Tiểu luận Quy luật mâu thuẫn của phép biện chứng duy vật với việc phân tích hệ thống mâu thuẫn kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam

MỤC LỤC

LỜI NÓI ĐẦU 1

CHƯƠNG I : QUAN ĐIỂM CỦA CHỦ NGHĨA DUY VẬT VỀ MÂU THUẪN 3

1.1.Một số tư tưởng triết học về mâu thuẫn và các mặt đối lập. 3

1.2. Quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng về mâu thuẫn. 4

1.2.1. Sự đấu tranh của các mặt đối lập trong một thể thống nhất 4

1.2.2. Chuyển hóa của các mặt đối lập: 7

CHƯƠNG II. TÍNH TẤT YẾU CỦA QUÁ TRÌNH XÂY DỰNG NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG Ở VIỆT NAM. 8

2.1. Khái niệm nền kinh tế thị trường ở Việt Nam. 8

2.2. Tính tất yếu khách quan chuyển sang nền kinh tế thị trường ở Việt Nam .10

2.3. Những thành tựu đạt được sau hơn 10 năm đổi mới. 11

CHƯƠNG III. MÂU THUẪN BIỆN CHỨNG TRONG QUÁ TRÌNH XÂY DỰNG NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG THEO ĐỊNH HƯỚNG XHCN Ở VIỆT NAM. 14

3.1. Những biểu hiện mâu thuẫn trong quá trình xây dựng nền KTTT (kinh tế thị trường) theo định hướng XHCN ở nước ta.14

3.2. Mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất. 15

3.3. Mâu thuẫn giữa các hình thái sở hữu trước đây và trong kinh tế thị trường. 16

3.4. Mâu thuẫn giữa kinh tế thị trường và mục tiêu xây dựng con người XHCN. 18

KẾT LUẬN 20

TÀI LIỆU THAM KHẢO 21

 

