Tiểu luận Sự nghiệp đổi mới của đất nước ta đối với việc vận dụng mối quan hệ giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng

MỤC LỤC

Trang

A. Lời nói đầu

B. Nội dung nghiên cứu 3

Phần I. Khái niệm cơ bản về cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng: mối quan hệ giữa chúng 3

1. Khái niệm cơ sở hạ tầng 3

2. Khái niệm về kiến trúc thượng tầng 4

3. Mối quan hệ biện chứng giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng. 4

3.1. Cơ sở hạ tầng quyết định kiến trúc thượng tầng 4

3.2. Sự tác động trở lại của kiến trúc thượng tầng đối với cơ sở hạ tầng 5

Phần II: Sự nghiệp đổi mới của đất nước ta đối với việc vận dụng mối quan hệ giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng 8

1. Việt Nam trước đổi mới. 8

2. Mâu thuẫn giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng. 9

3. Việt Nam trong công cuộc đổi mới. 10

Phần III: Kết luận 12

1. Những thành tựu đã đạt được trong công cuộc đổi mới. 12

2. Nhiệm vụ, yêu cầu đối với sinh viên trong công cuộc đổi mới 13

 

 

doc15 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 2508 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tiểu luận Sự nghiệp đổi mới của đất nước ta đối với việc vận dụng mối quan hệ giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
A. Lời nói đầu Suốt một thế kỷ qua, nhân dân ta dưới sự lãnh đạo của Đảng đã chiến thắng những thử thách ác liệt của các cuộc chiến tranh để giành lại và bảo vệ độc lập, chủ quyền, thống nhất toàn vẹn lãnh thổ của tổ quốc: đã vượt qua muôn vàn khó khăn để giữ vững thành quả cách mạng trước những bến động lớn trên thế giới. Trên con đường xây dựng nhà nước XHCN, Đại hội Đảng lần thứ VI được tổ chức vào tháng 12 -1986 đã xác định đường lối đổi mới toàn diện đất nước. Từ xuất phát điểm rất thấp về kinh tế, lại chịu hậu quả của các cuộc chiến tranh hết sức nặng nề và lâu dài, nhân dân ta phải thực hiện đồng thời hai nhiệm vụ chiến lược: “vừa thực hiện nhiệm vụ dân tộc vừa làm nghĩa vụ quốc tế”phải đáp ứng cùng lúc những yêu câu cơ bản, cấp bách là ổn định và cải thiện đời sống đồng thời để xây dựng đất nước thoe những hướng XHCN và củng cố quốc phòng an ninh nhằm chống lại các thế lực thù địch trong và ngoài nước. Kể từ đó đến nay, lần lượt qua các kỳ đại hội Đảng, công tác tư tưởng và đường lối đổi mới của Đảng từng bước được hoàn thiện và phát triển bước đầu đã thu được những thành quả nhất định, điều đó đã chứng minh rằng: Dù trải qua các thời kỳ khác nhau, tính đúng đắn của con đường cách mạng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội mà Đảng và nhân dân ta đã lựa chọn, khảng định ý nghĩa sống còn của sự nghiệp đổi mới và tiến tới một xã hội giàu đẹp, văn minh. Những bước đường đã trải qua cho phép ta chứng tỏ ngày nay thấy rõ hơn lúc nào hết thế mạnh yếu của mình, nhận thức sâu sắc hơn xu thế và các cục diện phát triển thế giới. Vấn đề cốt lõi xuyên suốt các văn kiện của các Đại hội Đảng là sự kiên định mục tiêu chủ nghĩa xã hội, khảng định mạnh mẽ nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho hành động của toàn Đảng, toàn dân là chủ nghĩa Mác - lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh. Một xã hội có thể coi là phát triển khi và chỉ khi nó có một cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng phát triển phù hợp với