Tiểu luận Sự nhận thức và vận dụng của học thuyết Mác về hình thái kinh tế xã hội vào điều kiện cụ thể ở Việt Nam trong thời đại mới

Hình thái kinh tế xã hội là một phạm trù của chủ nghĩa duy vật lịch sử dùng để chỉ xã hội ở từng giai đoạn lịch sử nhất định với một kiểu quan hệ sản xuất đặc trưng cho xã hội đó, phù hợp với một trình độ nhất định của lực lượng sản xuất và một kiến trúc thượng tầng được xây dựng trên những quan hệ sản xuất ấy.

Ngoài những mặt cơ bản trên đây hình thái kinh tế xã hội còn có những quan hệ khác, các quan hệ trên đây tuy có vai trò độc lập nhất định nhưng cũng bị chi phối bnởi những điều kiênj vật chất, kinh tế cụ thể và những quan hệ cơ bản khác của xã hội.

 

doc24 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 2135 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tiểu luận Sự nhận thức và vận dụng của học thuyết Mác về hình thái kinh tế xã hội vào điều kiện cụ thể ở Việt Nam trong thời đại mới, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
h là mọt thành tố của lực lượng sản xuất con người vừa là chủ thể, chủ thể sáng tạo và tiêu dùng sản phẩm của sản xuất, vừa là nguồn lực, nguồn lực đặc biệt của sản xuất. Lê nin viết “ Lực lượn sản xuất là hàng đầu của toàn thể nhân loại, là công nhân là người lao động “ Lực lượng sản xuất biểu hiện mói quan hệ giữa người với giới tự nhiên. Trình độ của lực lượng sản xuát thể hiện trình độ cinh phục tự nhiên của loài người, đó là kết quả của năng lực thực tiễn của con người trong quá trình tác động vào tư nhiên tạo ra của cải vật chất bảo đảm cho sự tồn tại và phát triển của loài người. Lực lượng sản xuất gồm Tư liệu sản xuất do xã hội tạo ra, trước hết là công cụ lao động. Người lao động với những kinh nghiệm sản xuất, biết sử dụng tư liệu sản xuất để tạo ra của cải vật chất. Quan hệ sản xuất là mối quan hệ giữa người và người. Trong quá trình sản xuất, cũng như lực lượng sản xuất quan hê sản xuất theo lĩnh vực đời sống vật chất của xã hội, nó tồn tại khách quan độc lập với ý thức của con người. Quan hệ sản xuất là quan hệ kinh tế cơ bản của một hình thái kinh tế xã hội. Mối quan hệ sản xuất tiêu biểu cho bản chất kinh tế của một hình thái kinh tế xã hội. Quan hệ sản xuất bao gồm các mặt cơ bản sau: Quan hệ sản xuất giữa người với người đối với việc sở hữu về lao động sản xuất. Quan hệ sản xuất giữa người với người đối với việc tổ chức quản lý Quan hệ sản xuất giữa người với người đối với việc phân phối sản phẩm lao động. các hệ thống quan hệ sản xuất ở mỗi giai đoạn lịch sử đều tồn tại trong một phương thức sản xuất nhất định. Hệ thống quan hệ sản xuất thống trị mỗi hình thái kinhtế - xã hội và quyết định tính chất bộ mặt hìnhthái kinh tế xã hội. Vì vậy khi nghiên cứu xem xét tính chất tính chất của một hình thái kinh tế xã hội thì không thể nhìn nhận ở một trình độ phát triển của lực lượng sản xuất. Những mặt của quan hệ sản xuất mặc dù về khả năng luôn luôn có xu thế phù hợp với một trình độ phát triển nhất định của lực lượng sản xuất. song trong thực tế trước ết chúng lại là những quan hệ hiện thực – lịch sử của con người ở giai đoạn lịch sử xác định. Chính điều này đã nói lên quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất. Đây cũng là quy luật của sự phát triển xã hội loài người. Sự tác đông của nó trong lịch sử là cho xã hội chuyển từ hình thái kinh tế xã hội thấp sang hình thái xã hội khác cao hơn được thể hiện ở sự thay thế phát triển đi lên của lịch sử xã hội loài người từ chế độ công và nô lệ lên chế độ chiếm hữu nô lệ, chế độ phong kiến, chế độ tư bản chủ nghĩa và xã hội cộng sản tương lai Quy luật về sự phù hợp của quan hệ sản xuẩt với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất là quy luật vận động phát triển của xã hội qua sự thay thế kế tiếp từ thấp đến cao của phương