Tiểu luận Quy chế pháp lý về vốn trong công ty cổ phần và một số giải pháp hoàn thiện quy chế

MỤC LỤC

MỞ ĐẦU 2

NỘI DUNG 2

I./ KHÁI QUÁT VỀ CÔNG TY CỔ PHẦN 2

1. Khái niệm 2

2. Đặc điểm 3

II./ QUY CHẾ PHÁP LÝ VỀ VỐN TRONG CÔNG TY CỔ PHẦN 4

1. Khái niệm và đặc điểm 4

1.1 Khái niệm 4

1.2 Đặc điểm 5

2. Cấu trúc vốn trong CTCP 5

2.1 Vốn điều lệ 5

2.2 Vốn vay 7

3. Chủ thể góp vốn 8

4. Tài sản góp vốn 8

5. Chuyển nhượng cổ phần 9

5.1 Chuyển nhượng cổ phần cho người khác 9

5.2 Yêu cầu công ty mua lại cổ phần 10

6. Các trường hợp thay đổi vốn của CTCP 11

6.1 Các trường hợp tăng vốn của công ty 11

6.2 Các trường hợp giảm vốn của công ty 13

7. Cơ chế quản lý, sử dụng vốn 14

IV./ MỘT SỐ KIẾN NGHỊ NHẰM HOÀN THIỆN CÁC QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT CÓ LIÊN QUAN 15

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 17

 

 

