Tiểu luận Quy định của Bộ luật tố tụng hình sự về việc bắt người, thực tiễn thi hành và hướng hoàn thiện

Dưới góc độ khoa học pháp lý thì khái niệm người chưa thành niên được sử dụng đề chỉ người đang ở độ tuổi chưa đủ năng lực hành vi còn theo quy định của bộ luật tố tụng hình sự thì thủ tục áp dụng đối với người từ 14 tuổi tròn nhưng chưa đủ 18 tuổi là thủ tục áp dụng đối với người chưa thành niên. Do hạn chế về mặt tâm sinh lý, về sự phát triển thể chất nên khả năng nhận thức về tính chất nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội bị hạn chế và đôi khi còn bị tác động mạnh mẽ của điều kiện bên ngoài. Chính vì vậy, đối với đối tượng là người chưa thành niên có biện pháp xử lý riêng.

Chính sách hình sự của nhà nước ta đối với người chưa thành niên chủ yếu là giáo dục và giúp đỡ họ sửa chữa những sai lầm để họ trở thành những người công dân tốt cho xã hội. Vì vậy bộ luật hình sự và bộ luật tố tụng hình sự có những quy định riêng đối với người chưa thành niên Điều 12 – Bộ luật hình sự 1999 sửa đổi, bổ sung năm 2009 và Điều 303 – BLTTHS năm 2003.

Về thủ tục bắt người chưa thành niên thì trình tự thủ tục tiến hành như trình tự thủ tục chung, nhưng phải thông báo cho gia đình, người đại diện hợp pháp của họ biết ngay khi sau khi bắt. Khi tiến hành bắt người chưa thành niên, cơ quan nhận người bị bắt phải kịp thời xác minh ngay người chưa thành niên đó đã đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự hay chưa, tội phạm mà người chưa thành niên đó thực hiện có phải là tội nghiêm trọng hay không họ có đủ điều kiện để áp dụng biện pháp ngăn chặn bắt hay không. Nếu xét thấy không đủ hai điều kiện đó, cơ quan đã nhận người bị bắt phải trả tự do ngay cho người bị bắt, nếu cần thiết có thể yêu cầu cha, mẹ hoặc người đỡ đầu của người chưa thành niên đó giám sát, giáo dục. Thủ tục bắt người đối với đối tượng là người chưa thành niên thể hiện chính sách nhân đạo của nhà nước.

 

doc10 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 2475 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tiểu luận Quy định của Bộ luật tố tụng hình sự về việc bắt người, thực tiễn thi hành và hướng hoàn thiện, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ị cáo tiếp tục phạm tội cũng như tạo điều kiện thuận lợi cho việc điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án hình sự.((1). Trường ĐH Luật HN, Giáo trình Luật tố tụng hình sự Việt Nam, Nxb. Tư pháp, Hà Nội, 2006, tr 206. ) b. Đối tượng và điều kiện áp dụng. - Đối tượng bị bắt để tạm giam chỉ có thể là bị can hoặc bị cáo. Những người chưa bị khởi tố về hình sự hoặc người chưa bị Tòa án quyết định đưa ra xét xử không phải là đối tượng bắt để tạm giam. - Điều kiện áp dụng: Không phải mọi bị can, bị cáo đều có thể hoặc cần bắt để tạm giam mà chỉ bắt tạm giam đối với những bị can, bị cáo nếu xét thấy cần thiết. BLTTHS không quy định bắt tạm giam đối với bị can, bị cáo trong trường hợp cụ thể nào nhưng thông thường các cơ quan tiến hành tố tụng sẽ căn cứ vào tính chất của tội phạm bị khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử, các đặc điểm về nhân thân cũng như thái độ chấp hành pháp luật của bị can, bị cáo trong quá trình giải quyết vụ án để ra quyết định. Ngoài ra, những vấn đề này có thể được xem xét riêng rẽ trong một số trường hợp như phạm tội gây nguy hại rất lớn hay đặc biệt lớn cho xã hội. c. Thẩm quyền ra lệnh bắt bị can, bị cáo để tạm giam: (Khoản 1 – Điều 80 – BLTTHS năm 2003). - Trong giai đoạn