nhau. Muốn cải tổ, cải cách đất nước theo bất kỳ hướng đi nào đều phải bắt đầu từ điểm cơ bản này. Sự nghiệp đổi mới của đất nước ta trong bối cảnh chung của thế giới hiện nay là hết sức phức tạp, việc bám sát tư tưởng Mác- Lênin đặc biệt là việc ứng dụng quy luật phát triển và mối quan hệ qua lại giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng là cần thiết. Trong phạm vi bài tiểu luận này, em chỉ mới nghiên cứu và trình bày phần nào trong mối quan hệ biện chứng giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng, và việc vận dụng nó trong công cuộc đổi mới ở Việt Nam. Nên chắc chắn không tránh khỏi khiếm khuyết. Em rất mong được sự đóng góp ý kiến, bổ sung từ phía thầy cô giáo quan tâm đến đề tài này, để em từng bước nâng cao nhận thức và trình độ lý luận triết học của mình. Em xin chân thành cảm ơn! b. Nội dung nghiên cứu Phần I: khái nệm cơ bản về cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng: Mối quan hệ giữa chúng Xã hội dưới bất kỳ hình thái nào cũng đều là sản phẩm của quan hệ người với người. Quan hệ xã hội của con người rất đa dạng và phong phú, vận động biến đổi không ngừng. Công lao to lớn của Mác - Ang nghen là từ những quan hệ xã hội hết sức phức tạp đã phân biệt những quan hệ vật chất của xã hội với những quan hệ tinh thần tư tưởng của xã hội. Nêu bật cơ sở hạ tầng do quan hệ sản xuất hợp thành giữ vai trò quyết định kiến trúc thượng tầng bao gồm những quan điểm tư tưởng và những thiết chế ứng với nó. 1. Khái niệm cơ sở hạ tầng. Cơ sở hạ tầng là toàn bộ những quan hệ sản xuất hợp thành cơ cấu kinh tế của một loại hình kinh tế nhất định: Khái niệm cơ sở hạ tầng phản ánh chức năng xã hội của các quan hệ sản xuất với tư cách là cơ sở kinh tế của các hiện tượng xã hội. Cơ sở hạ tầng của một xã hội cụ thể bao gồm những quan hệ sản xuất thống trị, những quan hệ sản xuất là tàn dư của xã hội trước và những quan hệ sản xuất là mầm mống của xã hội sau, những đặc trưng cho tính chất của một cơ sở hạ tầng là do quan hệ sản xuất thống trị quyết định. Trong một cơ sở hạ tầng có nhiều thành phần kinh tế, những kiểu quan hệ sản xuất thì kiểu quan hệ sản xuất thống trị bao giờ cũng giữ vai trò chủ đạo chi phối các thành phần kinh tế và kiểu quan hệ sản xuất khác: nó quyết định và tác động trực tiếp đến xu hướng chung của toàn bộ đời sống kinh tế - xã hội. 2. Khái niệm kiến trúc thượng tầng. Kiến trúc thượng tầng là toàn bộ những trạng thái tâm lý và quan điểm tư tưởng xã hội, những thiết chế xã hội tương ứng như nhà nước, Đảng phái, giáo hội, các đoàn thể xã hội hình thành trên một cơ sở hạ tầng nhất định. Mỗi yếu tố của kiến trúc thượng tầng có đặc điểm riêng, có quy luật phát triển riêng, nhưng không tồn tại tách rời nhau mà tác động qua lại lẫn nhau và đều nảy sinh trên cơ sở hạ tầng, phản ánh cơ sở hạ tầng. Song không phải tất cả các yếu tố của kiến trúc thượng tầng đều liên hệ như nhau đối với cơ sở hạ tầng của nó . trong các bộ phận của kiến trúc thượng tầng. Nhà nước ta tổ chức quyền lực cao nhất, giữ vai trò quyết định. 3. Mối quan hệ biện chứng giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng. * Cơ sở hạ tầng quyết định kiến trúc thượng tầng mỗi hình thái kinh tế xã hội đều có cơ sở hạ tâng và kiến trúc thượng tầng do đó. Cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng mang tính