Tiểu luận Quy định an toàn trong hoạt động tổ chức tín dụng

MỤC LỤC

LỜI MỞ ĐẦU 3

I. TỶ LỆ AN TOÀN VỐN TỐI THIỂU 5

1. Tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu riêng lẻ và hợp nhất 5

2. Hệ số rủi ro của tài sản 6

II. GIỚI HẠN TÍN DỤNG 7

III. TỶ LỆ KHẢ NĂNG CHI TRẢ 8

IV. GIỚI HẠN GÓP VỐN, MUA CỔ PHẦN 9

V. TỶ LỆ CẤP TÍN DỤNG TỪ NGUỒN VỐN HUY ĐỘNG 9

VI. BÌNH LUẬN THÊM VỀ CÁC QUY ĐỊNH ĐẢM BẢO AN TOÀN TRONG HOẠT ĐỘNG CỦA CÁC TỔ CHỨC TÍN DỤNG 12

1. Tại sao Thông tư 13/2010/TT-NHNN ban hành chưa có hiệu lực đã bị sửa đổi bởi Thông tư 19/2010/TT-NHNN? 12

2. Hiệp ước tín dụng quốc tế Basel 13

2.1 Basel I 14

2.2 Basel II 15

2.3 Basel III 16

 

 

doc17 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 5197 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tiểu luận Quy định an toàn trong hoạt động tổ chức tín dụng, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ngày 1/10/2010. Theo thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam thông tin trước báo chí thì mục tiêu của Thông tư 13 đó là “Mục tiêu của chính sách tiền tệ là ổn định giá trị tiền đồng và đảm bảo an toàn hệ thống ngân hàng, đồng thời đảm bảo an toàn hệ thống thanh toán, góp phần phát triển kinh tế... Việc ban hành Thông tư 13 nhằm đáp ứng quá trình hội nhập đi từ thấp tới cao, tiến dần lên mức cao hơn. Người có lợi trực tiếp là tổ chức tín dụng, tiếp ,đến là toàn xã hội... Thông tư 13 là từng bước xây dựng hệ thống ngân hàng tiệm cận với chuẩn mực quốc tế.” Các tỷ lệ đảm bảo an toàn tại Thông tư 13 bao gồm: tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu; giới hạn tín dụng; tỷ lệ khả năng chi trả; giới hạn góp vốn, mua cổ phần; tỷ lệ cấp tín dụng so với nguồn vốn huy động. Trong bài tiểu luận này tôi sẽ trình bày những nội dung cơ bản, đáng chú ý nhất của từng tỷ lệ tại Thông tư 13/2010/TT-NHNN đồng thời sẽ kết hợp so sánh với Quyết định 457/2005/QĐ-NHNN có hiệu lực trước đây cũng như so sánh với các quy định trên thế giới trong từng tỷ lệ đó. Bài tiểu luận sẽ không tránh khỏi những thiếu sót nên mong các bạn đọc chia sẻ và góp ý kiến. TỶ LỆ AN TOÀN VỐN TỐI THIỂU Tại Mục 1 Chương II Thông tư 13/2010/TT-NHNN có quy định cụ thể về tỷ lệ được coi là đảm bảo an toàn trong hoạt động của các tổ chức tín dụng (Điều 4, Điều 5, Điều 6). Qua đó có những vấn đề chính đáng lưu ý sau. Tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu riêng lẻ và hợp nhất Hệ số an toàn vốn tối thiểu (vốn tự có/tổng tài sản có rủi ro (Capital Adequacy Ratio – CAR)) là một chỉ tiêu quan trọng phản ánh năng lực tài chính của các tổ chức tín dụng. Chỉ tiêu này dùng để xác định khả năng của tổ chức tín dụng trong việc thanh toán các khoản nợ có thời hạn và đối mặt với các rủi ro khác như rủi ro tín dụng, rủi ro vận hành. Nếu như trong Quyết định 457/2005/QĐ-NHNN thì tỷ lệ này là 8% nay đã được tăng lên 9%. “Tổ chức tín dụng, trừ chi nhánh ngân hàng nước ngoài, phải duy trì tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu 9% giữa vốn tự có so với tổng tài sản “Có” rủi ro của tổ chức tín dụng (tỷ lệ an toàn vốn riêng lẻ). Tổ chức tín dụng phải thực hiện Báo cáo tài chính hợp nhất theo quy định của pháp luật, ngoài việc duy trì tỷ lệ an toàn vốn riêng lẻ quy định tại Khoản 1 Điều này, phải đồng thời duy trì tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu 9% trên cơ sở hợp nhất vốn, tài sản của tổ chức tín dụng và công ty trực thuộc (tỷ lệ an toàn vốn hợp nhất).” – Điều 4 Thông tư 13/2010/TT-NHNN. Còn theo tiêu chuẩn của Basel thì “tỷ lệ Cook” này phải lớn hơn hoặc bằng 8% - đó là mức áp dụng đối với ngân hàng có trình độ quản trị kinh doanh, quản lý rủi ro tốt. Theo ý kiến cá nhân thì tôi cho rằng việc điều chỉnh này là phù hợp với thực tế hiện nay khi mà chúng ta đang từng bước trong việc tuân thủ 25 nguyên tắc thanh tra cơ bản của Ủy ban Basel. Mà trình độ quản trị kinh doanh, quản lý rủi ro của các ngân hàng thương mại Việt Nam đã tiến bộ rất nhiều, tuy chưa thể nói quản trị kinh doanh, quản lý rủi ro của đa số các ngân hàng thương mại Việt Nam đã ở trình độ tốt hoặc đạt mức chuẩn quốc tế. Hơn nữa mô hình hoạt động của nhiều tổ chức tín dụng – đặc biệt là ngân hàng thương mại hiện nay là mô hình công ty mẹ - công ty con. Ngoài ra theo thống kê thì hiện nay các ngân hàng thương mại thực tế đang giữ hệ số này trong khoảng 8-11%, đã khá nhiều tổ chức tín dụng đã vượt mức mà Ngân hàng Nhà nước đặt ra do đó việc nâng lên 1% tôi cho là việc không đáng ngại. Mặt khác, ngày có hiệu lực của Thông tư 13 cũng chính là thời điểm các ngân hàng phải đáp ứng mức vốn điều lệ tối thiểu 3.000 tỷ đồng. Tuy nhiên có một hạn chế ở đây đó là thời hạn thực hiện quá ngắn nên trong một khoảng thời gian hạn chế thì đối với các ngân hàng quy mô nhỏ và đã mạnh tay chi tiền cho vay trong khoảng thời gian đầu năm gặp khá nhiều khó khăn. Khó khăn do tình hình thị trường nên kế hoạch tăng vốn điều lệ chưa thể sớm hoàn thành trước thời điểm trên. Khó khăn trong việc chạy đua huy động vốn để có thể cân đối lại nguồn, vì phải tăng vốn tự có trong khi tài sản có rủi ro không được tăng theo, nếu không thì tỷ lệ sử dụng vốn sẽ phải giảm. Việc này đồng nghĩa với việc nếu ngân hàng không thể tăng tài sản có thì hiệu quả trong hoạt động cho vay sẽ giảm. Vậy nếu không gia hạn lộ trình thì việc đảm bảo yêu cầu trên khó có thể đạt được, vậy Ngân hàng Nhà nước sẽ xử lý thế nào đối với các ngân hàng trên? Hệ số rủi ro của tài sản Nếu như trong Quyết định 457 thì tài sản có rủi ro chia làm bốn mức là 0%, 20%, 50% và 100% thì tới Thông tư 13 hệ số này đã là 0%, 20%, 50%, 100%, 150%, 250%. Có hai thay đổi mang tính thắt chặt cơ bản trong Thông tư 13 so với quy định trước đây: Các khoản vay đối với công ty con, công ty liên doanh, công ty liên kết có hệ số rủi ro điều chỉnh tăng từ 100% lên 150%; Các khoản vay kinh doanh bất động sản và các khoản vay đối với công ty chứng khoán có hệ số rủi ro nâng từ 100% lên 250%. Hệ số rủi ro của khoản cho vay đầu tư chứng khoán vẫn giữ nguyên ở mức 250%, như năm 2008. Tuy nhiên theo tôi việc quy định các hệ số rủi ro như trên là không có cơ sở thuyết phục mặc dù quy định này là nhằm mục đích ngăn ngừa các tổ chức tín dụng không thực hiện quy mô lớn những hoạt động quá nhiều rủi ro. Một chuyên gia ngân hàng làm việc lâu năm tại Mỹ nói: “Cứ cho là ngân hàng bị rủi ro khi cho vay chứng khoán thì hệ số rủi ro của ngân hàng đó tối đa cũng chỉ đến 120% (100% vốn của ngân hàng, 20% là phòng ngừa các rủi ro liên quan có thể phát sinh như rủi ro liên quan đến pháp lý), vì vậy không thể bắt các ngân hàng thực hiện hệ số rủi ro đến 