Tiểu luận So sánh Chủ tịch nước theo Hiến pháp 1946 và Hiến pháp 1992

MỤC LỤC

Trang

 

A. ĐẶT VẤN ĐỀ

B. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ

1. KHÁI NIỆM CHỦ TỊCH NƯỚC .

2. ĐIỂM GIỐNG NHAU GIỮA CHỦ TỊCH NƯỚC THEO HIẾN PHÁP 1946 VÀ CHỦ TỊCH NƯỚC THEO HIẾN PHÁP 1992 .

2.1. Về vị trí, tính chất .

2.2. Về trật tự hình thành .

2.2.1. Việc bầu Chủ tịch nước .

2.2.2. Nhiệm kỳ .

2.2.3. Việc bầu phó Chủ tịch nước .

2.3. Về nhiệm vụ quyền hạn .

2.3.1. Nhóm các nhiệm vụ, quyền hạn liên quan đến chức năng đại diện, thay mặt nước về đối nội và đối ngoại

2.3.2. Nhóm nhiệm vụ, quyền hạn liên quan đến việc phối hợp các thiết chế quyền lực Nhà nước trong các lĩnh vực lập pháp – hành pháp và tư pháp . . .

3. ĐIỂM KHÁC NHAU GIỮA CHỦ TỊCH NƯỚC THEO HIẾN PHÁP 1946 VÀ CHỦ TỊCH NƯỚC THEO HIẾN PHÁP 1992 .

3.1. Về vị trí, tính chất .

3.2. Về trật tự hình thành .

3.2.1. Việc bầu Chủ tịch nước .

3.2.2. Nhiệm kỳ .

3.2.3. Việc bầu phó Chủ tịch nước .

3.3. Về nhiệm vụ quyền hạn .

3.3.1. Nhóm các nhiệm vụ, quyền hạn liên quan đến chức năng đại diện, thay mặt nước về đối nội và đối ngoại

3.3.2. Nhóm nhiệm vụ, quyền hạn liên quan đến việc phối hợp các thiết chế quyền lực Nhà nước trong các lĩnh vực lập pháp – hành pháp và tư pháp . . .

4. NHẬN XÉT, ĐÁNH GIÁ

4.1. Về Chủ tịch nước trong Hiến pháp 1946 .

4.2. Về Chủ tịch nước trong Hiến pháp 1992 .

C. KẾT LUẬN

D. DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

 

 