chất lịch sử, cụ thể, giữa chúng có mối liên hệ biện chứng với nhau trong đó cơ sở hạ tầng giữ vai trò quyết định. Vai trò quyết định của cơ sở hạ tầng đối với kiến trúc thượng tầng thể hiện trước hết ở chỗ cơ sở hạ tầng nào thì sinh ra kiến trúc thượng tầng ấy. Giai cấp nào chiếm địa vị thống trị về kinh tế thì cũng chiếm đạ vị thống trị trong đời sống tinh thần. Quan hệ sản xuất nào thống trị thì tạo ra kiến trúc thượng tầng chính trị tương ứng. Mâu thuẫn trong lĩnh vực kinh tế quyết định tính chất mâu thuẫn trong lĩnh vực tư tưởng. Đối với bất kỳ mọi hiện tượng nào thuộc kiến trúc thượng tầng, Nhà nước, pháp luật, đảng phái triết học hay đạo đức... chúng ta không thể giải thích được chính bản thân nó. Tất cả đều trực tiếp hay gián tiếp phụ thuộc vào cơ sở hạ tầng, do cơ sở hạ tầng quyết định cơ sở hạ tầng đối với kiến trúc thượng tầng còn thể hiện ở chỗ những biến đổi căn bản trong kiến trúc thượng tần. Sự biến đổi đó diễn ra trong hình thái kinh tế xã hội khác. Khi cơ sở hạ tầng cũ mất đi thì kiến trúc thượng tầng do nó sinh ra cũng mất theo, khi cơ sở hạ tầng, khi khi cơ sở hạ tầng mới ra đời thì một kiểu kiến trúc thượng tầng mới phù hợp với nó cũng xuất hiện. Cơ sở hạ tầng cũ mất đi thì kiến trúc thượng tầng của nó với tính cách là một chỉnh thống trị xã hội cũng mất theo. Song có những nhân tố riêng lẻ của kiến trúc thượng tầng ấu vẫn còn tồn tại dai dẳng sau khi ***** kiến trúc thượng tầng sinh ra nó đã bị diệt vong. Cũng có những nhân tố nào đó của kiến trúc thượng tầng cũ được giai cấp cầm quyền mới duy trì để xây dựng kiến trúc thượng tầng mới. Như vậy, sự hình thành và phát triển của kiến trúc thượng tầng do cơ sở hạ tầng quyết định; đồng thời nó còn có quan hệ kế thừa đối với các yếu tố của kiến trúc thượng tầng của xã hội cũ. Tính quyết định của cơ sở hạ tầng đối với kiến trúc thượng tầng diễn ra rất phức tạp trong quá trình chuyển từ hình thái kinh tế xã hội này sang mọi hình thái kinh tế xã hội khác. 3.2. Sự tác động trở lại của kiến trúc thượng tầng đối với cơ sở hạ tầng. Đó là sự phụ thuộc của kiến trúc thượng tầng vào cơ sở hạ tầng không phải là một hệ thống liên hệ phụ thuộc có tính chất giản đơn như một cơ chế hoạt động tự động, không phải bất cứ sự biến đổi nào trong kiến trúc thượng tầng cũng được giải thích chỉ bằng những nguyên nhân kinh tế. Bên trong bản thân những yếu tố của kiến trúc thượng tầng cũng xuất hiện những sự liên hệ tác động lẫn nhau nhiều vẻ. Những tác động ấy dẫn đến những hậu quả đôi khi không được quyết định bởi kinh tế. Tuy nhiên suy đến cùng thì cơ sở hạ tầng quyết định kiến trúc thượng tần. Đồng thời kiến trúc thượng tầng luôn luôn là lực lượng tác động mạnh mẽ trên toàn bộ các mặt của đời sống xã hội với tác động tích cực trở lại cơ sở hạ tầng đã sinh ra nó. Sự tác động tích cực của kiến trúc thượng tầng đối với cơ sở hạ tầng được thể hiện ở chức năng xã hội của kiến trúc thượng tầng là bảo vệ, duy trì, củng cố và phát triển cơ sở hạ tầng sinh ra nó, đấu tranh xoá bỏ cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng. Trong xã hội có đối kháng, kiến trúc thượng tầng bảo đmở rộng sự thống trị chính sách, tư tưởng cuả giai cấp giữ vị trí địa vị thống trị kinh tế Trong các bộ phận của kiến trúc thượng tầng, nhà nước giữ vai trò đặc biệt quan trọng có tác dụng to lớn đối với cơ sở