doc22 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 3303 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tiểu luận Quy luật mâu thuẫn của phép biện chứng duy vật với việc phân tích hệ thống mâu thuẫn kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
đối lập như vậy mới gọi là hai mặt đối lập mâu thuẫn"thống nhất" của hai mặt đối lập được hiểu với ý nghĩa không phải chúng đứng cạnh nhau mà nương tựa vào nhau, tạo ra sự phù hợp cân bằng như liên hệ phụ thuộc, quy định và ràng buộc lẫn nhau. Mặt đối lập này lấy mặt đối lập kia làm tiền đề cho sự tồn tại của mình và ngược lại. Nếu thiếu một trong hai mặt đối lập chính tạo thành sự vật thì nhất định không tồn tại của sự vật. Bởi vậy sự thống nhất của các mặt đối lập là điều kiện không thể thiếu được cho sự tồn tại của bất kỳ sự vật hiện tượng nào. Sự thống nhất này do những đặc điểm riêng có của bản thân sự vật tạo nên. Ví dụ: Trong nền kinh tế tập trung quan liêu bao cấp và nền kinh tế thị trường là điều kiện cho sự tồn tại của công cuộc đổi mới nền kinh tế ở Việt Nam, hai nền kinh tế khác nhau hoàn toàn về bản chất và những biểu hiện của nó nhưng nó lại hết sức quan trọng. Vì nó có sự thống nhất này nên nền kinh tế thị trường ở Việt Nam không thể tồn tại với ý nghĩa là chính nó. Sự thống nhất của các mặt đối lập trong cùng một sự vật không tách rời sự đấu tranh chuyển hóa giữa chúng. Bởi vì các mặt đối lập cùng tồn tại trong một sự vật thống nhất như một chỉnh thể trọn vẹn nhưng không nằm yên bên nhau mà điều chỉnh chuyển hóa lẫn nhau tạo thành động lực phát triển của bản thân sự vật. Sự đấu tranh chuyển hóa, bài trừ, phủ định lẫn nhau giữa các mặt trong thế giới khách quan thể hiện dưới nhiều hình thức khác nhau. Ví dụ: Lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất trong giai cấp có đối kháng mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất tiên tiến với quan hệ sản xuất lạc hậu kìm hãm nó diễn ra rất quyết liệt và gay gắt. Chỉ thông qua các cuộc cách mạng xã hội bằng rất nhiều hình thức, kể cả bạo lực mới có thể giải quyết mâu thuẫn một cách căn bản. Sự đấu tranh của các mặt đối lập được chia làm nhiều giai đoạn. Thông thường, khi nó mới xuất hiện, hai mặt đối lập chưa thể hiện rõ xung khắc gay gắt người ta gọi đó là giai đoạn khác nhau. Tất nhiên không phải bất kỳ sự khác nhau nào cũng được gọi là mâu thuẫn. Chỉ có những khác nhau tồn tại trong một sự vật nhưng liên hệ hữu cơ với nhau, phát triển ngược chiều nhau, tạo thành động lực bên trong của sự phát triển thì hai mặt đối lập ấy mới hình thành bước đầu của một mâu thuẫn. Khi hai mặt đối lập của một mâu thuẫn phát triển đến giai đoạn xung đột gay gắt, nó biến hành độc lập. Sự vật cũ mất đi, sự vật mới hình thành. Sau khi mâu thuẫn được giải quyết sự thống nhất của hai mặt đối lập cũ được thay thế bởi sự thống nhất của hai mặt đối lập mới, hai mặt đối lập mới lại đấu tranh chuyển hóa tạo thành mâu thuẫn. Mâu thuẫn được giải quyết, sự vật mới xuất hiện. Cứ như thế, đấu tranh giữa các mặt đối lập làm cho sự vật biến đổi không ngừng từ thấp lên cao. Vì vậy, Lênin khẳng định"sự phát triển là một cuộc đấu tranh giữa các mặt đối lập". Khi bàn về mối quan hệ giữa sự thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập, Lênin chỉ ra rằng:"Mặc dù thống nhất chỉ là điều kiện để sự vật tồn tại với ý nghĩa là chính nó - như có sự thống nhất của các mặt đối lập mà chúng ta nhận biết được sự vật, hiện tượng tồn tại trong thế giới khách quan. Song bản thân của sự thống nhất chỉ là tương đối và tạm thời. Đấu tranh giữa các mặt đối lập mới là tuyệt đối. Nó diễn ra thường xuyên, liên tục trong suốt quá trình tồn tại của sự vật. Kể cả trong trạng thái sự vật ổn định, cũng như khi chuyển hóa nhảy vọt về chất". 