doc13 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 14515 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tiểu luận So sánh Chủ tịch nước theo Hiến pháp 1946 và Hiến pháp 1992, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ĐẶT VẤN ĐỀ Chế định nguyên thủ quốc gia là một chế định quan trọng trong thể chế chính trị. Ở mỗi nước, nguyên thủ quốc gia đều có vị trí, chức năng khác nhau tùy thuộc vào thể chế chính trị và các tổ chức nhà nước. Nhưng nhìn chung họ đều đóng vai trò biểu tượng cho dân tộc, đều là người đứng đầu Nhà nước, đại diện cho Nhà nước về đối nội và đối ngoại. Ở nước ta, nguyên thủ quốc gia tồn tại dưới hình thức Chủ tịch nước theo Hiến pháp 1946, 1959, 1992, riêng với Hiến pháp năm 1980 tồn tại dưới hình thức Hội đồng Nhà nước, là một chế định nguyên thủ quốc gia tập thể. Vị trí, tính chất, chức năng quyền hạn và mối quan hệ của thiết chế này đối với các cơ quan khác cũng khác nhau theo từng giai đoạn phát triển của tổ chức nhà nước. Trong từng hiến pháp có sự kế thừa và phát triển những nguyên tắc căn bản của tổ chức bộ máy nhà nước xã hội chủ nghĩa nói chung và chế định nguyên thủ quốc gia nói riêng. Trong phạm vi bài viết này, chúng em xin làm rõ đề tài: “So sánh Chủ tịch nước theo Hiến pháp 1946 và Hiến pháp 1992”. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ KHÁI NIỆM CHỦ TỊCH NƯỚC Trong hệ thống bộ máy nhà nước của các nước hiện đại hầu như đều có một thiết chế đặc biệt với những tên gọi như: vua, hoàng đế, tổng thống, đoàn chủ tịch, hội đồng liên bang, hội đồng nhà nước, chủ tịch nước. Những cơ cấu này có vị trí khác nhau trong bộ máy nhà nước của từng nước, cùng được gọi chung là nguyên thủ quốc gia - người đứng đầu quốc gia, đại diện cho nhà nước về đối nội và đối ngoại. Ở nước ta, nguyên thủ quốc gia tồn tại dưới hình thức chủ tịch nước. ĐIỂM GIỐNG NHAU GIỮA CHỦ TỊCH NƯỚC THEO HIẾN PHÁP 1946 VÀ CHỦ TỊCH NƯỚC THEO HIẾN PHÁP 1992 Về vị trí, tính chất Chủ tịch nước là người đứng đầu Nhà nước, thay mặt nhà nước về đối nội và đối ngoại. Về trật tự hình thành Việc bầu Chủ tịch nước Chủ tịch nước do cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất là Quốc hội bầu (Điểm 1 điều 45 Hiến pháp 1946 và Điểm 1 điều 102 Hiến pháp 1992). Nhiệm kỳ Nhiệm kỳ Chủ tịch nước được quy định trong cả hai bản Hiến pháp là 5 năm (Điều 45 Hiến pháp 1946 và Điều 85 và Điều 102 Hiến pháp 1992). Việc bầu phó Chủ tịch nước Phó chủ tịch giúp chủ tịch làm nhiệm vụ (Điều 46 Hiến pháp 1946 và Điều 107 Hiến pháp 1992). Trong trường hợp khuyết Chủ tịch nước thì Phó Chủ tịch tạm quyền Chủ tịch cho đến khi Quốc hội bầu Chủ tịch mới. Về nhiệm vụ quyền hạn Nhóm các nhiệm vụ, quyền hạn liên quan đến chức năng đại diện, thay mặt nước về đối nội và đối ngoại Chủ tịch nước cử triệu hồi đại biểu Việt Nam đến nước ngoài và tiếp nhận đại biểu ngoại giao của các nước và thay mặt nước Việt Nam ký hiệp ước (Điểm h Điều 49 Hiến pháp 1946 và Điểm 10 Điều 103 Hiến pháp 1992). Chủ tịch nước thưởng huân, huy chương và các bằng cấp danh dự (Theo điểm e Điều 49 Hiến pháp 1946 và Điểm 9 Điều 103 Hiến pháp 1992). Chủ tịch nước ban bố tình trạng chiến tranh theo quyết định của Ủy ban thường vụ (Điểm k điều 49 Hiến pháp 1946 và Điểm 5 điều 103 Hiến pháp 1992). Tuy nhiên, Nghị quyết sửa đổi bổ sung một số điều của Hiến pháp 1992 (Quốc hội thông qua tháng 12/2001) đã bỏ quyền quyết định tuyên bố tình trạng chiến tranh khi nước nhà bị xâm lược của Chủ tịch nước. Nhóm nhiệm vụ, quyền hạn liên quan đến việc phối hợp các thiết chế quyền lực Nhà nước trong các lĩnh vực lập pháp – hành pháp và tư pháp Trong lĩnh vực Lập pháp: Chủ tịch nước ở Hiến pháp 1946 và Hiến pháp 1992 đều là thành viên của cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất. Chủ tịch nước công bố Luật, đạo Luật đã được Quốc hội thông qua (Điểm đ Điều 49 Hiến pháp 1946 và Điểm 1 Điều 103 Hiến pháp 1992). Chủ tịch nước có quyền yêu cầu Quốc hội xem xét lại dự thảo luật, pháp lệnh đã được thông qua (Điều 31 Hiến pháp 1946 và Điểm 7 Điều 103 Hiến pháp 1992). Trong lĩnh vực Hành pháp: Chủ tịch nước tham gia thành lập Chính phủ (Điều 47, Điểm c Điều 49 Hiến pháp 1946 và Điểm 3, Điểm 4 Điều 103 Hiến pháp 1992). Chủ tịch nước không bổ nhiệm thủ tướng. Trong lĩnh vực tư pháp: Chủ tịch nước ra “Quyết định đặc xá” (Điểm g Điều 49 Hiến pháp 1946 và Điểm 12 Điều 103 Hiến pháp 1992). ĐIỂM KHÁC NHAU GIỮA CHỦ TỊCH NƯỚC THEO HIẾN PHÁP 1946 VÀ CHỦ TỊCH NƯỚC THEO HIẾN PHÁP 1992 Về vị trí tính chất: Hiến pháp 1946 nêu rõ Chủ tịch nước nằm trong cơ cấu của Chính phủ. Chủ tịch nước không những chỉ là người đứng đầu nhà nước mà còn đứng đầu Chính phủ. Điểm d Điều 49 Hiến pháp 1946 quy định Chủ tịch nước Việt Nam dân chủ cộng hòa có quyền Chủ tọa Hội đồng Chính phủ. Ở Hiến pháp 1992, Chủ tịch nước không nằm trong cơ cấu của Chính phủ. Chủ tịch nước được tổ chức riêng thành một chế định độc lập với tính chất là người đứng đầu nhà nước và không còn đồng thời là người đứng đầu Chính phủ. Về trật tự hình thành Việc bầu chủ tịch nước Hiến pháp 1946 quy định: Chủ tịch nước Việt Nam dân chủ cộng hòa chọn trong Nghị viện nhân dân và phải được hai phần ba tổng số nghị viên bỏ phiếu thuận. Nếu bỏ phiếu lần đầu mà không đủ số phiếu ấy, thì lần thứ nhì sẽ theo đa số tương đối (Điều 45). Hiến pháp năm 1992 quy định lại việc chủ tịch nước do Quốc hội bầu trong số các Đại biểu Quốc hội do Ủy ban thường vụ Quốc hội giới thiệu. Điều này đảm bảo cho sự gắn bó và tính chịu trách nhiệm của Chủ tịch nước trước Quốc hội. Nhiệm kỳ Trong Hiến pháp 1946, nhiệm kỳ của Chủ tịch nước không theo nhiệm kỳ của Nghị viện nhân dân. Chủ tịch nước được bầu trong thời hạn năm năm trong khi nhiệm kỳ của Nghị viện là ba năm (Điều 24 và Điều 45 Hiến pháp 1946). Trong Hiến pháp 1992, nhiệm kỳ của Chủ tịch nước theo nhiệm kỳ của Quốc hội. Khi Quốc hội hết nhiệm kỳ, Chủ tịch nước tiếp tục làm nhiệm vụ cho đến khi Quốc hội khóa mới bầu Chủ tịch nước mới (Điều 102 Hiến pháp 1992). Việc bầu phó Chủ tịch nước Phó Chủ tịch nước trong Hiến pháp 1946 chọn trong nhân dân (Điều 46), còn phó Chủ tịch nước trong Hiến pháp 1992 do Quốc hội bầu trong số Đại biểu Quốc hội (Điều 107). Về nhiệm vụ quyền hạn Nhóm các nhiệm vụ, quyền hạn liên quan đến chức năng đại diện, thay mặt nước về đối nội và đối ngoại Hiến pháp 1946 quy định “Chủ tịch nước giữ quyền tổng chi huy quân đội toàn quốc” (Điều 49). Hiến pháp 1992 quy định “Chủ tịch nước thống lĩnh các lực lượng vũ trang nhân dân và giữ chức vụ Chủ tịch Hội đồng Quốc phòng và an ninh” (Điểm 2 Điều 103). Ở đây, điểm khác nhau là từ “tổng chỉ huy” trong Hiến pháp 1946 được thay bằng từ “thống lĩnh” trong Hiến pháp 