hạ tầng Nhà nước không chỉ dựa trên tư tưởng, mà còn dựa trên những hình thức nhất định của việc kiểm soát xã hội, sử dụng bạo lực, bao gồm những yếu tố vật chất: Quân đội, cảnh sát, nhà tù..v.v... Để tăng cường sức mạnh kinh tế của giai cấp thống trị củng cố vững chắc địa vị của quan hệ sản xuất thống trị. Các bộ phận khác của kiến trúc thượng tầng như triết học, đạo đức, tôn giáo, nghệ thuật đều tác động mạnh mẽ đến cơ sở hạ tầng bằng những hình thức khác nhau, song thường thường những sự tác động đó phải thông qua nhà nước, pháp luật và các thể chế tương ứng thì mới phát huy được hiệu lực đối với cơ sở hạ tầng, cũng hư đối với toàn bộ xã hội . Trong bản thân kiến trúc thượng tầng cũng diễn ra quá trình biến đổi phát triển có tính chất độc lập tương quá trình đó càng phù hợp với cơ sở hạ tầng thì sự tác động của nó đối với cơ sở hạ tầng càng có hiệu quả. Như vậy, kiến trúc thượng tầng có tác dụng to lớn đối với nó tác động cùng chiều với quy luật vận động của cơ sở hạ tầng, trái lại nó sẽ cản trở sự phát triển của cơ sở hạ tầng, khi nó tác động ngược chiều với quy luật kinh tế khách quan. Chủ nghĩa duy vật lịch sử nhấn mạnh rằng chỉ có kiến trúc thượng tầng tiến bộ nảy sinh trong quá trình phát triển của cơ sở kinh tế mơi, phản ánh nhu cầu của sự phát triển kinh tế có thể thúc đẩy kinh tế phát triển, xã hội đi lên, ngược lại, nếu kiến trúc thượng tầng là sản phẩm của cơ sở kinh tế đã lỗi thời gây ra tác dụng kìm hãm sự phát triển kinh tế và tiến bộ xã hội. Những tác dụng kìm hãm đó chỉ là tạm thời, sớm hay muộn nó sẽ bị cách mạng khắc phục. Qua nhấn mạnh hoặc thổi phồng vai trò của kiến trúc thượng tầng, phủ nhận tính tất yếu khách quan của xã hội, sẽ không tránh khỏi rơi vào chủ nghĩa duy tâm chủ quan và không thể hiện nhận thức đúng đắn sự phát triển của lịch sử. Phần II: Sự nghiệp đổi mới của đất nước ta đối với việc vận dụng mối quan hệ giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng. 1. Việt Nam trước đổi mới. Sau đại thắng mùa xuân năm 1975 đất nước thống nhất toàn ven, Đảng và nhà nước ta đã định ra con đường XHCN cho quá trình xây dựng và phát triển toàn diện đất nước. Trong bước đầu của sự nghiệp xây dựng XHCN và bảo vệ tổ quốc, nhân dân ta đã nhận được sự giúp đỡ to lớn và hợp tác nhiều mặt của Liên Xô và các nước XHCN anh em khác cũng như sự cổ vũ, ủng hộ của nhiều nước bạn và nhân dân yêu chuộng hoà bình trên thế giới. Cùng với sự cải thiện thế chiến lược chung và quan hệ hợp tác toàn diện giữa ba nước Đông Dương: Lào, Việt Nam , Camphuchia đã tạo thêm nhân tố thuận lợi cho công tác xây dựng cuộc sống mới ở nước ta. Tuy nhiên, do điểm xuất phát quá thấp về kinh tế, lại phải chịu hậu quả nặng nề của chiến tranh và tàn dư phong kiến của thế hệ trước để lại. Việt Nam đã phải đứng trước rất nhiều khó khăn. Sản xuất tuy có tăng nhưng rất chậm so với khả năng sẵn có và công sức bỏ ra so với yêu cầu cần nhanh chóng ổn định đời sống nhân dân sau chiến tranh, tích luỹ để công nghiệp hoá và củng cố quốc phòng an ninh. Một số mục tiêu không đạt được như sản xuất lương thực, vải, xi măng..... đã ảnh hưởng không nhỏ đến đời sống nhân dân và các hoạt động của đất nước. Hiệu quả sản xuất còn thấp, chưa áp dụng được thành tựu khoa học kỹ thuật vào sản xuất, do vậy năng xuất giảmm, chất lượng không cao. Tài nguyên của đất