1.2.2. Chuyển hóa của các mặt đối lập Không phải bát kỳ sự đấu tranh nào của các mặt đối lập đều dẫn đến sự chuyển hóa giữa chúng. Chỉ có sự đấu tranh của các mặt đối lập phát triển đến bất kỳmột trình độ nhất định, hội đủ các điều kiện cần thiết dẫn đến chuyển hóa, bài trừ và phủ định nhau. Trong giới tự nhiên, chuyển hóa của các mặt đối lập thường diễn ra một cách tự phát, còn trong xã hội, chuyển hóa của các mặt đối lập nhất thiết phải thông qua hoạt động có ý thức của con người. Vì vậy, không nên hiểu sự chuyển hóa lẫn nhau giữa các mặt đối lập chỉ là sự hoán đổi vị trí một cách đơn giản, máy móc. Thông thường thì mâu thuẫn chuyển hóa theo hai phương thức: + Phương thức thứ nhất: Mặt đối lập này chuyển hóa thành mặt đối lập kia nhưng ở trình độ cao hơn xét về phương diện vật chất của sự vật. Ví dụ: Lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất trong xã hội phong kiến đấu tranh chuyển hóa lẫn nhau để hình thành quan hệ sản xuất mới là quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa và lực lượng sản xuất mới ở trình độ cao hơn. + Phương thức thứ hai: Cả hai mặt đối lập chuyển hóa lẫn nhau để thành hai mặt đối lập mới hoàn toàn. Ví dụ: Nền kinh tế Việt Nam chuyển từ nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung, quan liêu, bao cấp sang cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Từ các mâu thuẫn trên cho ta thấy trong thế giới hiện thực, bất kỳ sự vật hiện tượng nào cũng chứa đựng trong bản thân nó những mặt, những thuộc tính có khuynh hướng phát triển ngược chiều nhau. Sự đấu tranh chuyển hóa của các mặt đối lập trong điều kiện cụ thể tạo thành mâu thuẫn. Mâu thuẫn là hiện tượng khách quan, phổ biến của thế giới. Mâu thuẫn được giải quyết, sự vật cũng mất đi, sự vật mới hình thành. Sự vật mới lại nảy sinh các mặt đối lập và mâu thuẫn mới. Các mặt đối lập này lại đấu tranh chuyển hóa và phủ định lẫn nhau để tạo thành sự vật mới hơn. Cứ như vậy mà các sự vật, hiện tượng trong thế giới khách quan thường xuyên phát triển và biến đổi không ngừng. Vì vầy, mâu thuẫn là nguồn gốc và động lực của mọi quá trình phát triển. CHương II. Tính tất yếu khách quan của quá trình xây dựng nền kinh tế thị trường ở Việt Nam. 2.1 Khái niệm kinh tế thị trường. Kinh tế thị trường là một kiểu quan hệ kinh tế xã hội mà trong đó sản xuất xã hội gắn chặt với thị trường, tức là gắn chặt chẽ với quan hệ hàng hóa - tiền tệ với quan hệ cung cầu ... Trong nền kinh tế thị trường nét biểu hiện có tính chất bề mặt của đời sống xã hội là quan hệ hàng hóa . Mọi hoạt động xã hội đều phải tính đến quan hệ hàng hóa, hay ít nhất thì cũng phải sử dụng các quan hệ hàng hóa như mắt khâu trung gian. Trước khi chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường nền kinh tế của nước ta là nền kinh tế tập trung quan liêu bao cấp, việc áp dụng cơ chế quản lý cũ không còn hợp lý và dẫn đến nhiều tiêu cực, sản xuất kém hiệu quả do sự quản lý không có hiệu quả. Đến giữa những năm 80 thì những mâu thuẫn trong nền kinh tế này đã đi đến đỉnh điểm. Sản xuất thua lỗ, đình đốn, lạm phát, tham nhũng tăng nhanh, đời sống nhân dân bị giảm sút, thậm chí một số địa phương nạn đói đang rình rập. Nguyên nhân sâu xa về sự suy thoái nền kinh tế ở nước ta là do ta rập khuôn một mô hình kinh tế không thích hợp và kém hiệu quả. Tại Đại hội VI của đảng đã chủ trương phát triển nền kinh tế nhiêu thành phần và thực hiện chuyển đổi cơ chế quản lý kinh tế từ cơ chế kế hoạch hóa tập trung sang cơ chế hạch toán kinh doanh XHCN. Đến đại hội VII Đảng ta xác định rõ việc đổi mới cơ chế kinh tế ở nước ta là một tất yếu khách quan và trên thực tế đang