1992. “Thống lĩnh” khác với “tổng chi huy” ở chỗ “thống lĩnh” không phải trực tiếp chỉ huy mà chỉ là phụ trách chung. Hội đồng Quốc phòng giúp Chủ tịch nước trong việc thống lĩnh. Chủ tịch nước thành lập Hội đồng Quốc phòng và trình Quốc hội phê chuẩn. Ở Hiến pháp 1992, Chủ tịch nước có quyền “Quyết định cho nhập quốc tịch Việt Nam, cho thôi quốc tịch Việt Nam hoặc tước quốc tịch Việt Nam” (Điểm 11 Điều 103). Quyền hạn này của Chủ tịch nước chưa được nêu trong Hiến pháp 1946. Nhóm nhiệm vụ, quyền hạn liên quan đến việc phối hợp các thiết chế quyền lực Nhà nước trong các lĩnh vực lập pháp – hành pháp và tư pháp Trong lĩnh vực Lập pháp: Theo Hiến pháp 1946, Chủ tịch nước không phải chịu một trách nhiệm nào, trừ khi phạm tội phản quốc (Điều 50). Như vậy, Chủ tịch nước không chịu trách nhiệm trước nghị viện. Đây là một trong những đặc điểm của chế độ Cộng hòa Đại nghị. Theo Hiến pháp 1992, Chủ tịch nước chịu trách nhiệm và báo cáo công tác trước Quốc hội ( Điều 102). Quốc hội quy định tổ chức và hoạt động của Chủ tịch nước. Có điều này bởi Hiến pháp 1992 phần nào chịu ảnh hưởng của thuyết tập quyền xã hội chủ nghĩa, coi quyền lực tập trung thống nhất về Quốc hội. Theo Hiến pháp 1992, Chủ tịch nước có quyền trình dự án luật ra trước Quốc hội (Điều 87), còn ở Hiến pháp 1946, quyền hạn này chưa được quy định. Theo Hiến pháp 1992, Chủ tịch nước còn ban hành lệnh, quyết định để thực hiện nhiệm vụ quyền hạn của mình (Điều 106). Quyền hạn này của Chủ tịch nước chưa được quy định trong Hiến pháp 1946. Theo điều 31 Hiến pháp 1946 “Những luật đã được Nghị viện biểu quyết, Chủ tịch nước Việt Nam phải ban bố chậm nhất là 10 hôm sau khi nhận được thông tri”. Theo quy định của pháp luật hiện hành, Hiến pháp, luật do Quốc hội thông qua thì Chủ tịch nước công bố để thực hiện, thời hạn công bố chậm nhất là 15 ngày kể từ ngày thông qua (Điều 50 Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luât, Điều 91 Luật tổ chức quốc hội sửa đổi năm 2001) Theo Hiến pháp 1946, Chủ tịch nước có quyền phủ quyết các dự án luật đã được Nghị viện thông qua. Trong trường hợp Quốc hội vẫn thông qua dự thảo, thì Chủ tịch nước buộc phải ban bố (Điều 31). Quyền hạn này của Chủ tịch nước giống với quyền phủ quyết các dự luật của tổng thống Mỹ. Điều này cho thấy Hiến pháp 1946 phần nào chịu ảnh hưởng của cơ chế phân chia quyền lực cứng rắn trong chế độ cộng hòa Tổng thống. Theo Điểm 7 Điều 103 Hiến pháp 1992 Chủ tịch nước có quyền đề nghị Ủy ban thường vụ Quốc hội xem xét lại pháp lệnh, nghị quyết của Ủy ban thường vụ Quốc hội trong thời gian 10 ngày. Nếu pháp lệnh đó vẫn được Ủy ban thường vụ Quốc hội biểu quyết tán thành mà Chủ tịch nước vẫn không nhất trí thì Chủ tịch nước phải trình Quốc hội quyết định tại kỳ họp gần nhất. Như vậy, Chủ tịch nước trong Hiến pháp 1992 chỉ có quyền yêu cầu xem xét lại các pháp lệnh của Ủy ban thường vụ Quốc hội chứ chưa có quyền phủ quyết các dự án luật của Quốc hội như trong Hiến pháp 1946. Đây không hẳn là quyền phủ quyết của Chủ tịch nước bởi quyền phủ quyết thường nảy sinh trong cơ chế Nhà nước có sự kiềm chế và đối trọng, còn ở nước ta hiện nay giữa Quốc hội, Ủy ban thường vụ Quốc hội, Chủ tịch nước là thống nhất nên không có vấn đề phủ quyết nhau ở đây. Thực chất vấn đề ở chỗ, do Hiến pháp quy định cho Ủy ban thường vụ Quốc hội