doc18 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 5903 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tiểu luận Quy chế pháp lý về vốn trong công ty cổ phần và một số giải pháp hoàn thiện quy chế, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ổ đông có thể là tổ chức, cá nhân; số lượng cổ đông tối thiểu là ba và không hạn chế số lượng tối đa; c) Cổ đông chỉ chịu trách nhiệm về các khoản nợ và nghĩa vụ tài sản khác của doanh nghiệp trong phạm vi số vốn đã góp vào doanh nghiệp; d) Cổ đông có quyền tự do chuyển nhượng cổ phần của mình cho người khác, trừ trường hợp quy định tại khoản 3 Điều 81 và khoản 5 Điều 84 của Luật này”. Từ quy định trên, ta có thể hiểu khái niệm CTCP một cách khái quát như sau: “CTCP là loại hình đặc trưng của công ty đối vốn, vốn của công ty được chia thành nhiều phần bằng nhau gọi là cổ phần, người sở hữu cổ phần gọi là cổ đông, chỉ chịu trách nhiệm về các khoản nợ của công ty cho đến hết giá trị cổ phần mà họ sở hữu. CTCP được quyền phát hành chứng khoán và có tư cách pháp nhân”. 2. Đặc điểm Từ khái niệm đã nêu trên, có thể nhận thấy một vài đặc điểm cơ bản của CTCP dựa vào đó để phân biệt với công ty trách nhiệm hữu hạn và công ty hợp danh như sau: Thành viên của công ty: tối thiểu phải có ba thành viên tham gia công ty trong suốt quá trình hoạt động, không giới hạn số lượng tối đa. Cổ đông có thể là tổ chức, cá nhân (trừ trường hợp được quy định tại Điều 13 Luật doanh nghiệp). Vốn điều lệ: vốn điều lệ của công ty được chia thành những phần bằng nhau gọi là cổ phần. Pháp luật không quy định mỗi thành viên có thể mua tối đa bao nhiêu cổ phần nhưng các thành viên có thể thoả thuận trong điều lệ công ty giới hạn tối đa số cổ phần mà một thành viên có thể mua nhằm chống lại việc một thành viên nào đó có thể nắm quyền kiểm soát công ty. Chế độ trách nhiệm: có sự tách bạch tài sản của công ty và của cổ đông công ty, cổ đông chỉ chịu trách nhiệm về các khoản nợ và nghĩa vụ tài sản của công ty trong phạm vi số vốn đã góp vào công ty, CTCP chịu trách nhiệm về các khoản nợ và các nghĩa vụ tài sản khác của công ty trong phạm vi tài sản của công ty. Chuyển nhượng phần vốn góp (cổ phần): phần gốn góp của các thành viên được thể hiện dưới hình thức cố phiếu. Đây là một loại hàng hóa và cổ đông công ty có quyền tự do chuyển nhượng cổ phần theo quy định của pháp luật. Phát hành chứng khoán: CTCP có quyền phát hành chứng khoán ( cổ phiếu, trái phiếu) ra công chúng theo quy định của pháp luật về chứng khoán để huy động vốn. Điều này thể hiện lợi thế của CTCP là có khả năng huy động vốn lớn. Tư cách pháp lý CTCP là doanh nghiệp có tư cách pháp nhân, xuất hiện kể từ ngày được cấp giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh. II./ QUY CHẾ PHÁP LÝ VỀ VỐN TRONG CÔNG TY CỔ PHẦN 1. Khái niệm và đặc điểm 1.1 Khái niệm Vốn: Trong cơ chế thị trường, để tiến hành sản xuất kinh doanh, bất kì doanh nghiệp nào cũng cần phải có vốn. Vốn có ý nghĩa quyết định tới mọi khâu của quá trình kinh doanh. Vì vậy, để có thể sử dụng và nâng cao hiệu quả sử dụng vốn trong kinh doanh, các doanh nghiệp cần thiết phải hiểu về vốn và các đặc trưng của vốn Theo quan điểm của nhiều nhà kinh tế học hiện thì vốn trong kinh doanh trong các doanh nghiệp là một loại quĩ tiền tệ đặc biệt. Trong nền kinh tế thị trường, vốn là yếu tố vô cùng quan trong để các doanh nghiệp tiến hành sản xuất kinh doanh. Doanh nghiệp được toàn quyền linh hoạt sử dụng vốn sao cho nó mang lại hiệu quả cao nhất cho doanh nghiệp. Vì vậy để quản lý và nâng cao hiệu quả sử dụng vốn cần phải nhận thức đầy đủ đặc trưng chủ yếu của vốn kinh doanh: Quy chế pháp lý về vốn trong CTCP: Xét về mặt khách quan, tất cả những quy phạm pháp luật liên quan đến vốn của CTCP đã hình thành một “quy chế pháp lý về vốn trong CTCP”. Do đó có thể định nghĩa: “quy chế pháp lý về vốn trong CTCP” là tổng thể các quy phạm pháp luật điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh trong quá trình góp vốn, quản lý sử dụng vốn, chuyển nhượng vốn và những vấn đề khác liên quan đến sự thay đổi vốn của CTCP. Xét theo nghĩa chủ quan, trên cơ sở những quy định của pháp luật, trong quá trình tổ chức, quản lý, điều hành công ty các chủ sở hữu công ty có thể cùng nhau xây dựng một hệ thống quy tắc điều chỉnh quan hệ mang tính chất nội bộ trong quá trình quản lý, sử dụng vốn của công ty. Như vậy, dưới góc độ này, “quy chế pháp lý về vốn trong CTCP” là tổng hợp những quy tắc thể hiện ý chí, quyền tự định đoạt của nhà đầu tư vốn đối với những vấn đề liên quan đến vốn và tài sản của CTCP. 1.2 Đặc điểm Từ những khái niệm nêu trên, ta có thể thấy quy chế pháp lý về vốn trong CTCP có những đặc điểm sau: Thứ nhất, nó vừa thể hiện ý chí của Nhà nước vừa thể hiện ý chí của nhà đầu tư vốn. Thứ hai, nó quy định quyền và nghĩa vụ của công ty, của các thành viên công ty đối với vốn và tài sản của công ty. Thứ ba, nội dung chủ yếu của quy chế pháp lý về vốn trong CTCP được thể hiện chủ yếu và cụ thể trong điều lệ công ty, bao gồm những nội dung cơ bản như: cấu trúc vốn, chủ thể góp vốn, huy động vốn, vấn đề chuyển nhượng cổ phần, các trường hợp tăng, giảm vốn của công ty ... 2. Cấu trúc vốn trong CTCP Xét về phương diện cấu trúc, vốn của doanh nghiệp nói chung và của CTCP nói riêng được hiểu là một chỉnh thể thống nhất, bao gồm các bộ phận cấu thành có mối quan hệ tác động qua lại lẫn nhau. Nhìn từ góc độ pháp lý, cấu trúc vốn của doanh nghiệp gồm: vốn điều lệ và vốn vay. 2.1 Vốn điều lệ Theo Khoản 6 Điều 4 Luật Doanh nghiệp, vốn điều lệ  được định nghĩa là “số vốn do các thành viên, cổ đông góp hoặc cam kết góp trong một thời hạn nhất định và được ghi vào Điều lệ công ty”. Vốn điều lệ của CTCP được chia thành các phần bằng nhau gọi là cổ phần. Mệnh giá cổ phần do công ty quyết định và được phản ánh trong cổ phiếu. Vốn điều lệ của công ty có thể bao gồm nhiều loại cổ phần với những tính chất pháp lý khác nhau. Cụ thể đó là: Cổ phần phổ thông: đây là loại cổ phần bắt buộc phải có của CTCP, người sở hữu cổ phần phổ thông gọi là cổ đông phổ thông. Cổ đông phổ thông chỉ được trả cổ tức khi công ty kinh doanh có lãi, đã hoàn thành các nghĩa vụ thuế và các nghĩa vụ tài chính khác theo quy định của pháp luật, trích lập các quỹ công ty và bù đắp đủ lỗ trước đó theo quy định của pháp luật và Điều lệ công ty. Ngoài ra, cổ đông phổ thông có các quyền như: quyền biểu quyết, quyền được ưu tiên mua cổ phần mới chào bán tương ứng với tỷ lệ cổ phần phổ thông, được tự do chuyển nhượng cổ phần (trừ trường hợp cổ phần phổ thông của cổ đông sáng lập)… Cổ phần ưu đãi: là loại cổ phần có tính chất pháp lý khác biệt so với cổ phần phổ thông. Người sở hữu cổ phần ưu đãi gọi là cổ đông ưu đãi, được hưởng một số quyền lợi cao hơn quyền lợi của người sở hữu cổ phần phổ thông và phải chịu một số hạn chế khác. Cổ phần ưu đãi có thể được chuyển đổi thành cổ phần phổ thông theo quyết định của Đại hội đồng cổ đông nhưng cổ phần phổ thông không thể được chuyển đổi thành cổ phần ưu đãi. Cổ phần ưu đãi của CTCP bao gồm: Cổ phần ưu đãi biểu quyết: là loại cổ phần có số phiếu biểu quyết nhiều hơn so với cổ phần phổ thông. Số phiếu biểu quyết của một cổ phần ưu đãi biểu quyết do Điều lệ công ty quy định. Theo quy định tại khoản 3 Điều 78 Luật doanh nghiệp 2005 thì chỉ có tổ chức được Chính phủ uỷ quyền và cổ đông