diễn ra việc đó, tức là chuyển từ nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung sang nền kinh tế thị trường có sự quản lý của nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Đây là một sự thay đổi về nhận thức có ý nghĩa rất quan trọng trong lý luận cũng như trong thực tế lãnh đạo của Đảng trên mặt trận làm kinh tế. Xem xét dưới góc độ khoa học việc chuyển đổi nền kinh tế nước ta sang nền kinh tế thị trường là đúng đắn. Nó phù hợp với thực tế của nước ta phù hợp với các quy luật kinh tế và với xu thế của thời đại. Thứ nhất : nếu không thay đổi cơ chế kinh tế vẫn giữ cơ chế kinh tế cũ thì không thể nào có đủ sản phẩm để tiêu dùng chứ chưa muốn nói đến tích lũy vốn để mở rộng sản xuất. Thực tế những năm cuối của thập kỷ 80 đã chỉ rõ thực hiện cơ chế kinh tế cũ cho dù chúng ta đã liên tục đổi mới hoàn thiện cơ chế quản lý kinh tế , nhưng hiệu quả của nền sản xuất xã hội đạt mức rất thấp. Sản xuất không đáp ứng nổi nhu cầu tiêu dùng của xã hội, tích lũy hầu như không có đôi khi còn ăn lạm cả vào vốn vay của nước ngoài. Thứ hai: do đặc trưng của nền kinh tế tập trung là rất cứng nhắc do đó nó chỉ có tác dụng thúc đẩy tăng trưởng kinh tế trong giai đoạn ngắn và chỉ có tác dụng phát triển nền kinh tế theo chiều rộng. Nền kinh tế chỉ huy ở nước ta tồn tại quá dài do đó nó không những không còn tác dụng đáng kể trong việc thúc đẩy sản xuất phát triển mà nó còn sinh ra nhiều hiện tượng tiêu cực làm giảm năng suất chất lượng và hiệu quả sản xuất. Thứ ba: Xét về sự tồn tại thực tế ở nước ta những nhân tố của kinh tế thị trường. Về vấn đề này có nhiều ý kiến đánh gía khác nhau. Nhiều ý kiến cho rằng thị trường ở nước ta là thị trường mới hình thành còn non yếu và còn là thị trường sơ khai. Thực tế kinh tế thị trường đã hình thành và phát triển đạt được những mức phát triển khác nhau ở hầu hết các đô thị và các vùng đồng bằng ven biển. Thị trường trong nước đã được thông suốt và vươn tới những vùng hẻo lánh và đang được mở rộng với thị trường quốc tế. Nhưng thị trường ở nước ta phát triển chưa đồng bộ còn thiếu hẳn thị trường các yếu tố sản xuất như thị trường lao động, thị trường vốn, thị trường đất đai và về cơ bản vẫn là thị trường tự do, mức độ can thiệp của nhà nước còn rất thấp. Thứ tư: Xét về mối quan hệ kinh tế đối ngoại ta thấy nền kinh tế nước ta đang hòa nhập với nền kinh tế thị trường thế giới, sự giao lưu về hàng hóa, dịch vụ và đầu tư trực tiếp của nước ngoài làm cho sự vận động của nền kinh tế nước ta gần gũi hơn với nền kinh tế thị trường thế giới. Tương quan giá cả của các loại hàng hóa trong nước gần gũi hơn với tương quan giá cả hàng hóa quốc tế. Thứ năm: Xu hướng chung phát triển kinh tế của thế giới là sự phát triển kinh tế của mỗi nước không thể tách rời sự phát triển và hòa nhập sự cạnh tranh giữa các quốc gia đã thay đổi hẳn về chất không còn là dân số đông, vũ khí nhiều, quân đội mạnh, mà là tiềm lực kinh tế. Mục đích của các chính sách, của các quốc gia là tạo ra dược nhiều của cải vật chất trong quốc gia của mình là tốc độ phát triển kinh tế cao, đời sống nhân dân được cải thiện, thất nghiệp thấp. Tiềm lực kinh tế đã trở thành thước đo chủ yếu, vai trò và sức mạnh của mỗi dân tộc, là công cụ chủ yếu để bảo vệ uy tín và duy trì sức mạnh của các đảng cầm quyền. 