chưa được khai thác tốt lại không có chính sách bảo vệ hợp lý nhất là nông nghiệp và tài nguyên môi trường ... Các quan hệ sản xuất XHCN chậm được củng cố, vai trò chủ đạo kinh tế quốc doanh suy yếu, Đảng và nhà nước chưa có biện pháp hợp lý trong việc sử dụng và cải tạo hết các thành phần kinh tế phi XHCN. Các hiện tượng tiêu cực trong xã hội phát triển do kỷ cương, pháp luật chưa nghiêm làm cho một số cán bộ viên chức lộng quyền, tham nhũng và làm ăn phi pháp gây thất thoát tài sản của nhà nước, ảnh hưởng đến tâm lý nhân dân. Có thể khảng định chắc chắn rằng: Nguyên nhân then chốt của những két quả trên là do mối quan hệ giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng (ngoài ra có các nguyên nhân giữa quan hệ sản xuất và lực lượng sản xuất ). 2. Mâu thuẫn giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng. Cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng là thể thống nhất của hai mặt không thể tách rời và luôn có tác động lẫn nhau. Sự biến đổi của cơ sở hạ tầng dẫn đến sự biến đổi kiến trúc thượng tầng và diễn ra trong từng hình thái kinh tế xã hội. Cơ sở hạ tầng ở thời kỳ quá độ ở nước ta bao gồm các thành phần kinh tế (các phương thức sản xuất ), tức là các kiểu tổ chức kinh tế, các kiểu quan hệ sản xuất gắn liền với cá hình thức sở hữu khác nhau, thậm chí độc lập nhau, cùng tồn tại trong một cơ cấu kinh tế quốc dân thống nhất, đó là nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo định hướng XNCN. Do cùng tồn tại nên các thành phần kinh tế tuy có sự thống nhất ở mức độ về lợi ích nhưng vẫn có sự không thống nhất về bản chất kinh tế -xã hội. Sự không đồng nhất này do không có bước đi, kế hoạch điều chỉnh hợp lý của các cấp lãnh đạo đã tạo nên sự trì trệ, chậm chạp của kinh tế tập thể, kinh tế quốc doanh chưa được củng cố và phát triển vững mạnh, thương nghiệp quốc doanh và hợp tác xã mua bán chưa được mở rộng, ít tiến bộ về tổ chức và phương thức kinh doanh để làm chủ thị trường. Do kiến trúc thượng tầng hình thành trên cơ sở hạ tầng và phản ánh cơ sở hạ tầng cho nên định hướng XHCN là nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần thì hoạt động của nhà nước không thể chỉ bó hẹp trong kinh tế quốc doanh đã công hữu hoá mà còn phải bao quát, thừa nhận sự tồn tại của các thành phần kinh tế khác ngoài kinh doanh. Chính vì vậy sự bất hợp lý trong công tác tổ chức quản lý kinh tế đã phần nào tạo ra sự kém phát triển. Ngoài ra, từ một nền kinh tế phổ biến sản xuất nhỏ, công nghiệp và dịch vụ còn kém phát triển chúng ta đã quá độ đi nên chủ nghĩa xã hội mà không qua giai đoạn TBCN đương nhiên phải lâu dài và rất khó khăn. Đó là thời kỳ cải biến cách mạng sâu sắc, toàn diện, triệt để nhằm xây dựng từ đầu một chế độ xã hội mới cả về lực lượng sản xuất, quan hệ sản xuất và kiến trúc thượng tầng. Tuy nhiên do sự nhận thức, lý luận, chủ quan nóng vội, bảo thủ, trì trệ làm trái quy luật. Chưa nhận thức quy luật mâu thuẫn một cách sâu sắc nên chưa củng cố và hoàn thiện được các bộ phận cơ sở hạ tầng đồng thời lại đốt cháy giai đoạn, chưa xây dựng cơ sở hạ tầng vững chắc để làm nền móng cho cơ sở hạ tâng. Vì vậy cơ sở hạ tầng của nhà nước còn mang giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng tất yếu tác động đến quy kinh tế luật khách, cần thiết phải có biện pháp hợp lý để giải quyết. 