sáng lập mới được quyền nắm giữ cổ phần ưu đãi biểu quyết trong CTCP. Cổ phần ưu đãi biểu quyết của cổ đông sáng lập chỉ có hiệu lực trong vòng 3 năm kể từ ngày công ty được cấp Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh. Sau thời hạn đó, cổ phần ưu đãi biểu quyết của cổ đông sáng lập chuyển đổi thành cổ phần phổ thông. Cổ phần ưu đãi biểu quyết không được chuyển nhượng. Cổ phần ưu đãi cổ tức: là cổ phần được trả số cổ tức với mức cao hơn so với mức cổ tức của cổ đông phổ thông hoặc mức cổ tức hàng năm gồm cổ tức cố định và cổ tức thưởng. Người được quyền mua cổ phần ưu đãi cổ tức do Điều lệ công ty quy định hoặc do Đại hội đồng cổ đông quyết định. Mức cổ tức cố định cụ thể và phương thức xác định cổ tức thưởng được ghi trên cổ phiếu của cổ phần ưu đãi cổ tức. Do đã được ưu đãi trong việc trả cổ tức nên cổ đông sở hữu cổ phần ưu đãi cổ tức bị hạn chế một số quyền như: không có quyền biểu quyết; quyền dự họp Đại hội đồng cổ đông; quyền đề cử người vào Hội đồng quản trị, Ban kiểm soát. Cổ phần ưu đãi hoàn lại: đây là loại cổ phần sẽ được công ty hoàn lại vốn góp bất cứ khi nào theo yêu cầu của người sở hữu cổ phần hoặc theo các điều kiện được ghi tại cổ phiếu của cổ phần ưu đãi hoàn lại (Điều 83 Luật doanh nghiệp 2005). Cổ đông sở hữu cổ phần ưu đãi này có các quyền như cổ đông phổ thông và cũng bị hạn chế một số quyền như đối với cổ đông sở hữu cổ phần ưu đãi cổ tức. Cổ phần ưu đãi khác do Điều lệ công ty quy định. Có thể thấy rằng, với cơ cấu vốn điều lệ có thể bao gồm nhiều loại cổ phần với những tính chất pháp lý đa dạng, CTCP có thể thiết lập cơ chế góp vốn linh hoạt, đáp ứng được những nguyện vọng, yêu cầu khác nhau của các nhà đầu tư. Mặt khác, tính tự do chuyển nhượng của các cổ phần đã quy định cấu trúc “vốn mở” của CTCP. Với cấu trúc này, vốn của CTCP có thể thay đổi uyển chuyển, linh hoạt mà không ảnh hưởng đến sự tồn tại của công ty. 2.2 Vốn vay Vốn vay có ý nghĩa quan trọng đối với các công ty đang trong tình trạng khó khăn về tài chính hay công ty muốn thay đổi quy trình công nghệ cũng như mở rộng quy mô sản xuất. Vốn vay là nguồn vốn huy động từ bên ngoài bằng các hình thức khác nhau như: vay ngân hàng; vay của các tổ chức, cá nhân khác ... và phát hành trái phiếu. Nguồn vốn vay bằng hình thức trái phiếu có vị trí quan trọng và thể hiện rõ ưu thế của CTCP so với nhiều hình thức doanh nghiệp khác. Tóm lại, cấu trúc vốn là một yếu tố vô cùng quan trọng đối với các doanh nghiệp nói chung và CTCP nói riêng. Nguồn vốn của công ty phải đáp ứng được một cách đích thực cho quá trình đầu tư, phát huy được vai trò và ý nghĩa trong hoạt động kinh doanh của công ty. Các nhà đầu tư cần chú trọng đến tỷ lệ, mối tương quan về mặt giá trị giữa các loại vốn sao cho thật phù hợp, tạo khả năng mạnh mẽ nhất để công ty đạt lợi nhuận tối đa và có nền tài chính lành mạnh phù hợp với quy định của pháp luật. 3. Chủ thể góp vốn Tự do kinh doanh là một trong những quyền cơ bản của công dân, được cụ thể hóa tại Điều 57 Hiến pháp 1992: “Công dân có quyền tự do kinh doanh theo quy định của pháp luật”. Trên cơ sở đó, khoản 1 Điều 13 Luật doanh nghiệp 2005 cũng quy định: “Tổ chức, cá nhân Việt Nam, tổ chức, cá nhân nước ngoài có quyền thành lập và quản lý doanh nghiệp tại Việt Nam theo quy định của Luật này...”