điều tra thì việc bắt bị can để tạm giam do Thủ trưởng, Phó thủ trưởng cơ quan điều tra các cấp quyết định. Trường hợp cơ quan điều tra ra lệnh thì lệnh bắt bị can để tạm giam phải được Viện kiểm sát cùng cấp phê chuẩn trước khi thi hành. Sự phê chuẩn của Viện kiểm sát là một thủ tục pháp lý bắt buộc nhằm kiểm tra tính có căn cứ và hợp pháp của lệnh bắt để bảo đảm hiệu lực của lệnh bắt người cũng như sự cần thiết phải bắt tạm giam bị can. Những lệnh bắt người mà không có sự phê chuẩn của Viện kiểm sát cùng cấp sẽ không có giá trị thi hành. - Trong giai đoạn truy tố, việc bắt bị can để tạm giam do Viện trưởng, Phó viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân và Viện kiểm sát quân sự các cấp quyết định. - Trong giai đoạn xét xử, việc bắt vị ban, bị cáo để tạm giam do Chánh án, Phó chánh án Tòa án nhân dân và Tòa án quân sự các cấp; Thẩm phán giữ chức vụ Chánh Toà, Phó Chánh tòa Tòa phúc thẩm TAND tối cao; Hội đồng xét xử quyết định. d. Thủ tục bắt bị can, bị cáo để tạm giam (Khoản 2, Khoản 3 – Điều 80 – BLTTHS năm 2003). - Việc bắt bị can, bị cáo để tạm giam phải có lệnh của người có thẩm quyền. Lệnh bắt phải ghi rõ ngày, tháng, năm, họ tên, chức vụ của người ra lệnh; họ tên, địa chỉ của người bị bắt và lý do bắt. Lệnh bắt phải có chữ ký của người ra lệnh và có đóng dấu. - Người thi hành lệnh phải đọc lệnh, giải thích lệnh, quyền và nghĩa vụ của người bị bắt và phải lập biên bản về việc bắt. - Khi tiến hành bắt người tại nơi người đó cư trú phải có đại diện chính quyền xã, phường, thị trấn và người láng giềng của người bị bắt chứng kiến. Khi tiến hành bắt người tại nơi người đó làm việc phải có đại diện cơ quan, tổ chức nơi người đó làm việc chứng kiến. Khi tiến hành bắt người tại nơi khác phải có sự chứng kiến của đại diện chính quyền xã, phường, thị trấn nơi tiến hành bắt người. - Không được bắt người vào ban đêm, trừ trường hợp bắt khẩn cấp, phạm tội quả tang hoặc bắt người đang bị truy nã quy định tại Điều 81 và Điều 82 của Bộ luật này. 2. Bắt người trong trường hợp khẩn cấp (Điều 81 – BLTTHS 2003). a. Khái niệm. Bắt người trong trường hợp khẩn cấp là bắt người khi người đó đang chuẩn bị thực hiện tội phạm rất nghiêm trọng hoặc tội phạm đặc biệt nghiêm trọng nhằm ngăn chặn kịp thời hành vi phạm tội của họ hay bắt người sau khi thực hiện tọi phạm mà người đó bỏ trốn, cản trở việc điều tra, khám phá tội phạm.((1). Trường ĐH Luật HN, Giáo trình Luật tố tụng hình sự Việt Nam, Nxb. Tư pháp, Hà Nội, 2006, tr 210. ) b. Những trường hợp bắt khẩn cấp (quy định tại Khoản 1 – Điều 81 – BLTTHS năm 2003). - Trường hợp thứ nhất: “Khi có căn cứ để cho rằng người đó đang chuẩn bị thực hiện tội phạm rất nghiêm trọng hoặc tội phạm đặc biệt nghiêm trọng” (điểm a – Khoản 1 – Điều 81 – BLTTHS năm 2003). Đây là trường hợp cơ quan có thẩm quyền đã có quá trình theo dõi, kiểm tra, xác minh các nguồn tin để biết người đó đang bí mật tìm kiếm, sửa soạn công cụ, phương tiện hoặc tạo ra những điều kiện cần thiết khác để thực hiện tội phạm rất nghiêm trọng hoặc tội phạm đặc biệt nghiêm trọng nên cần phải bắt ngay trước khi tội phạm được thực hiện. Việc bắt người này phải đảm bảo 2 điều kiện sau: + Có căn cứ khẳng định người đó (một người hoặc nhiều người) đang chuẩn bị thực hiện tội phạm. + Tội phạm đang được chuẩn bị thực hiện là tội phạm rất nghiêm trọng hoặc tội phạm đặc biệt nghiêm trọng. - Trường hợp thứ hai: “Khi người bị hại hoặc người có mặt tại nơi xảy ra tội phạm chính mắt trông thấy và