250% được.” Một bất cấp nữa đó là Ngân hàng Nhà nước đã đánh đồng các rủi ro. Như hệ số rủi ro 250% là mẫu chung cho các đối tượng khác nhau: cho vay để đầu tư chứng khoán, cho vay các công ty chứng khoán và cho vay kinh doanh bất động sản. Nền kinh tế của ta vẫn còn nhiều bất ổn đặc biệt việc huy động vốn trên thị trường chứng khoán vẫn gặp nhiều khó khăn, việc quy định như vậy chứng tỏ đến các tổ chức tín dụng còn không dám đầu tư vậy làm sao khuyến khích được các nhà đầu tư cá nhân bỏ vốn? Việc quy định hệ số rủi ro không hợp lý như vậy sẽ ảnh hưởng tiêu cực đến thị trường – đặc biệt ở đây là thị trường chứng khoán. Ngoài ra việc tăng hệ số rủi như trên làm tăng tổng tài sản có rủi ro của ngân hàng lên rất nhiều, trong khi mức vốn tự có không thay đổi thì tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu của ngân hàng sẽ giảm đi đáng kể - Gây khó khăn hơn trong việc thực hiện đúng yêu cầu tỷ lệ vốn thiểu như trên. GIỚI HẠN TÍN DỤNG Các quy định về giới hạn tín dụng thì có hai giới hạn chính đó là: giới hạn cho vay, bảo lãnh, chiết khấu giấy tờ có giá và giới hạn cho thuê tài chính. Các quy định về giới hạn này trong Thông tư 13/2010/TT-NHNN cơ bản không có gì thay đổi nhiều so với Quyết định 457/2005/QĐ-NHNN. Tuy nhiên giới chuyên gia kinh tế có nhận xét rằng: chính sách của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam thường áp dụng chung cho tất cả các tổ chức tín dụng, không phân biệt ngân hàng lớn hay nhỏ, năng lực quản trị, quản lý như thế nào. Họ còn gọi đó là kiểu lập chính sách “may áo một cỡ”. Đặc tính này vẫn còn khá rõ nét trong Thông tư 13 - là trở ngại về mặt áp dụng chính sách chứ không phải là vấn đề các chỉ tiêu cao hay thấp trong Thông tư này. Theo các chuyên gia tài chính, không chỉ Thông tư 13 mà các quy định khác, Nhà nước nên đưa ra các chỉ tiêu mang tính điều kiện và phân biệt thì sẽ đặt được hiêu quả hơn nhiều. Cụ thể, giả sử ngân hàng A có đủ bộ phận quản lý rủi ro đến một chừng mực nào đó (như xét từ vi mô đến vĩ mô, ngân hàng này có bộ máy ALCO có các chuyên gia kinh tế đủ chuyên ngành…) thì được phép tăng trưởng tín dụng trên 25 - 30% so với năm trước; hoặc được phép cho vay bất động sản hay chứng khoán lên tới 20% dự nợ (trong khi các ngân hàng thương mại khác nếu quy mô nhỏ thì không cho phép cho vay lĩnh vực này hoặc dư nợ không quá 5% dư nợ). Một số quan điểm của các ngân hàng thương mại lớn cho rằng, trong thực tế, việc đánh đồng ngân hàng nhỏ với ngân hàng lớn, sẽ không khuyến khích các ngân hàng nhỏ cạnh tranh, vươn lên. Minh chứng trong thời kỳ năm 2006-2008, càng ngân hàng nhỏ thì lại càng chấp nhận rủi ro cao (cũng có thể coi là liều), có ngân hàng thương mại cổ phần nhỏ cho vay bất động sản lên tới 60% dư nợ, vay thị trường liên ngân hàng (vay ngắn hạn) cũng lên tới 60% so với dư nợ cho vay. Theo quan điểm này, việc phân biệt này là một hình thức gián tiếp xếp hạng ngân hàng - việc mà với mô hình quản trị hiện đại và khi hội nhập quốc tế, chúng ta phải hướng tới. Cũng theo cách tiếp cận này, việc các tổ chức định mức tín nhiệm (như Fitch, S&P và Moodys và trong nước) có các công bố về mức tín nhiệm của các tổ chức tín dụng Việt Nam có thể là tham chiếu  hiệu quả cho cả nhà đầu tư (kể cả người gửi tiền) và cho các cơ quan lập chính sách theo định hướng