. Tuy nhiên, mặc dù pháp luật thừa nhận quyền tự do kinh doanh của các cá nhân, tổ chức, song không phải mọi chủ thể đều có thể thực hiện quyền năng này, khoản 2 Điều 13 đã quy định một số đối tượng không được thành lập và quản lý doanh nghiệp nói chung cũng như CTCP nói riêng. Ngoài ra, khi tiếp nhận vốn góp của các nhà đầu tư, công ty cũng cần xem xét những trường hợp tổ chức, cá nhân không được mua cổ phần của CTCP tại Khoản 4 Điều 13 Luật doanh nghiệp 2005 Chủ thể góp vốn vào CTCP sẽ trở thành cổ đông của công ty. Khi đã trở thành cổ đông của công ty, họ có các quyền và nghĩa vụ theo quy định của pháp luật và Điều lệ công ty. 4. Tài sản góp vốn Các tài sản góp vốn vào CTCP bao gồm các loại: tiền Việt Nam, ngoại tệ tự do chuyển đổi, vàng, giá trị quyền sử dụng đất, giá trị quyền sở hữu trí tuệ, công nghệ, bí quyết kỹ thuật, các tài sản khác theo quy định tại Điều lệ công ty. Nếu tài sản góp vốn không phải là tiền VN, ngoại tệ tự do chuyển đổi, vàng thì tài sản này phải được các thành viên, cổ đông sáng lập hoặc tổ chức định giá chuyên nghiệp định giá tài sản. Việc định giá này giúp làm rõ giá trị góp vốn mà mỗi cá nhân góp vào khi tham gia công ty và làm căn cứ để khấu hao về sau do quá trình sử dụng Tài sản góp vốn này có 2 loại: Tài sản có đăng ký hoặc giá trị quyền sử dụng đất và tài sản không đăng ký quyền sở hữu: 1. Đối với tài sản có đăng ký hoặc giá trị quyền sử dụng đất thì người góp phải làm thủ tục chuyển quyền sở hữu tài sản cho công ty; 2.Đối với tài sản không đăng ký quyền sở hữu thì việc góp vốn phải bằng việc giao nhận có xác nhận bằng văn bản 5. Chuyển nhượng cổ phần Việc chuyển nhượng cổ phần có thể được thực hiện bằng hai cách thức, đó là: chuyển nhượng cổ phần cho người khác và yêu cầu công ty mua lại phần vốn góp của mình. 5.1 Chuyển nhượng cổ phần cho người khác Theo quy định tại khoản 5 Điều 87 Luật doanh nghiệp 2005, cổ đông CTCP có quyền tự do chuyển nhượng cổ phần của mình cho người khác, trừ hai trường hợp sau: Đối với cổ phần ưu đãi biểu quyết: Khoản 3 Điều 81 quy định: “Cổ đông sở hữu cổ phần ưu đãi biểu quyết không được chuyển nhượng cổ phần đó cho người khác”. Như vậy, nếu muốn chuyển nhượng những cổ phần này, người sở hữu cổ phàn phải chuyển đổi từ cổ phần ưu đãi biểu quyết sang cổ phần phổ thông. Đối với cổ phần phổ thông của cổ đông sáng lập: Việc chuyển nhượng đối với cổ phần phổ thông của cổ đông sáng lập bị hạn chế một phần, cụ thể là: trong ba năm đầu kể từ ngày công ty được cấp Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh, các cổ đông sáng lập phải cùng nhau nắm giữ ít nhất 20% tổng số cổ phần phổ thông được quyền chào bán. Số cổ phần này có thể được tự do chuyển nhượng cho cổ đông sáng lập khác, nhưng chỉ được chuyển nhượng cho người không phải là cổ đông sáng lập của công ty nếu được sự chấp thuận của Đại hội đồng cổ đông và người chuyển nhượng sẽ không được biểu quyết việc chuyển nhượng này. Việc chuyển nhượng vốn trong CTCP được thực hiện tương đối dễ dàng, thuận tiện cho các nhà đầu tư. Đó cũng chính là một trong những ưu điểm nổi trội của CTCP so với các loại hình công ty khác. 5.2 Yêu cầu công ty mua lại cổ phần Mua lại phần vốn góp của một thành viên nào đó trong công ty thực chất là việc công ty thu hồi lại một số cổ phần đã phát hành và trả cho cổ đông đó một số tiền tương ứng với giá trị số cổ phần mà cổ đông yêu cầu công ty mua lại. Số cổ phần công ty mua lại sẽ trở thành cổ phần chưa bán trong số cổ phần được chào bán. Yêu cầu công ty mua lại cổ phần là một quyền quan trọng của cổ đông, nhất là đối với những cổ đông thiểu số, họ có thể sử dụng quyền này như một công cụ để bảo vệ quyền lợi của mình. Nhưng do việc mua lại cổ phần có thể ảnh hưởng tới vốn điều lệ công ty, nên cổ đông chỉ có thể thực hiện quyền đó những trường hợp nhất định. Điều 90 Luật doanh nghiệp đã quy định: “Cổ đông biểu quyết phản đối quyết định về việc tổ chức lại công ty hoặc thay đổi quyền, nghĩa vụ của cổ đông quy định tại Điều lệ công ty có quyền yêu cầu công ty mua lại cổ phần của mình ...”