xác nhận đúng là người đã thực hiện tội phạm mà xét thấy cần ngăn chặn ngay việc người đó trốn” (điểm b – Khoản 1 – Điều 81 – BLTTHS năm 2003). Đây là trường hợp tội phạm đã xảy ra, nhưng người thực hiện tội phạm không bị bắt ngay. Sau một thời gian, người bị hại hoặc người có mặt tại hiện trường nơi xảy ra tội phạm chính mắt trông thấy đã xác nhận đúng là người đã thực hiện tội phạm. Nếu Cơ quan điều tra xét thấy cần ngăn chặn ngay việc người đó bỏ trốn thì ra lệnh bắt khẩn cấp. Việc bắt người trong trường hợp này phải đảm bảo điều kiện sau: + Phải có người có mặt tại nơi xảy ra tội phạm chính mắt trông thấy và trực tiếp xác nhận đúng là người đã thực hiện tội phạm. + Xét thấy cần ngăn chặn ngay việc người đó bỏ trốn. - Trường hợp thứ ba: “Khi thấy có dấu vết của tội phạm ở người hoặc tại chỗ ở của người bị nghi thực hiện tội phạm và xét thấy cần ngăn chặn ngay việc người đó trốn hoặc tiêu huỷ chứng cứ” (điểm c – Khoản 1 – Điều 81 – BLTTHS năm 2003). Đây là trường hợp cơ quan có thẩm quyền chưa có đủ tài liệu, chứng cứ để xác định người đó thực hiện tội phạm; nhưng qua việc phát hiện thấy có dấu vết của tội phạm ở người hoặc tại chỗ ở của người bị nghi thực hiện tội phạm và xét thấy cần ngăn ngừa việc người này bỏ trốn hoặc tiêu hủy chứng cứ thì bắt khẩn cấp. Việc bắt người trong trường hợp này phải đảm bảo 2 điều kiện sau: + Khi thấy dấu vết của tội phạm ở người hoặc tại chỗ ở của người bị nghi thực hiện tội phạm. + Cần ngăn chặn người bị nghi thực hiện tội phạm trốn hoặc tiêu hủy chứng cứ. c. Thẩm quyền ra lệnh bắt người trong trường hợp khẩn cấp (quy định tại Khoản 2 – Điều 81 – BLTTHS năm 2003). Những người sau đây có quyền ra lệnh bắt khẩn cấp: - Thủ trưởng, Phó Thủ trưởng Cơ quan điều tra các cấp; - Người chỉ huy đơn vị quân đội độc lập cấp trung đoàn và tương đương; người chỉ huy đồn biên phòng ở hải đảo và biên giới; - Người chỉ huy tàu bay, tàu biển khi tàu bay, tàu biển đã rời khỏi sân bay, bến cảng. d. Thủ tục bắt người trong trường hợp khẩn cấp (Khoản 3, 4 – Điều 81 – BLTTHS năm 2003). Thủ tục bắt người trong trường hợp khẩn cấp cơ bản cũng giống như trong trường hợp bắt bị can, bị cáo để tạm giam (quy định tại Khoản 2 – Điều 80 – BLTTHS năm 2003) nhưng có 1 số điểm khác sau: - Lệnh bắt người trong trường hợp khẩn cấp không cần sự phê chuẩn của Viện kiểm sát cùng cấp trước khi thi hành. - Sau khi bắt người, việc bắt khẩn cấp phải được báo ngay cho Viện kiểm sát cùng cấp bằng văn bản cùng các tài liệu liên quan để xét và phê chuẩn. Viện kiểm sát phải thực hiện kiểm sát chặt chẽ các căn cứ bắt khẩn cấp trước khi quyết định phê chuẩn hoặc không phê chuẩn lệnh bắt. Trường hợp cần thiết, Viện kiểm sát phải trực tiếp gặp, hỏi người bị bắt. Nếu Viện kiểm sát không phê chuẩn thì phải trả tự do ngay cho người bị bắt. - Trong trường hợp khẩn cấp được bắt người vào bất kỳ lúc nào, không kể ban ngày hay ban đêm. 3. Bắt người phạm tội quả tang hoặc đang bị truy nã (Điều 82 – BLTTHS năm 2003). a. Khái niệm. Bắt người phạm tội quả tang là bắt người khi người đó đang thực hiện tội phạm hoặc ngay sau khi thực hiện tội phạm thì bị phát hiện hoặc bị đuổi bắt.