3. Việt Nam trong công cuộc đổi mới. Để giải quyết mối quan hệ then chốt các cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng. Đảng và nhà nước ta đã không ngừng tìm hiểu, phân tích từng mặt cụ thể và đã nhận thức được bản chất, khunh hướng vận động và sự phát triển của sự vật hiện tượng vào thực tiễn tình hình đất nước. Từ đó đã đề ra những biện pháp cụ thể khác nhau để giải quyết các mối quan hệ đó. Trên những nguên tắc nhất định cụ thể là: Việc xây dựng đất nước phải đi từ đầu, từ gốc đến ngọn cả cơ sở hạ tầng đến kiến trúc thượng tầng. Việc xây dựng kiến trúc thượng tầng phải xuất phát từ yêu cầu phát triển kinh tế trong từng giai đoạn và mỗi nước phát triển kinh tế là góp phần củng có và hoàn thiện các bộ phận của kiến trúc thượng tầng, đối với kinh tế phải gắn liền với đổi mới chính trị và các mặt khác của đời sống xã hội, hai kỳ đại hội Đảng VI Và VII đã khảng định: * Về cơ sở hạ tầng: Khảng định sự tồn tại của nhiều phương thức sản xuất (thành phần kinh tế ), nhiều quan hệ sản xuất trong cơ cấu kinh tế quốc dân thống nhất theo định hớng XHCN. Sử dụng các thành phần kinh tế trong sự liên kết chặt chẽ và chủ đạo trong nền kinh tế xã hội chủ nghĩa theo nguyên tắc bảo đảm phát triển sớm nhất, năng xuất, hiệu quả kinh tế cao, tăng thu nhập cho người lao động, đồng thời hướng dẫn các thành phần khác đi đúng quỹ đạo của đinh hướng xã hội chủ nghĩa. Không được nóng vội, làm trái với quy luật phát triển khách quan của xã hội, từng bước khai hoá nền sản xuất theo định hướng mới. Về kiến trúc thiện tầng lấy chủ nghĩa Mác – Lê Nin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm ‘’kim chỉ nam “ cho công cuộc đổi mới, cho hoạt động xây dựng hệ thống chính trị xã hội chủ nghĩa mang bản đắc chất giải cấp công nhân, do đảng cộng sản(đội tiên phong) lãnh đạo. Toàn bộ xã hội thuộc về nhân dân, dân làm chủ, xây dựng nhà nước pháp quyền, tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa, phát triển, củng cố vững vai trò to lớn của Đảng và Nhà Nước đối với toàn xã hội, đặc biệt là chức năng kinh tế của nhà nứơc. Đồng thời, nhà nước cũng đề ra đường nối chính sách để phát huy tính năng động của cơ sở hạ tầng, phát huy mọi khả năng sáng tạo, tính tích cực chủ động của mọi cá nhân, mọi tầng lớp xã hội phục vụ lợi ích của toàn đảng, toàn dân. Tóm lại, giải quyết được mối quan hệ, giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thiện tầng, đang tồn tại trong xã hội, là một quá trình phức tạp, khó khăn, lâu dài. Khi giải quyết được mối quan hệ cũ thì lại nảy sinh mối quan hệ mới, đó là một quá trình biện trứng, diễn ra không ngừng, chính điều đó đã tạo động lực thúc đẩy sự phát triển đất nước, nên trong xã hội bao giờ cũng tồn tại mối quan hệ biện trứng, do đó chúng ta phải chấp nhận mối quan hệ đó. Phần III Kết kuận 1.Những thành tựu đã đạt được trong công cuộc đổi mới. Những thành tựu mà công cuộc đổi mới đã đem lại một lần nữa chứng minh một sự đúng đắn của quy liật phát triển và mối quan hệ biện chứng giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng. Không thể nào có được một đất nước mà cơ sở hạ tầng phát triển song kiến trúc thượng tầng ngược lại không có sự phát triển thích ứng với cơ sở hạ tầng và cũng như không có được một kiến trúc thượng tầng được coi là hoàn hảo mà lại đứng trên một cơ cở hạ tầng lạc