này. Về vấn đề này, hiện tại vẫn còn câu hỏi để mở rằng ai là người định mức tín nhiệm tất cả các ngân hàng thương mại Việt Nam một cách thường xuyên, vì trước đây thị trường không chấp nhận công ty trong nước xếp hạng tín nhiệm ngân hàng trong nước ? TỶ LỆ KHẢ NĂNG CHI TRẢ Tổ chức tín dụng phải thành lập một bộ phận quản lý tải sản “Có”, tài sản “Nợ” để theo dõi và quản lý khả năng chi trả hàng ngày; phải xây dựng và ban hành quy định nội bộ về quản lý khả năng chi trả đối với Đồng Việt Nam, đồng Euro, đồng Bảng Anh và đồng đô la Mỹ, quy định này phải được Hội đồng quản trị thông qua và rà soát, xem xét sửa đổi, bổ sung tối thiểu 6 tháng một lần hoặc theo yêu cầu của Ngân hàng Nhà nước. Đặc biệt cuối mỗi ngày, tổ chức tín dụng phải xác định và có các biện pháp để đảm bảo các tỷ lệ về khả năng chi trả cho ngày hôm sau: Tỷ lệ tối thiểu phải bằng 15% giữa tổng tài sản “Có” thanh toán ngay và tổng Nợ phải trả. GIỚI HẠN GÓP VỐN, MUA CỔ PHẦN Các tổ chức tín dụng chỉ được dùng vốn điều lệ và quỹ dự trữ để góp vốn, mua cổ phần nhưng tổng mức góp vốn, mua cổ phần không được vượt quá tỷ lệ được quy định tại Điều 16 Mục 4 Chương II Thông tư 13/2010/TT-NHNN. Khi thông tư được ban hành thì có một loạt câu hỏi từ Hiệp hội Ngân hàng (VNBA) được đặt ra như “các tổ chức tín dụng đang ủy thác đầu tư ở nước ngoài theo dịch vụ quản lý tài sản để đầu tư vào các loại chứng khoán ở nước ngoài có chịu điều chỉnh của giới hạn Thông tư 13 đặt ra hay không?” hay “trường hợp tổ chức tín dụng góp vốn vào doanh nghiệp khác để đầu tư vào một dự án mà giá trị của dự án đầu tư lớn hơn vốn điều lệ của doanh nghiệp đó thì giới hạn góp vốn được xác định theo vốn điều lệ của doanh nghiệp hay giá trị của dự án đầu tư?” Và nhìn lại các vấn đề VNBA đưa ra sau khi tập hợp ý kiến của 14 ngân hàng và công ty tài chính, câu hỏi chung là: Tại sao khi Thông tư đã ban hành và chỉ còn chưa đầy hai tháng nữa có hiệu lực mà vẫn còn nhiều điểm được cho là bất hợp lý, từ ý kiến của chính các đối tượng bị điều chỉnh? Như chúng ta đã biết trong quá trình xây dựng dự thảo và hoàn thiện để ban hành, Ngân hàng Nhà nước cũng có tổ chức tìm hiểu, nghiên cứu các chuẩn mực quốc tế và có lấy ý kiến các ngân hàng thương mại… tất nhiên không tránh khỏi những hạn chế nhưng theo ý kiến cá nhân tôi có quá nhiều bất cập như các ngân hàng nêu ý kiến là không hoàn toàn hợp lý. Những thắc mắc, những điểm vô lý VNBA đưa ra xuất phát từ lợi ích của chính các tổ chức tín dụng trong khi đó Ngân hàng Nhà nước xây dựng “Luật” trên lợi ích toàn dân tộc do đó về cơ bản nếu đứng trên lợi ích chung, đa số thì những quy định này có giá trị bình ổn kinh tế, thị trường, đảm bảo cho hoạt động tín dụng diễn ra an toàn, ổn định hơn. TỶ LỆ CẤP TÍN DỤNG TỪ NGUỒN VỐN HUY ĐỘNG Tổ chức tín dụng chỉ được sử dụng nguồn vốn huy động để cấp tín dụng với điều kiện trước và sau khi cấp tín dụng đều đảm bảo tỷ lệ về khả năng chi trả cũng như các tỷ lệ an đảm bảo an toàn khác và nguồn vốn huy động không được vượt quá 80% đối với ngân hàng và 85% đối với tổ chức tín dụng phi ngân hàng. Hầu hết các nước trên thế giới không quy định tỉ lệ này nữa, chuẩn mực Basel cũng không đề cập đến tỷ lệ này nhưng Ngân hàng Nhà nước Việt Nam vẫn quyết định đưa ra vì khó khăn thanh khoản nhiều năm của hệ thống phần lớn bắt