((1). Trường ĐH Luật HN, Giáo trình Luật tố tụng hình sự Việt Nam, Nxb. Tư pháp, Hà Nội, 2006, tr 215. ) Các trường hợp bắt phạm tội quả tang (Khoản 1 – Điều 82 – BLTTHS năm 2003): + Trường hợp thứ nhất: Người đang thực hiện tội phạm thì bị phát hiện + Trường hợp thứ hai: Ngay sau khi thực hiện tội phạm thì bị phát hiện + Trường hợp thứ ba: Đang bị đuổi bắt Việc bắt người đang bị truy nã: là bắt người thực hiện hành vi phạm tội đã có lệnh bắt hoặc đã bị bắt, bị tạm giữ, tạm giam hoặc đang thi hành án phạt tù tại trại giam thì bỏ trốn b. Thẩm quyền bắt người phạm tội quả tang hoặc đang bị truy nã. Để huy động và phát huy tính tích cực của quần chúng trong cuộc đấu tranh chống và phòng ngừa tội phạm, nhằm kịp thời ngăn chặn hành vi phạm tội và trốn tránh pháp luật của người phạm tội, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, tập thể và công dân, BLTTHS 2003 quy định bất kỳ người nào cũng có quyền bắt người phạm tội quả tang hoặc người đang bị truy nã. c. Thủ tục bắt người phạm tội quả tang hoặc đang bị truy nã. - Việc bắt người phạm tội quả tang hay bị truy nã không cần lệnh của cá nhân hoặc cơ quan, tổ chức nào. Mọi công dân đều có quyền bắt và có quyền tước vũ khí, hung khí của người bị bắt. - Sau khi bắt người phạm tội quả tang hoặc đang bị truy nã, người bắt phải giải ngay người bị bắt đến cơ quan công an, Viện kiểm sát hoặc Uỷ ban nhân dân gần nhất. Các cơ quan này phải lập biên bản và giải ngay người bị bắt đến Cơ quan điều tra có thẩm quyền. 4. Những việc cần làm ngay sau khi bắt và nhận người bị bắt (Điều 83 – BLTTHS năm 2003). - Sau khi bắt hoặc nhận người bị bắt trong trường hợp khẩn cấp hoặc phạm tội quả tang, Cơ quan điều tra phải lấy lời khai ngay và trong thời hạn 24 giờ phải ra quyết định tạm giữ hoặc trả tự do cho người bị bắt. (Khoản 1 – Điều 83 – BLTTHS năm 2003). - Đối với người bị truy nã thì sau khi lấy lời khai, Cơ quan điều tra nhận người bị bắt phải thông báo ngay cho cơ quan đã ra quyết định truy nã để đến nhận người bị bắt. Sau khi nhận người bị bắt, cơ quan đã ra quyết định truy nã phải ra ngay quyết định đình nã. Trong trường hợp xét thấy cơ quan đã ra quyết định truy nã không thể đến nhận ngay người bị bắt thì sau khi lấy lời khai, Cơ quan điều tra nhận người bị bắt phải ra ngay quyết định tạm giữ và thông báo ngay cho cơ quan đã ra quyết định truy nã biết. Sau khi nhận được thông báo, cơ quan đã ra quyết định truy nã có thẩm quyền bắt để tạm giam phải ra ngay lệnh tạm giam và gửi lệnh tạm giam đã được Viện kiểm sát cùng cấp phê chuẩn cho Cơ quan điều tra nhận người bị bắt. Sau khi nhận được lệnh tạm giam, Cơ quan điều tra nhận người bị bắt có trách nhiệm giải ngay người đó đến trại tạm giam nơi gần nhất. (Khoản 2 – Điều 83 – BLTTHS năm 2003). - Người ra lệnh bắt, Cơ quan điều tra nhận người bị bắt phải thông báo ngay cho gia đình người đã bị bắt, chính quyền xã, phường, thị trấn hoặc cơ quan, tổ chức nơi người đó cư trú hoặc làm việc biết. Nếu thông báo cản trở việc điều tra thì sau khi cản trở đó không còn nữa, người ra lệnh bắt, Cơ quan điều tra nhận người bị bắt phải thông báo ngay.(Điều 85 – BLTTHS năm 2003 ) III. MỘT SỐ TRƯỜNG HỢP ĐẶC BIỆT TRONG VIỆC BẮT NGƯỜI. Ngoài việc bắt người đối với những đối tượng được quy định tại các Điều 80, 81, 82 – BLTTHS năm 2003 cũng cần lưu ý một số trường hợp sau: 1. Bắt người đối với trường hợp là người thuộc cơ quan dân cử như đại biểu Quốc hội hoặc đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp. “Không có sự đồng ý của Quốc hội và trong thời gian Quốc hội không họp, không có sự đồng ý của Uỷ ban thường vụ Quốc hội, thì không được bắt giam, truy tố đại biểu Quốc hội. Nếu vì phạm tội quả tang mà đại biểu Quốc hội bị tạm giữ, thì cơ quan tạm giữ phải lập tức báo cáo để Quốc hội hoặc Uỷ ban thường vụ Quốc hội xét và quyết định” ( Điều 