2.2. Chuyển sang nền kinh tế thị trường là một tất yếu khách quan trong quá trình phát triển nền kinh tế đất nước . Trước tình hình kinh tế của đất nước như vậy thì quá trình chuyển đổi nền kinh tế là một tất yếu nhưng rất phức tạp và hết sức đa dạng có nước chuyển nhanh có nước chuyển chậm. Một câu hỏi đặt ra chuyển đổi như thế nào thì có hiệu quả. Thứ nhất: việc chuyển đổi này là một thay đổi cơ bản về chất từ cơ chế kinh tế cho đến cách thức quản lý kinh tế do đó không thể thực hiện được bằngcác sắc lệnh chủ quan mà chỉ có thể thực hiện được bằng sự vận động của bản thân nền kinh tế theo trật tự những nhân tố mới hình thành phát triển thay thế dần các nhân tố cũ. Cơ chế kinh tế mới chỉ chiến thắng cơ chế kinh tế cũ khi năng suất lao động và hiệu quả kinh tế do cơ chế mới tạo ra cao hơn năng suất lao động và hiệu quả kinh tế do cơ chế cũ đã tạo ra trước đó. Vì vậy vai trò chủ đạo của nhà nước là thúc đẩy tiến trình chuyển đổi theo hướng khách quan nhằm tạo điều kiện cho cơ chế kinh tế mới nhanh chóng thay thế cơ chế kinh tế cũ. Thứ hai: thay thế cơ chế cũ bằng cơ chế mới không phải là xóa bỏ sạch trơn cái cũ mà là loại bỏ những mặt tiêu cực lạc hậu và giữ lại những tích cực tiến bộ còn phù hợp với điều kiện mới. Thứ ba: trong quá trình chuyển đổi xuất hiện khoảng trống giữa hai cơ chế kinh tế. Khoảng trống nếu kéo dài rất dễ phát sinh ra các hiện tượng tiêu cực như tham ô lãng phí chuyển sở hữu công cộng thành sở hữu cá nhân. Do đó vấn đề cấp bách của việc chuyển đổi là nhà nước phải nhanh chóng xóa bỏ khoảng trống giữa hai cơ chế kinh tế và sớm thoát khỏi vùng tranh tối tranh sáng, nơi mà thường xảy ra rất nhiều các hiện tượng tiêu cực. Do đó trong một số trường hợp nhà nước phải đóng vai trò"bà đỡ"cho thị trường phát triển được đồng bộ và đầy đủ hơn. Muốn làm được những việc trên chúng ta phải xác định cho được nền kinh tế thị trường hướng tới Đảng nhà nước mong muốn. 2.3. Những thành tựu đạt được sau hơn 10 năm đổi mới. Thực hiện 10 năm đổi mới ở Việt Nam đã CM mô hình CNXH mà Lênin nêu ra trong chính sách kinh tế mới là khoa học và phù hợp với quy hoạch khách quan của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Việt Nam đã biến hành phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần. Các thành phần kinh tế có vai trò đặc điểm khác nhau song chúng có mối quan hệ chặt chẽ và biện chứng với nhau, làm tiền đề cho nhau. Việt Nam đã tiến hành phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng XHCN. Đảng ta đã khẳng định việc phát triển kinh tế hàng hóa nhiều thành phần là vấn đề có ý nghĩa chiến lược lâu dài, có tính quy luật và thuộc về bản chất của nền kinh tế trong thời kỳ quá độ, chứ không phải là tàn dư của xã hội trước để lại. Đảng ta còn xác định được các bước đi trong thời kỳ quá độ. Thực hiện một loạt các bước quá độ trung gian như. Xác định chặng đường đầu tiên của thời kỳ quá độ. Và những chặng đường tiếp theo đến năm 2000, 2010, 2020... Để xác định công nghiệp hóa cho phù hợp. Từ chỗ lấy nông nghiệp là mặt trận hàng đầu tiến tới phát triển ba chương trình kinh tế, đến nay đi vào giai đoạn đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, trong đó rất coi trọng công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông thôn. Quá trình đó thực sự là một cuộc cách mạng trong tư duy đó là. Tiếp cận, nắm bắt và tận dụng các yếu tố khách quan, từng bước phát triển kinh tế vững chắc,từng bước củng cố và hoàn thiện thể chế xã hội - XHCN. Mặt khác để phát huy lợi thế so sánh và lợi thế của các nước đi sau. Đảng ta đã thực hiện nền kinh tế mở theo nguyên tắc. Bình đẳng, hợp tác cùng có lợi, chủ trương là bạn với tất cả các nước. Vì hòa bình độc lập và phát triển, mở rộng buôn bán hợp tác trên lĩnh vực đầu tư nghiên cứu khoa học, chuyển giao công nghệ nhằm tranh thủ vốn và khoa học - công nghệ hiện đại của thế giới. Thông qua các hình thức liên doanh liên kết và xây dựng các khu chế xuất hay đặc khu công nghiệp. Chúng ta đã đạt được những thành tựu to lớn sau hơn 10 năm đổi mới. Nền kinh tế thoát khỏi khủng hoảng triền miên hàng chục năm