nguồn từ việc sụt giảm đột ngột nguồn vốn huy động. Điểm đáng chú ý đầu tiên đó là những sửa đổi của Thông tư 19/2010/TT-NHNN. Một số điểm sửa đổi như “Tỷ lệ cấp tín dụng từ nguồn vốn huy động” thay cho “Tỷ lệ cấp tín dụng so với nguồn vốn huy động” đã thể hiện sự “nâng cấp” tư duy khi quy định này đã thay đổi bản chất của định chế và ràng buộc đối với nguồn vốn mà các tổ chức tín dụng được phép dùng để cho vay. Tức là, quy định về tỷ lệ cấp tín dụng là đối với nguồn vốn “từ nguồn vốn huy động”. Ở đây có thể hiểu là nó độc lập với nguồn vốn tự có của các ngân hàng. Những sửa đổi, bổ sung Thông tư 13 (bằng Thông tư 19)  của Ngân hàng Nhà nước đã mang lại giá trị lớn cho các ngân hàng thương mại, tổ chức tín dụng, hiểu theo nghĩa họ “được phép làm những gì mà pháp luật không cấm”. Có một tranh cãi đó chính là tiền gửi không kỳ hạn (tiền gửi thanh toán) của các tổ chức kinh doanh không được tính vào trong tổng nguồn vốn huy động. Vì tiền gửi không kỳ hạn (tức tài khoản vãng lai) của doanh nghiệp rất lớn, nên nếu nguồn vốn này không được tính vào nguồn vốn huy động để cho vay sẽ gây khó khăn cho các ngân hàng thương mại. Theo Hiệp hội ngân hàng Việt Nam (VNBA) thì cho rằng quy định trên là không hợp lý, vì tiền gửi không kỳ hạn của những đối tượng trên thường chiếm tỷ lệ từ 15% - 20% trong tổng nguồn vốn huy động của các tổ chức tín dụng. Đây là nguồn vốn có tính ổn định cao, VNBA dẫn khẳng định từ các ngân hàng thương mại. Như vậy, ngoài tỷ lệ 20% của nguồn vốn huy động không được sử dụng để cho vay theo công thức trên, thì còn khoảng 15% tiền gửi không kỳ hạn kể trên không được sử dụng để cho vay. Do đó, phần nguồn vốn để đảm bảo khả năng thanh toán là 20% + 15% = 35% trên tổng nguồn vốn huy động. “Tỷ lệ này là quá cao, không hợp lý”, đầu mối đại diện cho các ngân hàng thương mại khẳng định. Ngoài tiền gửi không kỳ hạn, theo VNBA, ở các ngân hàng thương mại và các công ty tài chính còn có vốn tự có (phần còn lại sau khi đã trừ đi phần mua sắm tài sản cố định cho phép) và các loại vốn mang tính chất “coi như tự có” là những nguồn vốn do chính họ tạo ra như vốn khấu hao tài sản cố định, các quỹ… cũng cần được tính vào nguồn vốn huy động để cho vay. Đó là ý kiến của VNBA còn theo số liệu của IMF cho thấy các ngân hàng thương mại Việt Nam tuy có nhiều vốn nhưng thực sự rất mong manh trước các cú sốc và hoạt động khá tùy hứng và  thường bị cuốn theo vòng xoáy của thị trường. Các chỉ số thanh khoản của các ngân hàng thương mại cổ phần là đáng lo ngại trong thời kỳ suy thoái kinh tế. Theo số liệu của IMF, những năm trước 2006, “chỉ số cấp tín dụng so với nguồn vốn” của hệ thống ngân hàng Việt thường đạt  90%. Tuy nhiên những năm gần đây, chỉ số này đã tăng trên 100%. Như vậy, theo lý thuyết cho thấy,  các ngân hàng thương mại Việt Nam đã cho vay quá mức và có thể ảnh hưởng đến thanh khoản của ngân hàng. Theo Thông tư 13 tỷ lệ cấp tín dụng so với nguồn vốn huy động giới hạn ở mức 80% (và các tổ chức phi tín dụng là 85%) - Tỷ lệ này chắc chắn sẽ tác động đến sự quá tay của các tố chức tín dụng, nhất là các ngân hàng thương mại cổ phần (về ngắn hạn). Tuy nhiên, giới chuyên gia cho rằng về trung hạn điều này chắc chắn làm thay đổi hành vi cấp tín dụng theo hướng tốt hơn trước đây. Ước tính trên phương diện số học thông