99 – Hiến pháp năm 1992 sửa đổi, bổ sung năm 2001) “Không có sự đồng ý của Quốc hội và trong thời gian Quốc hội không họp, không có sự đồng ý của Uỷ ban thường vụ Quốc hội thì không được bắt giam, truy tố đại biểu Quốc hội và không được khám xét nơi ở và nơi làm việc của đại biểu Quốc hội. Việc đề nghị bắt giam, truy tố, khám xét nơi ở và nơi làm việc của đại biểu Quốc hội thuộc thẩm quyền của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao. Nếu vì phạm tội quả tang mà đại biểu Quốc hội bị tạm giữ, thì cơ quan tạm giữ phải lập tức báo cáo để Quốc hội hoặc Uỷ ban thường vụ Quốc hội xét và quyết định.” (Điều 58 – Luật tổ chức Quốc hội 2001). “Trong thời gian Hội đồng nhân dân họp, nếu không được sự đồng ý của Chủ tọa kỳ họp thì không được bắt giữ đại biểu Hội đồng nhân dân. Nếu vì phạm tội quả tang hoặc trong trường hợp  khẩn cấp mà đại biểu Hội đồng nhân dân bị tạm giữ thì cơ quan ra lệnh tạm giữ phải báo cáo ngay với Chủ tọa kỳ họp. Giữa hai kỳ họp Hội đồng nhân dân, nếu cơ quan nhà nước có thẩm quyền ra lệnh tạm giữ đại biểu Hội đồng nhân dân thì phải thông báo cho Chủ tịch Hội đồng nhân dân cùng cấp” (Điều 44 – Luật tổ chức Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân năm 2003). 2. Bắt người đối với trường hợp là người nước ngoài. “Hoạt động tố tụng hình sự đối với người nước ngoài phạm tội trên lãnh thổ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là công dân nước thành viên của điều ước quốc tế mà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã ký kết hoặc gia nhập thì được tiến hành theo quy định của điều ước quốc tế đó. Đối với người nước ngoài phạm tội trên lãnh thổ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam thuộc đối tượng được hưởng các đặc quyền ngoại giao hoặc quyền ưu đãi, miễn trừ về lãnh sự theo pháp luật Việt Nam, theo các điều ước quốc tế mà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã ký kết hoặc gia nhập hoặc theo tập quán quốc tế, thì vụ án được giải quyết bằng con đường ngoại giao.” (Điều 2 – BLTTHS năm 2003). 3. Bắt người đối với trường hợp chưa thành niên. Dưới góc độ khoa học pháp lý thì khái niệm người chưa thành niên được sử dụng đề chỉ người đang ở độ tuổi chưa đủ năng lực hành vi còn theo quy định của bộ luật tố tụng hình sự thì thủ tục áp dụng đối với người từ 14 tuổi tròn nhưng chưa đủ 18 tuổi là thủ tục áp dụng đối với người chưa thành niên. Do hạn chế về mặt tâm sinh lý, về sự phát triển thể chất nên khả năng nhận thức về tính chất nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội bị hạn chế và đôi khi còn bị tác động mạnh mẽ của điều kiện bên ngoài. Chính vì vậy, đối với đối tượng là người chưa thành niên có biện pháp xử lý riêng. Chính sách hình sự của nhà nước ta đối với người chưa thành niên chủ yếu là giáo dục và giúp đỡ họ sửa chữa những sai lầm để họ trở thành những người công dân tốt cho xã hội. Vì vậy bộ luật hình sự và bộ luật tố tụng hình sự có những quy định riêng đối với người chưa thành niên Điều 12 – Bộ luật hình sự 1999 sửa đổi, bổ sung năm 2009 và Điều 303 – BLTTHS năm 2003. Về thủ tục bắt người chưa thành niên thì trình tự thủ tục tiến hành như trình tự thủ tục chung, nhưng phải thông báo cho gia đình, người đại diện hợp pháp của họ biết ngay khi sau khi bắt. Khi tiến hành bắt người chưa thành niên, cơ quan nhận người bị bắt phải kịp thời xác minh ngay người chưa thành niên đó đã đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự hay chưa, tội phạm mà người chưa thành