được ban hành pháp lệnh - một loại văn bản có tính chất luật - lẽ ra phải do Quốc hội ban hành dưới hình thức luật nên cần phải thận trọng. Sự tham gia của Chủ tịch nước nhằm phối hợp giải quyết các vấn đề quan trọng đó một cách chính xác nhất. Trong lĩnh vực hành pháp: Theo Hiến pháp 1946, Chủ tịch nước là thành viên Chính phủ, trực tiếp điều hành Chính phủ bằng cách chủ toạ các phiên họp Chính phủ (Điểm d, Điều 48). Còn theo Hiến pháp 1992, Chủ tịch nước thực hiện chức năng giám sát Chính phủ chứ không trực tiếp điều hành Chính phủ: “Khi xét thấy cần thiết Chủ tịch nước có quyền tham dự các phiên họp của Chính phủ” (Điều 105). Theo Hiến pháp 1946, Chủ tịch nước ký các sắc lệnh của Chính phủ còn theo Hiến pháp 1992, Chính phủ trình Chủ tịch nước quyết định vấn đề thuộc thẩm quyền của Chủ tịch nước. Theo Hiến pháp 1946, Chủ tịch nước chọn Thủ tướng trong Nghị viện; kí sắc lệnh bổ nhiệm Thủ tướng, nhân viên nội các và các nhân viên cao cấp thuộc cơ quan chính phủ (Điều 47 và Điểm c Điều 49). Còn theo Hiến pháp 1992, Chủ tịch nước đề nghị Quốc hội bầu, miễn nhiệm, bãi nhiệm Phó Chủ tịch nước, Thủ tướng Chính phủ, Bộ trưởng và các thành viên khác thuộc Chính phủ (Điểm 3 Điều 103). Chủ tịch nước căn cứ vào nghị quyết của Quốc hội hoặc của Ủy ban thường vụ Quốc hội bổ nhiệm, miễn nhiệm cách chức các thành viên chính phủ (Điểm 4 Điều 103). Theo Hiến pháp 1946, Chủ tịch nước có quyền yêu cầu Nghị viện thảo luận lại vấn đề tín nhiệm Nội các (Điều 54). Còn Hiến pháp 1992 sửa đổi năm 2001 mới chỉ có quy định Quốc hội có quyền bỏ phiếu tín nhiệm các Bộ trưởng cho đến cả Thủ tướng chứ chưa có quy định Chủ tịch nước có quyền yêu cầu Quốc hội thảo luận lại về vấn đề tín nhiệm Chính phủ. Trong lĩnh vực tư pháp: Hiến pháp 1946 chưa quy định rõ về mối quan hệ giữa Chủ tịch nước với các cơ quan tư pháp mà chỉ nói rằng các viên Thẩm phán đều do Chính phủ bổ nhiệm (Điều 64). Hiến pháp 1992 quy định Chủ tịch nước giới thiệu để Quốc hội bầu, miễn nhiệm, bãi nhiệm Chánh án Tòa án nhân dân tối cao, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao (Điểm 3 Điều 103); bổ nhiệm miễn nhiệm, cách chức các chức danh khác từ Phó Chánh án và Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao, Chánh án, Phó Chánh án, Thẩm phán Tòa án quân sự Trung ương, Phó Viện trưởng và kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân tối cao. Trước đây theo Luật tổ chức Tóa án nhân dân cũ, Chủ tịch nước còn có quyền bổ nhiệm Chánh án, Phó Chánh án, Thẩm phán Tòa án các cấp, nhưng Luật tổ chức Tòa án nhân dân 2002 đã bãi bỏ điểm này, và giao về cho Chánh án Tòa án nhân dân tối cao thực hiện. Ngoài ra, trong thời gian Quốc hội không họp, Chánh toà án nhân dân tối cao và Viện trưởng viện kiểm sát nhân dân tối cao chịu trách nhiệm và báo cáo công tác trước ủy ban thường vụ Quốc hội và Chủ tịch nước. NHẬN XÉT, ĐÁNH GIÁ Về Chủ tịch nước trong Hiến pháp 1946 Như vậy, có thể thấy Chủ tịch nước theo quy định của Hiến pháp 1946 có vị trí tương tự Tổng thống ở chế độ Cộng hoà Tổng thống hay Cộng hoà lưỡng tính tư sản. Đó là: Chủ tịch nước Việt Nam dân chủ Cộng hoà không những là người đứng đầu Nhà nước mà còn là người trực tiếp điều hành bộ máy hành pháp. Điểm d, Điều 49, Hiến pháp năm 1946 quy định: Chủ tịch nước Việt Nam dân chủ Cộng hoà có quyền chủ toạ Hội đồng