. Yêu cầu này phải được thể hiện bằng văn bản, trong đó nêu rõ những nội dung sau: tên, địa chỉ của cổ đông, số lượng cổ phần từng loại, giá dự định bán và lý do yêu cầu công ty mua lại cổ phần. Đơn yêu cầu phải được gửi đến công ty trong thời hạn mười ngày làm việc kể từ ngày Đại hội đồng cổ đông thông qua quyết định về những vấn đề trên. Trong thời hạn 90 ngày, công ty phải mua lại cổ phần theo yêu cầu của cổ đông. Trường hợp không thoả thuận được về giá thì cổ đông đó có thể bán cổ phần cho người khác hoặc nhờ tổ chức định giá chuyên nghiệp định giá. 6. Các trường hợp thay đổi vốn của CTCP Sự thay đổi vốn của CTCP là sự điều chỉnh về vốn trong công ty, có thể tăng lên hoặc giảm đi so với số vốn ban đầu. Đối với CTCP, với một cấu trúc vốn uyển chuyển và linh hoạt đương nhiên sẽ có nhiều điều kiện lựa chọn những biện pháp thích hợp để điều chỉnh nguồn vốn của mình, để có được một cơ cấu vốn tốt nhất, phù hợp với quy mô sản xuất, kinh doanh của công ty, đáp ứng được nhu cầu tồn tại, phát triển, đảm bảo thu được lợi nhuận trong quá trình hoạt động kinh doanh. Vấn đề này được điều chỉnh bởi các văn bản pháp luật như: Luật doanh nghiệp 2005, Luật chứng khoán, Nghị định của Chỉnh phủ số 52/2006/NĐ-CP về pháp hành trái phiếu doanh nghiệp. 6.1 Các trường hợp tăng vốn của công ty Việc huy động vốn của CTCP được xác định theo hai trường hợp sau: Tăng vốn vay của CTCP: Vay vốn của các tổ chức tín dụng thông qua hợp đồng tín dụng, vay của các tổ chức, cá nhân khác .... Ngoài ra, theo Điều 88 Luật doanh nghiệp 2005, CTCP còn có thể tăng vốn vay bằng cách phát hành trái phiếu. Theo Điều 2 Nghị định số 52/2006/NĐ-CP ngày 19/5/2006 về phát hành trái phiếu doanh nghiệp: “Trái phiếu doanh nghiệp (sau đây gọi tắt là trái phiếu) là một loại chứng khoán nợ do doanh nghiệp phát hành, xác nhận nghĩa vụ trả cả gốc và lãi của doanh nghiệp phát hành đối với người sở hữu trái phiếu”. Về bản chất pháp lý, trái phiếu là một loại chứng chỉ xác nhận nợ của người phát hành đối với người sở hữu nó. Theo quy định tại Nghị định 52/2006/NĐ-CP thì CTCP có thể phát hành cả hai loại trái phiếu là trái phiếu chuyển đổi và trái phiếu không chuyển đổi. Điều kiện để một doanh nghiệp nói chung cũng như CTCP nói riêng được quyền phát hành trái phiếu được quy định rõ tại Điều 17 của Nghị định nói trên. Tăng vốn điều lệ của CTCP: Để đáp ứng nhu cầu kinh doanh, CTCP có thể tăng vốn điều lệ trong quá trình hoạt động của mình. Theo pháp luật hiện hành, CTCP có quyền tăng vốn điều lệ bằng cách phát hành cổ phiếu. Cổ phiếu là chứng chỉ do CTCP phát hành hoặc bút toán ghi sổ xác nhận quyền sở hữu và lợi ích hợp pháp của người sở hữu cổ phiếu đối với tài sản hoặc vốn của CTCP. Có hai loại cổ phiếu đó là cổ phiếu ghi tên và cổ phiếu không ghi tên. Theo quy định tại Điều 12 Luật chứng khoán, điều kiện để chào bán cổ phiếu ra công chúng là: Doanh nghiệp có mức vốn điều lệ đã góp tại thời điểm đăng ký chào bán từ mười tỷ đồng Việt Nam trở lên tính theo giá trị ghi trên sổ kế toán; Hoạt động kinh doanh của năm liền trước năm đăng ký chào bán phải có lãi, đồng thời không có lỗ luỹ kế tính đến năm đăng ký chào bán; Có phương án phát hành và phương án sử dụng vốn thu được từ đợt chào bán được Đại hội đồng cổ đông thông qua. Bên cạnh việc phát hành cổ phiếu, trên thực tế CTCP còn có thể tăng vốn điều lệ bằng việc trích từ quỹ dự trữ của công ty vào vốn điều lệ. Công ty có thể chuyển một phần quỹ dự trữ vào vốn điều lệ dưới dạng cổ phần, thực hiện theo một trong hai cách, đó là: phát hành cổ phiếu mới trong phạm vi nội bộ công ty và chia cho mỗi cổ đông theo tỷ lệ cổ phần của họ; hoặc công ty không