và bước đầu thời kỳ phát triển toàn diện và tăng trưởng liên tục. Tốc độ tăng GDP bình quân 1 năm của thời kỳ 1996-2000 đạt 7% so với 3,9% thời kỳ 1986-1990. Lạm phát giảm từ 774,6% năm 1986 xuống còn 67,4% năm 1990;12,7% năm 1995; 0,% năm 1999 và 0% năm 2000. Sản xuất công nghiệp tăng trưởng liên tục với tốc độ cao. Bình quân thời kỳ 1991-1995 tăng 13,7%, thời kỳ 1996-2000 trên 13,2%. Mức bình quân đầu người của nhiều sản phẩm công nghiệp như điện, than, vải, thép, xi măng... tăng nhanh trong những năm đổi mới, đáp ứng tốt hơn nhu cầu sản xuất và đời sống nhân dân và xuất khẩu. Riêng ngành công nghiệp khai thác dầu khí, xuất hiện trong thời kỳ đổi mới với sản lượng 40 ngàn tấn dầu thô năm 1986 đã tăng lên 15 triệu tấn 2000 với giá trị xuất khẩu 3,3 tỷ USD. Không chỉ tăng trưởng cao mà sản xuất công nghiệp những năm cuối thế kỷ XX đã xuất hiện xu hướng đa ngành, đa sản phẩm và đa thành phần, trong đó công nghiệp quốc doanh vẫn giữ vai trò chủ đạo. Nông nghiệp phát triển toàn diện cả trồng trọt, chăn nuôi, nghề rừng và thủy sản. Thành tựu nổi bật nhất là đã giải quyết vững chắc an toàn lương thực quốc gia, biến Việt Nam từ nước thiếu lương thực trước năm 1989 thành nước xuất khẩu gạo thứ hai thế giới. Tính chung 12 năm qua nước ta đã xuất khẩu 30,5 triệu tấn gạo, bình quân 2,54 triệu tấn/ năm nhưng thị trường và giá cả lương thực trong nước vẫn ổn định, kể cả những năm thiên tai lớn. Tốc độ tăng sản lượng lương thực bình quân 5%/năm, cao hơn tốc độ tăng dân số (1,8%) nên lương thực bình quân đầu người từ 280kg năm 1987 tăng lên 455kg năm 2000. Các mặt hàng nông sản xuất khẩu Việt Nam vừa tăng nhanh về số lượng vừa nâng cao về chất lượng. Năm 2000 sản lượng cà phê xuất khẩu đã đạt 660 nghìn tấn, gấp 2,7 lần năm 1995 và đúng vị trí thứ 2 thế giới sau Braxin. Giá trị xuất khẩu thủy sản đạt 1,4 tỷ USD, gấp 2,5 lần năm 1995. Hoạt động xuất nhập khẩu sôi động, kim ngạch xuất khẩu tăng từ 570 triệu USD thời kỳ 1981 - 1985 lên 1370 triệu USD thời kỳ 1986 - 1990, 3401 triệu USD thời kỳ 1991 - 1995 và 5646 triệu USD/năm thời kỳ 1996 - 2000, riêng năm 2000 đạt 14 tỷ USD. Nhập siêu giảm từ 3,8 tỷ USD năm 1996 xuống còn 800 triệu USD năm 2000. Đến nay Việt Nam đã có quan hệ bình đẳng với hơn 150 nước trên thế giới. Hoạt động đầu tư nước ngoài bắt đầu từ năm 1988 với 37 dự án và 371 triệu USD, đến nay cả nước có hơn 3000 dự án với hơn 700 doanh nghiệp thuộc 62 nước với tổng vốn đăng ký trên 36 tỷ USD, vốn thực hiện khoảng 17 tỷ USD. Khu vực này đã nộp ngân sách hơn 1,52 tỷ USD, tạo ra hơn 21,6 tỷ USD hàng hóa xuất nhập khẩu và giải quyết việc làm cho 32 vạn lao động trực tiếp và hơn 1 triệu lao động gián tiếp. Đến năm 2000, tất cả các mục tiêu kinh tế - xã hội của kế hoạch 5 năm 1996 - 2000 và chiến lược 10 năm 1991 - 2000 đều đạt và vượt kế hoạch: GDP bình quân đầu người đạt gần 400USD/năm, tăng gấp đôi năm 1990. Tốc độ tăng trưởng kinh tế năm 2000 tăng 6,7%. Giá trị sản xuất công nghiệp tăng 15,5%, giá trị sản xuất nông nghiệp tăng 4,7%, sản lượng lương thực đạt 35,7% triệu tấn, sản lượng thủy sản đạt 2,1 triệu tấn, xuất khẩu đạt 14 tỷ USD, thu ngân sách vượt dự toán, cán cân thanh toán được cải thiện, quốc phòng - an ninh được giữ vững, đời sống nhân dân được cải thiện. Nguyên nhân của những thắng lợi trên: Đó là dưới sự lãnh đạo của Đảng và theo định hướng XHCN nước ta đã đạt được thành tựu rực rỡ. Ngoài ra Việt Nam đã bước vào thời kỳ mới với quan hệ quốc tế cởi mở đa phương đa dạng. Song lai không có thuận lợi về hậu thuẫn tinh thần và vật chất của hệ thống XHCN thế giới. Như vậy trên hai mặt này giải pháp "Lênin viết theo yêu cầu quá độ lên CHXH chỉ từ một nước riêng biệt, đơn độc đổi