thường, không tính đến các hiệu ứng gia tăng hay thu hẹp khác như cơ chế số nhân tiền, cho thấy nếu áp dụng Thông tư 13 sẽ kìm khả năng cho vay ra (so với trước đây) của ngân hàng thương mại khoảng  550 tỷ đồng (nếu tăng trưởng huy động và cho vay khoảng 25% so với 2009). Có nhiều lập luận cho rằng, khi áp dụng tỷ lệ nêu trên sẽ dẫn đến tình trạng vốn “nằm chết”. Tuy nhiên theo ý kiến của Ths. Lê Văn Hinh “Việc cấp tín dụng quá mức so với khả năng cân đối vốn của ngân hàng thương mại vừa qua lại là nguyên nhân làm giảm thanh khoản của ngân hàng thương mại nghiêm trọng và đó lại là nguyên nhân dẫn đến tình trạng tăng lãi suất quá mức, đẩy lãi suất lên cao và do đó ảnh hưởng đến khả năng cho vay của chính các ngân hàng. Dễ nhận thấy rằng, khả năng điều chỉnh kinh doanh, đưa ra các giải pháp kinh doanh,.. trước các biến cố như khủng hoảng, chính sách... hay nói chung là các cú sốc bên ngoài của các ngân hàng thương mại vừa qua là còn đáng quan ngại.” BÌNH LUẬN THỂM VỀ CÁC QUY ĐINH ĐẢM BẢO AN TOÀN TRONG HOẠT ĐỘNG TỔ CHỨC TÍN DỤNG Tại sao Thông tư 13/2010/TT-NHNN ban hành chưa có hiệu lực đã bị sửa đổi bởi Thông tư 19/2010/TT-NHNN? Thông tư số 13/2010/TT-NHNN được xây dựng dựa trên việc áp dụng các chuẩn mực, thông lệ quốc tế, khu vực, chủ yếu là Hiệp ước Tín dụng quốc tế Basel II và định hướng, chỉ đạo của Chính phủ đối với hoạt động quản lý nhà nước trong lĩnh vực ngân hàng. Việc ban hành Thông tư 13 là một bước đi của Ngân hàng Nhà nước nhằm bảo đảm cho hệ thống các tổ chức tín dụng hoạt động an toàn, lành mạnh với mục tiêu từng bước nâng cao năng lực quản trị rủi ro, tiềm lực tài chính, tạo tiền đề cho sự phát triển an toàn và bền vững của hệ thống tổ chức tín dụng Việt Nam trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế. Tuy nhiên, sau khi Thông tư 13/2010/TT-NHNN được ban hành, Ngân hàng Nhà nước đã nhận được rất nhiều phản ứng từ dư luận, các tổ chức tín dụng là đối tượng điều chỉnh của văn bản này về những nội dung như thời điểm hiệu lực, những quy định về tỷ lệ an toàn vốn và nhiều yếu tố kỹ thuật trong cơ cấu nguồn vốn dùng để cho vay... Văn phòng Chính phủ cũng đã có văn bản yêu cầu Ngân hàng Nhà nước rà soát lại Thông tư 13/2010/TT-NHNN nhằm bảo đảm các điều kiện thực tế của nền kinh tế. Sau khi nghiên cứu, tiếp thu các ý kiến đóng góp, NHNN ban hành Thông tư số 19/2010/TT-NHNN ngày 27-9-2010 sửa đổi, bổ sung một số Điều của Thông tư số 13/2010/TT-NHNN có hiệu lực thi hành kể từ ngày 1-10-2010. Theo đó, những nội dung được sửa đổi trong Thông tư mới đó là việc ngân hàng có thể sử dụng vốn tự có để cấp tín dụng khi "tỷ lệ cấp tín dụng so nguồn vốn huy động" được sửa thành "tỷ lệ cấp tín dụng từ nguồn vốn huy động". Tổng tài sản "có" để thanh toán ngay của ngân hàng được sửa từ "phần chênh lệch dương giữa số dư tiền gửi không kỳ hạn, trị giá sổ sách của vàng gửi không kỳ hạn (hoặc có kỳ hạn đến ngày thanh toán) tại tổ chức tín dụng khác" thành toàn bộ "số dư tiền gửi" tương ứng. Thay đổi này sẽ giúp tài sản "có" của ngân hàng tăng lên đáng kể và dễ dàng thỏa mãn tỷ lệ bảo đảm khả năng thanh toán tối thiểu bằng 15% tổng tài sản nợ trong ngày. Thay đổi quan trọng nhất là quy định về tỷ lệ cấp tín dụng từ nguồn vốn huy động, khi Ngân hàng Nhà nước cho phép tính thêm 25% tiền gửi không kỳ hạn, tiền