phát hành cổ phần mới mà lấy quỹ dự trữ chia cho tổng số cổ phần hiện đang lưu hành của công ty, phần chia thêm là giá trị tăng thêm của cổ phần và được ghi vào từng cổ phiếu. Biện pháp tăng vốn này không làm thay đổi quyền biểu quyết của cổ đông, bởi vì tỷ lệ vốn góp của mỗi thành viên công ty là không thay đổi. Do đó nó không ảnh hưởng đến cơ cấu quyền lực trong công ty, nhưng công ty vẫn phải làm thủ tục sửa đổi Điều lệ theo sự quyết định của Đại hội đồng cổ đông. Ngoài ra, vốn điều lệ của CTCP còn tăng lên khi các trái phiếu chuyển đổi do công ty phát hành được đổi thành cổ phần phổ thông, nghĩa là vốn vay được chuyển thành vốn điều lệ. Sự chuyển đổi này chỉ diễn ra khi đáp ứng đủ những điều kiện đã được xác định trước ghi trong trái phiếu và có sự ưng thuận của người chủ sở hữu trái phiếu đó. Quyền quyết định tăng vốn điều lệ theo hình thức này cũng thuộc về Đại hội đồng cổ đông và phải sửa Điều lệ công ty. Mọi trường hợp tăng vốn đều phải làm thủ tục sửa đổi Điều lệ công ty, trừ trường hợp điều chỉnh vốn điều lệ do bán thêm cổ phần mới trong phạm vi số lượng cổ phần đã được quyền chào bán quy định tại Điều lệ công ty. 6.2 Các trường hợp giảm vốn của công ty Khi công ty rơi vào tình trạng khó khăn về tài chính, giá trị tài sản trong công ty ngày một giảm sút ... dẫn đến cần có những thay đổi về vốn để phù hợp với quy mô hay khả năng thực hiện nghĩa vụ của công ty. Trong trường hợp này, quyết định giảm vốn là điều nên làm đối với công ty. Theo quy định tại Thông tư của Bộ Tài chính số 19/2003/TT-BTC ngày 20/3/2003 hướng dẫn điều chỉnh tăng, giảm vốn điều lệ và quản lý cổ phiếu quỹ trong CTCP thì CTCP có thể điều chỉnh giảm vốn điều lệ trong các trường hợp sau: - Giảm vốn điều lệ khi nhu cầu về vốn của công ty giảm do công ty thay đổi ngành nghề kinh doanh, tổ chức lại với quy mô nhỏ hơn trước hoặc bị buộc phải huỷ bỏ cổ phiếu quỹ. - Giảm vốn điều lệ khi công ty kinh doanh thua lỗ 3 năm liên tiếp và có số lỗ luỹ kế bằng 50% vốn của các cổ đông trở lên nhưng chưa mất khả năng thanh toán các khoản nợ đến hạn. 7. Cơ chế quản lý, sử dụng vốn Với một cấu trúc vốn đa dạng đặt ra yêu cầu đối với các nhà quản lý và cũng là mối quan tâm hàng đầu của các thành viên CTCƠP là làm sao quản lý và sử dụng vốn hiệu quả. Do đó, việc tạo ra một cơ chế, bộ máy làm nhiệm vụ quản lý, sử dụng vốn là điều hết sức quan trọng đối với một CTCP. So với các loại công ty khác thì CTCP thường có quy mô lớn và cơ cấu vốn khá phức tạp. Chính vì vậy, pháp luật quy định tương đối chặt chẽ về cơ cấu tổ chức, bộ máy quản lý của CTCP. Cơ chế quản lý, sử dụng vốn trong CTCP được thực hiện qua các cơ quan sau: Đại hội đồng cổ đông: với vị trí là cơ quan cao nhất, Đại hội đồng cổ đông có quyền quyết định hầu hết các vấn đề quan trọng, cơ bản của công ty, trong đó chủ yếu là những vấn đề liên quan đến việc quản lý và sử dụng vốn. Cụ thể là: - Quyết định loại cổ phần và tổng số cổ phần của từng loại được quyền chào bán; quyết định mức cổ tức hành năm của từng loại cổ phần; - Quyết định đầu tư hoặc bán số tài sản có giá trị bằng hoặc lớn hơn 50% tổng số giá trị tài sản được ghi trong báo cáo tài chính gần nhất của công ty nếu Điều lệ công ty không quy định một tỷ lệ khác; - Thông qua báo cáo tài chính hàng năm của công ty; - Quyết định mua lại trên 10% tổng số cổ phần đã bán của mỗi loại. Hội đồng quản trị: Với việc quản lý và sử dụng vốn của công ty, Hội đồng quản trị có quyền: - Kiến nghị loại cổ phần và tổng số cổ phần được quyền chào bán của từng loại; - Quyết định chào bán số cổ phần mới trong phạm vi số cổ phần được quyền chào bán của từng loại; quyết định huy động thêm vốn theo hình thức