mặt với cả thế giới Tư bản chủ nghĩa vẫn còn nguyên giá trị thời sự. Rõ ràng bằng lý luận và tình hình thực tiễn tính sáng tạo cùng với truyền thống dân tộc chúng ta đã giành được những thắng lợi đó. Và vẫn tiếp tục khẳng định logic lý luận đầy sức sống và tinh thần năng động sáng tạo chói ngời trong cương lĩnh của LêNin. Trước hết là thiết chế chính trị Đảng Nhà nước XHCN thống nhất một Đảng đẩy mạnh phát triển cơ sở kinh tế kỹ thuật. Sử dụng một số nhân tố TBCN trong và ngoài nước để khắc phục nền kinh tế tiểu nông gia trưởng. Trên tiền đề ấy chuyển bước quá độ tiếp theo là trực tiếp cải tạo XHCN các quan hệ xã hội nói chung cơ sở hạ tầng nói riêng. Cùng toàn bộ đời sống văn hóa tinh thần của xã hội từ đó hình thành CNXH hiện thực một cách toàn diện hoàn chỉnh và vững chắc. Chương III. Mâu thuẫn biện chứng trong quá trình xây dựng nền kinh tế thị trường theo định hướng XHCN ở Việt Nam. 3.1. Những biểu hiện mâu thuẫn trong quá trình xây dựng nền KTTT (kinh tế thị trường) theo định hướng XHCN ở nước ta. Quá trình đổi mới vừa qua ở nước ta đã có tác dụng làm cho nước ta quen dần với các quan hệ hàng hóa. Hàm lượng kinh tế trong các hoạt động xã hội ngày càng được chú ý. Những kế hoạch những hoạt động xã hội bất chấp kinh tế hoặc phi kinh tế đã giảm đáng kể. Tuy nhiên vấn đề kinh tế không thể tách rời vấn đề chính trị mà nó được xem xét giải quyết theo một lập trường chính trị nhất định. Giai cấp nào cầm quyền cũng hướng kinh tế phát triển theo lập trường chính trị của giai cấp đó, nhằm phục vụ cho mục tiêu kinh tế xã hội nhất định. Lập trường chính trị đúng hay sai sẽ thúc đẩy hoặc kìm hãm phát triển của nền kinh tế. Khi thể chế chính trị không phù hợp với yêu cầu phát triển kinh tế thì việc thay đổi thể chế chính trị phù hợp với yêu cầu phát triển kinh tế. Là điều kiện quyết định thúc đẩy nền kinh tế phát triển. Và vấn đề ổn định chính trị là điều kiện hết sức cơ bản để phát triển kinh tế. ổn định chính trị không thể tách rời đổi mới về chính trị. Nhưng đổi mới chính trị không phải vô nguyên tắc. Mà đổi mới để giữ vững chính trị, giữ vững và tăng vai trò lãnh đạo của Đảng, vai trò tổ chức quản lý của Nhà nước XHCN. Đổi mới chính trị phải gắn liền với đổi mới kinh tế. Song đổi mới về kinh tế cũng không phải đổi mới một cách tùy tiện mà theo một hướng nhất định. Có ổn định thì mới có thể đổi mới và đổi mới là điều kiện để ổn định. Hai mặt đó tác động qua lại và gắn bó chặt chẽ với nhau, thống nhất với nhau. Trong đó đổi mới kinh tế là trọng tâm, đổi mới chính trị phải tiến hành từng bước phù hợp với đổi mới kinh tế, đáp ứng yêu cầu của đổi mới kinh tế. Bước chuyển sang nền kinh tế thị trường ở Việt Nam mới chỉ đang hình thành, còn đang trong những bước chập chững ban đầu và được điều tiết một cách có ý thức theo định hướng XHCN. Bên cạnh những thành tựu đã đạt được nhưng do mới đang còn trong giai đoạn đầu nên trình độ quản lý tiếp cận với nền kinh tế thị trường còn yếu, hệ thống cán bộ chưa có kinh nghiệm về nền kinh tế thị trường do vậy không tránh khỏi những mâu thuẫn trong quá trình phát triển đó là: 3.2. Mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất. Trong công cuộc xây dựng và phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước, theo định hướng XHCN ở nước ta hiện nay, vấn đề lực lượng sản xuất - quan hệ sản xuất là một vấn đề hết sức phức tạp, trên phương tiện triết học Mác - Lênin, lực lượng sản xuất là nội dung của sự vật còn quan hệ sản xuất là ý thức của sự vật, lực lượng sản xuất là yếu tố quyết định quan hệ sản xuất, lực lượng sản xuất là yếu tố động, luôn luôn thay đổi. Khi lực lượng sản xuất phát triển đến một trình độ nhất định thì quan hệ sản xuất