Chính phủ. Nhưng nó khác với chính thể Cộng hoà Tổng thống ở chỗ: Chủ tịch nước không do nhân dân trực tiếp bầu ra hay gián tiếp bầu ra mà do Nghị viện bầu và phải là thành viên của Nghị viện. Một điểm nữa khác với Chính thể Cộng hoà Tổng thống, đó là bên cạnh người đứng đầu bộ máy hành pháp còn có một bộ máy có tính Hiến định, bảo đảm việc thực thi quyền lực hành pháp ở Nội các, gồm Thủ tướng, các Bộ trưởng và Thứ trưởng. Nếu ở Chính thể Cộng hoà Tổng thống, Tổng thống phải chịu trách nhiệm về mọi hành vi của mình, có thể bị Nghị viện luận tội theo thủ tục đàn hạch, thì Chủ tịch nước Việt Nam dân chủ Cộng hoà giống như nguyên thủ quốc gia của mô hình Cộng hoà đại nghị là không phải chịu trách nhiệm nào, trừ khi phản bội Tổ quốc. Tuy Chủ tịch nước được quy định thực hiện các quyền hạn lớn hơn cả về lập pháp và hành pháp, song Hiến pháp cũng quy định những hạn chế với Chủ tịch nước, bảo đảm tính cơ quan có quyền lực cao nhất của Nghị viện. Đó là Nghị viện bầu ra Chủ tịch nước trong số nghị sĩ, chuẩn y các hiệp ước do Chính phủ kí với nước ngoài. Những luật mà Chủ tịch nước yêu cầu thảo luận lại nếu vẫn được Nghị viện ưng chuẩn thì bắt buộc Chủ tịch nước phải ban bố. Khi Nghị viện không họp được, Ban thường vụ cùng với Chính phủ quyết định nên tuyên chiến hay đình chiến, Chủ tịch nước tuyên chiến hay đình chiến theo quyết định đó. Tóm lại chế định Chủ tịch nước - Nguyên thủ quốc gia được Hiến pháp năm 1946 xây dựng khá độc đáo. Nó vừa đảm bảo được quyền lực Nhà nước thống nhất vào cơ quan đại diện quyền lực Nhà nước cao nhất của nhân dân, vừa đảm bảo tăng cường quyền hạn cho Chính phủ điều hành công việc quốc gia mạnh mẽ và hiệu quả phù hợp với yêu cầu kháng chiến kiến quốc lúc bấy giờ. Về Chủ tịch nước trong Hiến pháp 1992 Hiến pháp 1992 ra đời đã kế thừa những ưu điểm của các bản Hiến pháp trước, đó là sự gắn bó giữa Quốc hội, Uỷ ban thường vụ Quốc hội với chủ tịch nước trong việc thực hiện chức năng nguyên thủ Quốc gia. Hiến pháp 1992 còn là sự phát triển, thể hiện sự đổi mới tiến bộ. Cụ thể: Hiến pháp 1992 tách chủ tịch nước thành một thiết chế riêng chứ không gắn với hành pháp như như hiến pháp 1946. Ngoài ra chủ tịch nước còn được bổ sung một số quyền hạn mới như: quyền đề nghị xem xét lại một số pháp lệnh, nghị quyết của Ủy ban thường vụ Quốc hội về các vấn đề quy định tại các điểm 8, 9 của điều 91 Hiến pháp 1992… Sự đổi mới đó quán triệt nguyên tắc: Quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công và phối hợp giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền hành pháp, tư pháp, lập pháp. Từ sự phân tích trên ta có thể nhận thấy chế định Chủ tịch nước ta hiện nay nghiêng về cơ quan lập pháp hơn hành pháp, điều này thể hiện ở chỗ: Chủ tịch nước do Quốc hội bầu ra trong số các đại biểu Quốc hội, có nhiệm kỳ theo nhiệm kỳ của Quốc hội, chịu trách nhiệm trước Quốc hội và chính thức hóa hoạt động của Quốc hội… Nhiều thẩm quyền mang tính hành pháp được giao cho ngành lập pháp còn chủ tịch nước chỉ như là người chính thức hóa, ví dụ như: Căn cứ vào nghị quyết của Quốc hội công bố quyết định tình trạng chiến tranh; căn cứ vào nghị quyết của Ủy ban thường vụ Quốc hội ra lệnh tổng động viên cục bộ, công bố tình trạng khẩn cấp… Như vậy chủ tịch nước theo Hiến pháp hiện hành – Hiến pháp năm 1992 là một thiết chế