niên đó thực hiện có phải là tội nghiêm trọng hay không họ có đủ điều kiện để áp dụng biện pháp ngăn chặn bắt hay không. Nếu xét thấy không đủ hai điều kiện đó, cơ quan đã nhận người bị bắt phải trả tự do ngay cho người bị bắt, nếu cần thiết có thể yêu cầu cha, mẹ hoặc người đỡ đầu của người chưa thành niên đó giám sát, giáo dục. Thủ tục bắt người đối với đối tượng là người chưa thành niên thể hiện chính sách nhân đạo của nhà nước. IV. THỰC TIỄN THỰC HIỆN VÀ MỘT SỐ ĐỀ XUẤT TRONG VIỆC HOÀN THIỆN NHỮNG QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT TRONG VIỆC BẮT NGƯỜI. Việc bắt người đúng pháp luật sẽ góp phần nâng cao hiệu quả của cuộc đấu tranh phòng, chống tội phạm, ngăn ngừa kịp thời những hành vi phạm tội cũng như hành vi trốn tránh pháp luật, gây khó khăn cho việc giải quyết vụ án, bảo đảm cho việc điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án được thuận lợi. Ngược lại, việc bắt người không đúng pháp luật sẽ gây tác hại nhiều mặt như xâm phạm quyền tự do thân thể của công dân, làm giảm uy tín của Nhà nước và các cơ quan bảo vệ pháp luật, gây hoang mang trong dư luận, dễ bị các thế lực phản động, thù địch trong và ngoài nước lợi dụng để xuyên tạc nói xấu chế độ, chống lại Nhà nước. Do đó cải cách tư pháp trong tố tụng hình sự là một việc làm cần thiết để nâng cao chất lượng và hiệu quả của pháp luật. Dưới đây em xin trình bày 1 số ý kiến về vấn đề này: - Về hình thức lập pháp theo quy định tại Điều 80 – BLTTHS năm 2003 đối với trường hợp bắt bị can, bị cáo để tạm giam chưa quy định căn cứ bắt cho trường hợp này và những trường hợp không bắt tạm giam. Đối chiếu với quy định về các trường hợp bắt khác quy định như vậy là chưa thống nhất. Theo em cần bổ sung quy định này vào Điều 80 BLTTHS như: “ Bắt tạm giam có thể được áp dụng đối với bị can, bị cáo trong trường hợp: Bị can, bị cáo phạm tội đặc biệt nghiêm trọng; phạm tội rất nghiêm trọng; bị can, bị cáo phạm tội nghiêm trọng, phạm tội ít nghiêm trọng mà BLHS quy định hình phạt tù trên hai năm và có căn cứ cho rằng người đó có thể trốn hoặc cản trở việc điều tra, truy tố, xét xử hoặc có thể tiếp tục phạm tội” và “đối với bị can, bị cáo là phụ nữ có thai hoặc đang nuôi con dưới ba mười sáu tháng tuổi, là người già yếu, người bị bệnh nặng mà nơi cư trú rõ ràng thì không tạm giam mà áp dụng biện pháp ngăn chặn khác, trừ những trường hợp: Bị can, bị cáo bỏ trốn và bị bắt theo lệnh truy nã; bị can, bị cáo được áp dụng biện pháp ngăn chặn khác nhưng tiếp tục phạm tội hoặc cố ý gây cản trở nghiêm trọng đến việc điều tra, truy tố, xét xử;bị can, bị cáo phạm tội xâm phạm an ninh quốc gia và có đủ căn cứ cho rằng nếu không tạm giam đối với họ thì sẽ gây nguy hại đến an ninh quốc gia”. - Thực tế cho thấy việc bắt người bị kết án để thi hành bản án mà trước đó họ chưa bị tạm giam cũng gặp nhiều bất cập. Vì vậy cần ban hành mẫu lệnh bắt thống nhất “Lệnh bắt người bị kết án để thi hành án” theo thẩm quyền của Tòa án, giao cho lực lượng Cảnh sát hỗ trợ tư pháp thực thi theo thủ tục chung. (trích ý kiến trên www.google.com) - Trường hợp bị can, bị cáo phạm tội ít nghiêm trọng mà BLHS quy định hình phạt tù dưới 2 năm thì không bị bắt để tạm giam; nhưng đối với các trường hợp bị can, bị cáo không có nơi cư trú rõ ràng hoặc có nơi cư trú nhưng ở cách xa Cơ quan điều tra hoặc có tiền án tiền sự hoặc là lưu manh chuyên nghiệp có biểu hiện trốn, cản trở hoạt động điều tra, truy tố, xét xử thì có thể bắt tạm giam. Mặc dù, quan điểm