hậu thấp kém, ta không thể coi đó như là một sự phát triển bình thường mà là một sự phát triển sai lệch què cụt. Mỗi chúng ta tự hào về công cuộc đổi mới do Đảng ta khởi xướng và lãnh đạo. Song chúng ta hiểu rõ rằng vẫn còn nhiều thiếu sót mà chưa giải quyết hết được. Đó là những tác động tiêu cực của chủ nghĩa quan liêu, của chế quan liêu bao cấp đã xâm nhập vào tổ chức bộ máy và hoạt động của nhà nước trong môt thời gian dài, Đặc quyền, đặc lợi, tham nhũng ở một bộ phận không nhỏ cán bộ, nhân viên… gây lên những tổn thất nặng nề về kinh tế và văn hoá, ảnh hưởng xấu về chính trị, tinh thần và đạo đức trong xã hội ta. Cho dù đâu đó vẫn còn những thiếu sót mà chúng ta chưa làm được, song chúng ta tin rằng sự lãnh đạo sáng xuốt của Đảng và Nhà Nước ta mà nền tảng của nó là chủ nghĩa Mác-Lê Nin và tư tưởng Hồ Chí Minh chúng ta sẽ thành công. Bởi chúng ta có niềm tin và biết vận dụng linh hoạt đúng đắn quy luật phát triển của xã hội mà Mác – Lê Nin là những người tiên phong vạch ra con đường đi theo nhân loại. 2.Nhiệm vụ, yêu cầu đối với sinh viên trong công cuộc đổi mới. Sinh viên là tầng lớp chi thức trẻ của đất nước, đặc biệt là sinh viên Đại Học Quản Lý và Kinh Doanh là những người làm công tác quản lý kinh tế và phải năng động, sáng tạo, nhạy bén, linh hoạt trong việc nghiên cứu, phân tích, và vận dụng các mối quan hệ vào sự nghiệp đổi mới của đất nước. Phải biết kết hợp chặt chẽ giữa lỗ lực chủ quan và thực tế khách quan, kết hợp giữa tình cảm, ý trí với chí thức khoa học công nghệ một cách đồng bộ, nhuần nhuyễn. Chủ động trong mọi tình hống, mọi hoạt động. Từ đó biến cách nắm bắt thời cơ thuận lợi tạo cho sự phát triển tiến bộ. Rèn luyện những phẩm chất đáng quý như tính kiên nhẫn, cẩn thận, tinh thần ham học hỏi, vận dụng các chi thức khoa học vào thưch tiễn kết hợp với lòng nhiệt tình Cách Mạng. Song với điều đó, mọi sinh viên phải không ngừng nâng cao trình độ qủan lý luận, tư duy khoa học của mình để có định hướng đúng đắn trong quá trình học tập, rèn luyện trong công tác của mình. Tài liệu tham khảo - Giáo trình Triết học Mác- Lê nin - Bộ giáo dục và đào tạo. - V.I. Lê nin toàn tập, tập 29 - NXB Tiến bộ, Matxcova, 1981. - Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI - NXB Chính trị quốc gia. - Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII - NXB Chính trị quốc gia. Mục lục Trang A. Lời nói đầu B. Nội dung nghiên cứu 3 Phần I. Khái niệm cơ bản về cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng: mối quan hệ giữa chúng 3 1. Khái niệm cơ sở hạ tầng 3 2. Khái niệm về kiến trúc thượng tầng 4 3. Mối quan hệ biện chứng giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng. 4 3.1. Cơ sở hạ tầng quyết định kiến trúc thượng tầng 4 3.2. Sự tác động trở lại của kiến trúc thượng tầng đối với cơ sở hạ tầng 5 Phần II: Sự nghiệp đổi mới của đất nước ta đối với việc vận dụng mối quan hệ giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng 8 1. Việt Nam trước đổi mới. 8 2. Mâu thuẫn giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng. 9 3. Việt Nam trong công cuộc đổi mới. 10 Phần III: Kết luận 12 1. Những thành tựu đã đạt được trong công cuộc đổi mới. 12 2. Nhiệm vụ, yêu cầu đối với sinh viên trong công cuộc đổi mới 13

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc28288.doc
Tài liệu liên quan