riêng song vẫn nghiêng về phía Quốc hội, gắn bó chặt chẽ với Quốc hội chứ không gắn với Chính phủ như ở Hiến pháp 1946. KẾT LUẬN Chủ tịch nước thể hiện vị trí chính trị pháp lý là người đứng đầu Nhà nước, thay mặt Nhà nước về đối nội đối ngoại. Hiến pháp 1946 và Hiến pháp 1992 đã thiết lập được thiết chế Chủ tịch nước phù hợp với hoàn cảnh lịch sử của từng giai đoạn cách mạng. Chế định nguyên thủ quốc gia đó có những đặc điểm, tính chất và vị trí không giống bất kỳ một nguyên thủ quốc gia nào trên thế giới. Có sự đặc thù như vậy vì ở nước ta do cơ chế tổ chức quyền lực theo nguyên tắc tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân. DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO *** Trường đại học Luật Hà Nội, Giáo trình Luật Hiến pháp Việt Nam, Nxb. CAND, Hà Nội, 2008. Bộ Giáo dục và Đào tạo, Viện Đại học Mở Hà Nội, Giáo trình Luật Hiến pháp Việt Nam, Nxb. CAND, Hà Nội, 2009. Hiến pháp của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Nxb. Lao động, Hà Nội, 2009. PGS.TS Nguyễn Đăng Dung, Tổ chức bộ máy nhà nước Việt Nam qua các bản Hiến pháp, Nxb. Tư pháp, Hà Nội, 2007. PGS.TS Nguyễn Đăng Dung, Tìm hiểu về hiến pháp và pháp luật Luật hiến pháp nước ngoài, Nxb. Đồng Nai, TP.HCM, 1997. Văn phòng Quốc hội, Hiến pháp 1946 – Sự kế thừa và phát triển qua các hiến pháp Việt Nam, Nxb. CTQG, Hà Nội, 1993. Nguyễn Văn Hải, Chế định chủ tịch nước trong hiến pháp 1946 - sự kế thừa và phát triển qua các bản hiến pháp Việt Nam, Luận văn cử nhân, TP. HCM, 2004. Viện nghiên cứu khoa học pháp lí – Bộ tư pháp, Thiết chế chính trị và bộ máy nhà nước một số nước trên thế giới, Nxb. Tư pháp, Hà Nội, 2005. MỤC LỤC Trang ĐẶT VẤN ĐỀ GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ KHÁI NIỆM CHỦ TỊCH NƯỚC…………………………………. ĐIỂM GIỐNG NHAU GIỮA CHỦ TỊCH NƯỚC THEO HIẾN PHÁP 1946 VÀ CHỦ TỊCH NƯỚC THEO HIẾN PHÁP 1992….. Về vị trí, tính chất……………………………………………... Về trật tự hình thành…………………………………………. Việc bầu Chủ tịch nước………………………………….. Nhiệm kỳ…………………………………………………. Việc bầu phó Chủ tịch nước……………………………... Về nhiệm vụ quyền hạn………………………………………. Nhóm các nhiệm vụ, quyền hạn liên quan đến chức năng đại diện, thay mặt nước về đối nội và đối ngoại………… Nhóm nhiệm vụ, quyền hạn liên quan đến việc phối hợp các thiết chế quyền lực Nhà nước trong các lĩnh vực lập pháp – hành pháp và tư pháp………….………….…….. ĐIỂM KHÁC NHAU GIỮA CHỦ TỊCH NƯỚC THEO HIẾN PHÁP 1946 VÀ CHỦ TỊCH NƯỚC THEO HIẾN PHÁP 1992….. Về vị trí, tính chất……………………………………………... Về trật tự hình thành…………………………………………. Việc bầu Chủ tịch nước………………………………….. Nhiệm kỳ…………………………………………………. Việc bầu phó Chủ tịch nước……………………………... Về nhiệm vụ quyền hạn………………………………………. Nhóm các nhiệm vụ, quyền hạn liên quan đến chức năng đại diện, thay mặt nước về đối nội và đối ngoại………… Nhóm nhiệm vụ, quyền hạn liên quan đến việc phối hợp các thiết chế quyền lực Nhà nước trong các lĩnh vực lập pháp – hành pháp và tư pháp………….………….…….. NHẬN XÉT, ĐÁNH GIÁ………………………………………… Về Chủ tịch nước trong Hiến pháp 1946…………………….. Về Chủ tịch nước trong Hiến pháp 1992…………………….. KẾT LUẬN DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 01 02 02 02 02 02 02 02 02 03 03 03 04 04 04 04 05 05 05 08 08 09

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docSo sánh Chủ tịch nước theo Hiến pháp 1946 và Hiến pháp 1992.doc