hiện nay nên giảm thiểu các trường hợp bắt bị can, bị cáo để tạm giam, nhưng việc quy định bắt tạm giam đối với đối tượng này là cần thiết cho hoạt động điều tra của Cơ quan điều tra. - Về khoản 4 – Điều 81 - BLTTHS năm 2003 có quy định về thẩm quyền xét phê chuẩn lệnh bắt khẩn cấp thuộc về Viện Kiểm sát cùng cấp. Tuy nhiên, đối với trường hợp người có thẩm quyền ra lệnh bắt khẩn cấp là “Người chỉ huy đơn vị quân đội độc lập cấp trung đoàn và tương đương; người chỉ huy đồn biên phòng ở hải đảo và biên giới” và “Người chỉ huy tàu bay, tàu biển khi tàu bay, tàu biển đã rời khỏi sân bay, bến cảng” quy định tại điểm b, c – Khoản 2 – Điều 81 của Bộ luật này thì rất khó xác định được Viện Kiểm sát cùng cấp như khi tàu bay đang bay trên bầu trời, tàu biển đang ở ngoài biển... Theo em cần quy định bổ sung trong khoản 4 Điều 81 với nội dung “đối với trường hợp quy định tại điểm b, c – Khoản 2 Điều luật này, thẩm quyền để xét phê chuẩn lệnh bắt khẩn cấp là Viện Kiểm sát nơi có sân bay hoặc bến cảng trở về đầu tiên hoặc nơi tàu bay, tàu biển đó được đăng ký” . Quy định như vậy mới kịp thời ngăn chặn hành vi phạm tội, ngăn chặn hành động gây khó khăn cản trở cho việc điều tra, truy tố, xét xử. - BLTTHS năm 2003 quy định việc bắt người phạm tội quả tang hoặc đang bị truy nã trong cùng một điều luật tại Điều 82. Việc bắt người trong hai trường hợp này quy định: “ Đối với người đang thực hiện tội phạm hoặc ngay sau khi thực hiện tội phạm thì bị phát hiện hoặc bị đuổi bắt, cũng như người đang bị truy nã thì bất kỳ người nào cũng có quyền bắt và giải ngay đến Cơ quan Công an, Viện Kiểm sát hoặc Ủy ban nhân dân nơi gần nhất”. Về phương diện lý luận cũng như thực tiễn áp dụng quy định này cho thấy: Quy định chung việc bắt người phạm tội quả tang hoặc đang bị truy nã vào cùng một điều luật là không phù hợp, vì đối tượng và thủ tục áp dụng, những việc cần làm sau khi tiếp nhận người bị bắt trong hai trường hợp này không giống nhau. - Quy định của pháp luật Việt Nam về áp dụng biện pháp bắt người nước ngoài phạm tội. Trong xu thế hội nhập và phát triển hiện nay, ngày càng có nhiều người nước ngoài đến Việt Nam để đầu tư, kinh doanh, du lịch. Khi đến Việt Nam, đa số họ chấp hành tốt pháp luật của Nhà nước ta. Tuy nhiên có những trường hợp họ đã thực hiện hành vi vi phạm pháp luật khác. Việc bắt họ là cần thiết nhằm ngăn chặn tội phạm và tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động Tố tụng hình sự. Thực tiễn việc áp dụng các biện pháp ngăn chặn bắt người đối với họ đang có những vướng mắc nhất định, do vậy việc nghiên cứu, làm rõ các quy định của pháp luật Việt Nam về bắt người nước ngoài phạm tội có ý nghĩa thiết thực trong giai đoạn hiện nay đối với các cơ quan tiến hành tố tụng hình sự. Khi bắt người nước ngoài phạm tội, ngoài việc tuân theo các quy định từ Điều 79 đến Điều 82 – BLTTHS năm 2003 còn phải tuân theo quy định của các văn bản pháp luật khác. Người nước ngoài là người không có quốc tịch Việt Nam, họ có thể là người không có quốc tịch hoặc có quốc tịch nước khác hiện đang sinh sống tại Việt Nam, họ có địa vị pháp lý khác nhau nên khi phạm tội thì thẩm quyền, thủ tục bắt họ cũng khác nhau. - Đối với người nước ngoài được hưởng quyền miễn trừ ngoại giao và lãnh sự: theo quy định tại Điều 10 – Pháp lệnh về quyền ưu đãi miễn trừ dành cho cơ quan ngoại giao, cơ quan lãnh sự và cơ quan đại diện tổ chức quốc tế tại Việt Nam năm 1993 thì viên chức ngoại giao được hưởng quyền bất khả xâm phạm