có 1 quan điểm toàn diện, thống nhất trong sự phát triển nền nông nghiệp. 2. Giải pháp đối với nền nông nghiệp Việt Nam 2.1. Xác định đúng vai trò của nông nghiệp trong chiến lược phát triển kinh tế- xã hội tạo căn cứ để đề ra chính sách và giải pháp phu hợp. Mọi chính sách, chủ trương phát triển nông nghiệp phải chú ý đến nông dân, vì mục tiêu động lực chính để phát triển nông nghiệp là nông dân. Nông thôn phải từng bước được phát triển đáp ứng những điều kiện về chất, văn hoá tinh thần của nông dân và dân cư. Quá trình phát triển nông nghiệp, xây dựng nông thôn về mặt xã hội phải gắn liền với quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn theo hướng tăng tỉ lệ các hoạt động phi nông nghiệp Phát triển bền vững các lĩnh vực: bền vững về kinh tế, bền vững chính trị, xã hội, bền vững về tài nguyên môi trường. 2.2. Tiếp tục thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp, nông thôn theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Bảo đảm an ninh lương thực quốc gia. Tuy nhiên, phải giải quyết vấn đề an ninh lương thực theo quan điểm sản xuất hàng hoá và nâng cao hiệu quả chung của nghành nông nghiệp. Trong chuyển dịch trồng trọt, tạo điều kiện cho các hộ nông dân chuyển dịch theo hướng tạo ra thu nhập và lãi lớn nhất trên một đơn vị diện tích đất đai. Lựa chọn các nhóm cây trồng, vật nuôi có khả năng cạnh tranh cao, có giá trị xuất khẩu lớn. Mở rộng nuôi trồng thuỷ sản, ưu tiên chăn nuôi những nghành ít tiêu dùng lương thực Chuyển dich cơ cấu kinh tế nông thôn, giảm số lượng người thất nghiệp. a, Tăng cường vốn đầu tư và nâng cao hiệu quả sử dụng vốn trong phát triển nông nghiệp, nông thôn. Qua thống kê cho thấy đầu tư từ ngân sách cho nông nghiệp chưa tương xứng với vai trò của nông nghiệp trong nền kinh tế quốc dân. Trong khi nền nông nghiệp nước ta còn phát triển lạc hậu thì vốn rất quan trọng để đầu tư trang thiết bị, khoa học kĩ thuật đ

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docQuan điểm toàn diện trong vấn đề phát triển nền nông nghiệp Việt Nam hiện nay.doc
Tài liệu liên quan