khác; - Định giá chào bán cổ phần và trái phiếu của công ty; - Thông qua hợp đồng mua, bán, vay. cho vay và hợp đồng khác có giá trị bằng hoặc lớn hơn 50% tổng giá trị tài sản được ghi trong báo cáo tài chính gần nhất của công ty; - Kiến nghị mức cổ tức được trả, quyết định thời hạn và thủ tục trả cổ tức hoặc xử lý lỗ phát sinh trong quá trình kinh doanh. Ta có thể thấy rằng, Luật doanh nghiệp đã quy định tương đối cụ thể cơ cấu tổ chức công ty nhằm tạo nên một nền tảng pháp lý vững chắc cho quá trình quản lý sử dụng vốn của công ty cũng như cho sự tồn tại và phát triển của CTCP. IV./ MỘT SỐ KIẾN NGHỊ NHẰM HOÀN THIỆN CÁC QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT CÓ LIÊN QUAN Về cổ phần ưu đãi biểu quyết: pháp luật cần có những quy định cụ thể về cổ đông nắm giữ cổ phần ưu đãi biểu quyết là tổ chức được Chính phủ uỷ quyền. Hiện tại Luật doanh nghiệp 2005 mới chỉ có các quy định rất chung về cổ phần ưu đãi biểu quyết. Có thể nói phần lớn các CTCP chưa phát hành loại cổ phần này vì thiếu những kiến thức pháp lý cũng như cơ sở pháp lý cần thiết. Cần có các quy định cụ thể về một số những vấn đề như: Cổ phần ưu đãi biểu quyết cần được phát hành trong trường hợp nào? Tỷ lệ cổ phần ưu đãi biểu quyết được chiếm tỷ lệ bao nhiêu trong tổng số cổ phần phát hành và trong tổng số cổ phần mà công ty đã bán được. Điều kiện chuyển đổi cổ phần ưu đãi biểu quyết thành cổ phần phổ thông? Về cổ phần ưu đãi hoàn lại: với loại cổ phần này, công ty sẽ phải hoàn trả vốn cho cổ đông bất cứ lúc nào họ yêu cầu hoặc theo những điều kiện đã thoả thuận trước. Nhưng liệu công ty có nghĩa vụ bắt buộc phải trả lại cổ phần cho họ khi công ty đang lâm vào nguy cơ bị giả thể hoặc bị tuyên bố phá sản không? Do vậy Luật doanh nghiệp và các văn bản hướng dẫn thi hành cần có những quy định chi tiết về vấn đề này. Về tài sản góp vốn: cần có các quy định cụ thể về trường hợp khi vốn góp là những tài sản thuộc sở hữu chung (sở hữu chung hợp nhất, sở hữu chung theo phần) hay tài sản là các giấy tờ trị giá được bằng tiền thì cần có những quy định kèm theo như: sự thoả thuận bằng văn bản của các đồng chủ sở hữu, những loại giấy tờ nào có thể được làm vốn góp và góp trong điều kiện nào? Điều 115 Luật doanh nghiệp 2005 đã quy định một số trường hợp thành viên Hội đồng quản trị bị miễn nhiệm, bãi nhiệm. Khi xảy ra những tình huống đó, thành viên Hội đồng quản trị sẽ trở thành những cổ đông bình thường, hưởng các quyền và nghĩa vụ tương ứng với giá trị cổ phần sở hữu. Mặc dù đã có được sự dự liệu nhưng những sự dự liệu đó chưa thực sự đầy đủ. Chẳng hạn như, một thành viên Hội đồng quản trị chết, không có người thừa kế, mà người này nắm giữ một số cổ phần lớn thì giải quyết như thế nào? Quy định về thời hạn thanh toán đủ số cổ phần cam kết mua trong thời hạn chín mươi ngày chỉ nên đặt ra đối với số cổ phần phổ thông của cổ đông sang lập, bởi vì trong thời hạn ba năm kể từ ngày được cấp Giấy chứng nhận đăng kí kinh doanh, CTCP vẫn có quyền rao bán cổ phần để huy động vốn, không thể áp dụng quy định về “thời hạn chín mươi ngày” đối với cổ đông thường trong tình huống này. Đối với các cổ đông thường, chỉ cần buộc họ phải thanh toán đủ một lần và giới hạn thời gian thanh toán cho họ nhưng không phải là chín mươi ngày kể từ ngày CTCP được cấp Giấy chứng nhận đăng kí kinh doanh. Cần có sự giải thích rõ hơn về các hình thức rút vốn khác ra khỏi công ty ngoài trừ trường hợp cổ đông chuyển nhượng cổ phần và các trường hợp được phép giao dịch theo quy

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docBài tập học kỳ thương mại 1- Quy chế pháp lý về vốn trong công ty cổ phần.doc
Tài liệu liên quan