gửi của Kho bạc Nhà nước và tiền vay của tổ chức tín dụng khác (kỳ hạn trên ba tháng) vào nguồn vốn huy động. Như vậy, tuy vẫn giữ nguyên tỷ lệ cấp tín dụng là 80% đối với ngân hàng và 85% cho tổ chức phi ngân hàng nhưng do tổng nguồn vốn tăng lên, ngân hàng sẽ được phép cấp nhiều tín dụng hơn cho nền kinh tế. Thay đổi cuối cùng là Ngân hàng Nhà nước cho phép sử dụng thêm một số đơn vị tiền tệ khác, bên cạnh đồng Việt Nam, để theo dõi tỷ lệ chi trả của các tổ chức tín dụng. Còn nhiều đề xuất sửa đổi khác như về tỷ lệ an toàn vốn hay thời hạn thực hiện đã không được sửa đổi mà chủ yếu là sửa đổi về mặt kỹ thuật trong cơ cấu vốn. Có thể nói, việc sửa đổi, bổ sung Thông tư 13/2010/TT-NHNN là cần thiết, nhằm bảo đảm các mục tiêu điều hành vĩ mô của Chính phủ và mục tiêu an toàn hoạt động của hệ thống tổ chức tín dụng Việt Nam trong điều kiện kinh tế hiện nay khi mặt bằng lãi suất của nền kinh tế vẫn còn cao, tăng trưởng tín dụng còn nhiều khó khăn, năng lực của các ngân hàng còn nhiều hạn chế... Hiệp ước tín dụng quốc tế Basel Uỷ ban Basel về giám sát ngân hàng (Basel Committee on Banking supervision – BCBS) được thành lập vào năm 1974 bởi một nhóm các Ngân hàng Trung ương và cơ quan giám sát của 10 nước phát triển (G10) tại thành phố Basel, Thụy Sỹ nhằm tìm cách ngăn chặn sự sụp đổ hàng loạt của các ngân hàng vào thập kỷ 80. Vào năm 1988, Ủy ban đã quyết định giới thiệu hệ thống đo lường vốn mà nó được đề cập như là Hiệp ước vốn Basel (the Basel Capital Accord) hay Basel I. Đến ngày 26/6/2004, bản Hiệp ước quốc tế về vốn Basel mới (Basel II) đã chính thức được ban hành và có hiệu lực vào tháng 1/2007. Và vào ngày 12-9-2010 các nhà quản lý ngân hàng các nước thuộc Ủy ban Basel về giám sát ngân hàng đã đồng thuận một quy định mới có tính lịch sử về quản lý ngân hàng nhằm xây dựng hệ thống tài chính toàn cầu ổn định hơn. Quy định mới, gọi là Hiệp định Basel III. Tuy nhiên, để tránh gây áp lực lên công cuộc hồi phục kinh tế đang rất chập chờn trên khắp thế giới, các nhà quản lý ngân hàng đồng ý rằng việc tăng tỷ lệ dự trữ bắt buộc sẽ được triển khai dần dần trong khoảng thời gian tám năm, chậm hơn một năm so với đề xuất của Mỹ nhưng sớm hơn một năm so với đề xuất của Đức. Theo thỏa thuận này, một số thay đổi sẽ được áp dụng ngay từ năm 2013, nhưng một số thay đổi khác sẽ chỉ có hiệu lực hoàn toàn vào năm 2019. Basel I Mục đích của Basel I: Củng cố sự ổn định của toàn bộ hệ thống ngân hàng quốc tế; thiết lập một hệ thống ngân hàng quốc tế thống nhất, bình đẳng nhằm giảm cạnh tranh không lành mạnh giữa các ngân hàng quốc tế. Tiêu chuẩn của Basel I: - Tỉ lệ vốn dựa trên rủi ro – “Tỉ lệ Cook”: tỉ lệ này được phát triển bởi BCBS với mục đích củng cố hệ thống ngân hàng quốc tế, đối tượng ban đầu là những ngân hàng hoạt động quốc tế, nhưng sau này đã được thực thi trên hơn 100 quốc gia. Theo tiêu chuẩn này, ngân hàng phải giữ lại lượng vốn bằng ít nhất 8% của rổ tài sản, được tính toán theo nhiều phương pháp khác nhau và phụ thuộc vào độ rủi ro của chúng. Tỉ lệ thoả đáng về vốn (CAR) = Vốn bắt buộc / Tài sản tính theo độ rủi ro gia quyền (RWA) Theo đó, ngân hàng có mức vốn tốt là ngân hàng có CAR > 10%, có mức vốn thích hợp khi CAR > 8%, thiếu vốn khi CAR < 8%, thiếu vốn rõ rệt khi CAR < 6% và thiếu vốn trầm trọng khi