về thân thể và được đối xử trọng thị, họ không thể bị bắt, bị tạm giữ dưới bất kỳ hình thức nào. Nếu họ phạm tội quả tang thì cơ quan có thẩm quyền chỉ lập biên bản, thu giữ vật chứng, sau đó trả tự do cho họ và báo cáo ngay lên lãnh đạo Bộ Công an, cơ quan đại diện ngoại giao biết để phối hợp, xử lý. Các thủ tục tiếp theo giải quyết bằng con đường ngoại giao. - Đối với người nước ngoài không được hưởng quyền miễn trừ ngoại giao và lãnh sự: phạm tội trên lãnh thổ nước Việt Nam. Theo Công văn số 318/CV-BNV(V11) ngày 29/03/1992 của Bộ Công an về việc báo cáo xin ý kiến trước khi bắt, giam giữ một số đối tượng đặc biệt, thì việc bắt người nước ngoài phạm tội phải báo cáo xin ý kiến lãnh đạo Bộ trước khi bắt; nếu phạm tội quả tang thì ngay sau khi bắt phải báo cáo nhanh nhất lên lãnh đạo Bộ. Quy định này là cần thiết và phù hợp với đặc điểm tình hình trước đây, thời điểm đó số lượng người nước ngoài vào nước ta còn hạn chế, đối tượng phạm tội chưa nhiều, chưa phổ biến. - Việc áp dụng biện pháp ngăn chặn bắt người có thân phận ngoại giao phạm tội trên lãnh thổ Việt Nam còn gặp một số khó khăn, vướng mắc: + Một là, khi tiến hành bắt khẩn cấp hoặc bắt bị can để tạm giam đối với họ phải tuân theo theo quy định của luật Tố tụng hình sự như: đọc và giải thích lệnh bắt, hoạt động này thường phải có người phiên dịch. Khi thi hành lệnh bắt khẩn cấp cũng rất khó thực hiện, vì trường hợp bắt này mang cấp tính cấp bách, người phiên dịch của ta còn ít, khả năng ngoại ngữ của lực lượng tiến hành bắt còn hạn chế. Vì vậy, vấn đề đọc lệnh; giải thích quyền và nghĩa vụ của người bị bắt chỉ mang tính hình thức, đối tượng bị bắt không hiểu được họ có quyền và nghĩa vụ gì khi tham gia Tố tụng hình sự. + Hai là, Điều 24 – BLTTHS năm 2003 cho phép người tham gia tố tụng được quyền dùng tiếng nói và chữ viết của dân tộc mình, vì thế một số đối tượng người nước ngoài đã lợi dụng điểm này, dù biết tiếng Anh nhưng họ vẫn cứ dùng ngôn ngữ bản địa giao dịch với cơ quan điều tra. Người phiên dịch của nước ta chủ yếu dùng tiếng Anh, Nga, Pháp, Trung Quốc; các thứ tiếng khác như: Thái Lan, Pakistan, Iran, Nigieria, Ghana, Congo…rất ít người phiên dịch. Khi không giao dịch được thì khó khăn cho việc thu thập tài liệu, chứng cứ ban đầu để bắt người phạm tội. Có trường hợp quần chúng bắt người nước ngoài phạm tội quả tang giao cho cơ quan Công an, do bất đồng ngôn ngữ nên cơ quan Công an không lấy lời khai, thu thập tài liệu chứng cứ để chứng minh tội phạm, khi hết thời hạn tạm giữ thì phải trả tự do cho họ. Như vậy, trường hợp này đã để lọt tội phạm, ảnh hưởng tới hiệu quả của công tác đấu tranh phòng chống tội phạm. + Ba là, để bắt người theo quyết định truy nã có kết quả thì trong quyết định này phải có đủ những thông tin về đối tượng bị bắt, thực tế nhiều quyết định truy nã người nước ngoài phạm tội lại thiếu những thông tin cần thiết. Khi có quyết định truy nã người nước ngoài phạm tội thì cơ quan có thẩm quyền phải báo cáo ngay cho Văn phòng Interpol để phối hợp truy bắt. Công an các tỉnh, thành phải xác định được đầy đủ các thông tin cần thiết về đặc điểm nhân thân, đặc điểm dạng người, quốc tịch của người bị bắt và báo ngay cho Văn phòng Interpol để phối hợp truy bắt đối tượng, đồng thời phải báo ngay cho phòng Quản lý xu

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docBài tập học kỳ tố tụng HS- Quy định của Bộ luật tố tụng hình sự về bắt người, thực tiễn thi hành và hướng hoàn thiện.doc
Tài liệu liên quan