sẽ không còn phù hợp và trở thành yếu tố kìm hãm lực lượng sản xuất phát triển. Để mở đường cho lực lượng sản xuất phát triển, cần thay thế quan hệ sản xuất cũ bằng một quan hệ sản xuất mới phù hợp với tính chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất. Chính quan hệ sản xuất tự phát triển để phù hợp với lực lượng sản xuất, phù hợp với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất, đó là quy luật kinh tế chung cho sự phát triển xã hội. Quá trình mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất tiên tiến với quan hệ sản xuất lạc hậu kìm hãm diễn ra gay gắt, quyết liệt và cần được giải quyết. Nhưng giải quyết nó bằng cách nào? đó chính là các cuộc cách mạng xã hội, chuyển đổi nền kinh tế mà chuyển đổi nền kinh tế ở nước ta là một ví dụ. Công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước là chủ trương, biện pháp vừa mang tính cách mạng vừa mang tính khoa học để xây dựng chủ nghĩa xã hội. Nói đến công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước chính sách là nói đến nền sản xuất tiên tiến nói đến khoa học, trí tuệ, là nói đến một phương thức tối ưu để thoát khỏi tình trạng sản xuất nhỏ, nông nghiệp lạc hậu, nhằm tạo điều kiện và cơ sở vật chất cho CNXH được xây dựng và phát triển. Không thể ăn đói, mặc rách với cái cuốc trên vai cộng thêm tấm lòng cộng sản để kiến thiết CNXH, chuyển sang nền kinh tế thị trường. Khẳng định cái mới, đúng đắn tự bản thân nó đã bao gồm cả ý nghĩa phù định gạt bỏ cả quan niệm cũ sai lầm về điều kiện và cách thức xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Trước đây chúng ta thiếu quan tâm đúng mức đến vai trò của trí tuệ; khoa học, đến việc tạo lập cơ sở kinh tế vật chất của CHXH. Bằng chứng là một thời chúng ta đã coi trọng không đúng mức tầng lớp trí thức và khoa học trong môi trường tương quan với đội ngũ những người lao động khác. Và hậu quả tất yếu đã xảy ra là khoa học ở nước ta chậm hoặc ít có điều kiện môi trường phát triển, đất nước không thoát khỏi nền sản xuất nhỏ, nông nghiệp lạc hậu và cũng không thể nói đến công nghiệp hóa hiện đại hóa đất nước. 3.3. Mâu thuẫn giữa các hình thái sở hữu trước đây và trong kinh tế thị trường Trước đây người ta quan niệm những hình thức sở hữu trong chủ nghĩa xã hội là: sở hữu XHCN tồn tại dưới hai hình thức sở hữu toàn dân và sở hữu tập thể. Sự tồn tại hai hình thức sở hữu đó là tất yếu khách quan bởi những điều kiện lịch sử khi tiến hành cách mạng chủ nghĩa xã hội và xây dựng chủ nghĩa xã hội quyết định. Sau khi giành được chính quyền giai cấp công nhân đứng trước hai hình thức sở hữu tư nhân khác nhau. Sở hữu tư nhân bản chủ nghĩa và sở hữu tư nhân của những người sản xuất hàng hóa nhỏ. Thực tế đòi hỏi giai cấp công nhân phải có thái độ và phát triển giải quyết khác nhau. Đối với hình thức sở hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa bằng cách tước đoạt hoặc chuộc lại để chuyển thẳng lên sở hữu toàn dân, còn đối với hình thức sở hữu tư nhân của những người sản xuất hàng hóa nhỏ thì không thể dùng những biện pháp như trên, mà phải kiên trì giáo dục, thuyết phục họ trên cơ sở tự nguyện chuyển lên sở hữu tập thể bằng con đường hợp tác hóa hai hình thức. Sở hữu đó là hai con đường đặc thù tiến lên CNCS của giai cấp công nhân và nông dân tập thể. Hơn mười năm đổi mới đất nước theo định hướng XHCN ở nước ta đã chứng minh tính đúng đắn của đường lối đổi mới do Đảng ta khởi xướng và lãnh đạo toàn dân thực hiện. Thực tế đã cho thấy một nền kinh tế nhiều thành phần nhiều hình thức sở hữu, chứ không phải chỉ có hai thức sở hữu toàn dân và sở hữu tập thể như quan

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc60484.DOC
Tài liệu liên quan