CAR < 2%. - Vốn cấp 1, cấp 2 và cấp 3: Thành tựu cơ bản của Basel I là đã đưa ra được định nghĩa mang tính quốc tế chung nhất về vốn của ngân hàng và một cái gọi là tỷ lệ vốn an toàn của ngân hàng. Tiêu chuẩn này quy định: Vốn cấp 1 ≥ Vốn cấp 2 + Vốn cấp 3 Những thiếu sót của Basel I: Sau khi rủi ro tín dụng được thiết lập vào năm 1988, Uỷ ban Basel đã chuyển sự chú ý của họ sang rủi ro thị trường để phản ứng lại các hoạt động kinh doanh chuyên hữu ngày càng tăng của các ngân hàng thương mại và đến năm 1996, Bsael I đã được sửa đổi với mục đích tính đến cả phí vốn đối với rủi ro thị trường. Mặc dù vậy, Basel I vẫn có khá nhiều điểm hạn chế. Một trong những điểm hạn chế cơ bản của Basel I là không đề cập đến một loại rủi ro đang ngày càng trở nên phức tạp với mức độ ngày càng tăng lên, đó là rủi ro vận hành (không có yêu cầu vốn dự phòng rủi ro vận hành). Ngoài ra, còn một số điểm hạn chế khác, như: không phân biệt theo loại rủi ro, không có lợi ích từ việc đa dạng hóa… Basel II Mục tiêu của Basel II: Nâng cao chất lượng và sự ổn định của hệ thống ngân hàng quốc tế; Tạo lập và duy trì một sân chơi bình đẳng cho các ngân hàng hoạt động trên bình diện quốc tế; Đẩy mạnh việc chấp nhận các thông lệ nghiêm ngặt hơn trong lĩnh vực quản lý rủi ro. Tiêu chuẩn của Basel II: Basel II sử dụng khái niệm“Ba trụ cột”: Trụ cột thứ I: liên quan tới việc duy trì vốn bắt buộc; Trụ cột thứ II: liên quan tới việc hoạch định chính sách ngân hàng, trì trên mức tối thiểu; Trụ cột thứ III: Các ngân hàng cần phải công khai thông tin một cách thích đáng theo nguyên tắc thị trường. Như vậy, quá trình phát triển của Basel và những Hiệp ước mà tổ chức này đưa ra, các ngân hàng thương mại càng ngày càng được yêu cầu hoạt động một cách minh bạch hơn, đảm bảo vốn phòng ngừa cho nhiều loại rủi ro hơn và do vậy, hy vọng sẽ giảm thiểu được rủi ro. Ưu điểm của Basel II so với Basel I: - Về cấu trúc và nội dung: Basel I tập trung vào một giải pháp quản lý rủi ro duy nhất là “yêu cầu vốn tối thiểu”. Trong khi, Basel II tập trung nhiều hơn vào các phương pháp nội bộ của chính ngân hàng, đánh giá hoạt động thanh tra, giám sát và kỷ luật trên nguyên tắc thị trường. Do đó, quyền lực của các nhà quản lý quốc gia được tăng lên bởi họ cần phải đánh giá sự đủ vốn của ngân hàng có tính đến đặc điểm rủi ro cụ thể của nó. - Về tính linh động của ứng dụng: Basel I quy định chung một chọn lựa cho tất cả các ngân hàng. Basel II linh hoạt hơn với một danh sách các phương pháp, các biện pháp khuyến khích để các nhà quản lý quốc gia và các ngân hàng chọn lựa. - Về tính nhạy cảm với rủi ro: Basel I đo đạc rủi ro quá sơ bộ. Basel II nhạy cảm hơn với rủi ro thông qua độ nhạy cảm của yêu cầu vốn đối với mức độ rủi ro tăng lên và sự công khai bắt buộc một cách chi tiết về độ nhạy cảm rủi ro và chính sách rủi ro. - Về trọng số rủi ro: Basel I quy định từ 0 – 100 và ưu đãi hơn với các nước thuộc Tổ chức hợp tác và phát triển kinh tế (OECD- Organisation for Economic Co-operation and Development). Basel II quy định từ 0 – 150 hoặc hơn và không có đặc quyền nào, bao gồm cả phân cấp bên trong và bên ngoài. - Về kỹ thuật giảm rủi ro tín dụng: Bas

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docQuy định an toàn trong hoạt động tổ chức tín dụng.doc
Tài liệu liên quan