thức sản xuất. Nhưng không phải bất cứ nước nào cũng nhất thiết phải tuần tự trải qua tất cả các phương thức sản xuất mà loài người biết đến. Thực tế phát trển của lịch sử nhân loại cho thấy, tuỳ theo điều kiện lịch sử cụ thể, một số nước ccó tể bỏ qua một hoặc một số phương thức để tiến lên phương th\cs sản xuất cao hơn. Đó chính là sự biểu hiện cuả quy luật chung trong điều kiện cụ thể của mỗi nước. Quy luật chung chi phối xu hướng vận động phát triển của tất cả các nước. Tư tưởng của chủ nghĩa Mac là lời chỉ dẫn chúng ta trong việc nghiên cứu sự hình thành và phát triển của chủ nghĩa xã hội. III. Quan điểm về mối quan hệ biện chứng cơ sở hạ tầng và kiến trúcthượng tầng: Xã hội dưới bất kỳ hình thức nào đều là sản phẩm của quan hệ giữa người với người. Quan hệ xã hội của con người rất đa dạng phong phú vận động vàbiến đổi không ngừng. Công lao to lớn của Mác và Ăng Ghen là từ những quan hệ xã hội hết sức phức tạp đã phân biệt những quan hệ vật chất của xã hội với những quan hệ tinh thần tư tưởng của xã hội, nêu bật vật chất cơ sở hạ tầng giữ vai trò quyết định kiến trúc thượng tầng. Toàn bộ những quan hệ sản xuất xã hội, bao gồm những quan hệ sản xuất thống trị, bị những quan hệ sãn xuất đã đặc ctrưng cho mỗi phương thức sản xuất và tất cả những quan hệ sản xuất khác tồn tại hiện thực trong mỗi phương thữc sản xuất hợp thành cơ cấu kinh tế xã hội. Khái niệm cơ sở hạ tầng dùng để chỉ toàn bộ những quan hệ sản xuất hợp thành cơ cấu kinh tế của một hình thái kinh tế – xã hội nhất định. Quan hệ sản xuất một mặt thống nhất với lực lượng sản xuất hợp thành một phương thức sản xuất mặt khác còn hợp thành cơ sở kinh tế của xã hội tức là coi cơ sỏ hiện thực trên đó xây dựng lên một kiến trúc thượng tầng pháp lý và chính trị tương ứng với cơ sở thực tại đó có hình thái ý thức xã hội nhất định. Các Mác viết: “Toàn bộ những quan hệ sản xuất hợp thành cơ cấu kinh tế của xã hội tức là các cơ sở hiện thực trên đó xây dựng lên một kiến trúc thượng từng pháp lý và chính trị và những hình thái xã hội nhất định tương ứng với cơ sở hiện thực đó”. Như vậy kiến trúc thựơng tầng và toàn bộ những tư tưởng xã hội, những thiết chế tương ứng và những quan hệ nội tại của thượng từng hình thái trên một cơ sở hạ từng nhất định. Hình thái kinh tế – xã hội có cơ sở hsj từng và kiến trúc thượng từng của nó. Do đó cơ sở hạ từng và kiến trúc thượng từng mang tính lịch sử cụ thể, giữa chúng có mối quan hệ biện chứng với nhau, trong đó cơ sở hạ từng giữ vai trò quyết định. III. Quan điểm về mối hệ biện chứng giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng. Xã hội dưới bất kỳ hình thức nào đều là sản phẩm của quan hệ giữa người với người. Quan hệ xã hội của con người rất đa dạng phong phú, vận động và biến đổi không ngừng. Công lao to lớn của Mác và ănggen là từ những quan hệ xã hội hết sức phức tạp đã phân biệt những quan hệ vật chất của xã hội với những quan hệ tinh thần tư tưởng của xã hội, nêu bật vật chất cơ sở hạ tầng giữ vai trò quyết định kiến trúc thượng tầng. Toàn bộ những quan hệ sản xuất xã hội, bao gồm những quan hệ sản xuất thống trị tức là những quan hệ sản xuất đặc trưng cho mỗi quan hệ và cho tất cả những quan hệ sản xuất khác tồn tại hiện thực trong mỗi phương thức sản xuất hợp thành cơ cấu kinh tế của xã hội. Khái niệm cơ cấu xã hội dùng để chỉ toàn bộ những quan hệ sản xuất hợp thành cơ cấu kinh tế của một cơ cấu hình thái kinh tế nhất định. Quan hệ sản xuất một mặt thống nhất với lực lượng sản xuất hợp thành phương thức sản xuất mặt khác còn hợp thành cơ cấu kinh tế xã hội, tức là coi cơ sở hiện thực trên đó xây dựng lên một kiến trúc thượng tầng pháp lý và chính trị và tương ứng với cơ sở thực tại đó có hình thái ý thức xã hội nhất định, Các Mác viết: “ toàn bộ những quan hệ sản xuất ấy hợp thành cơ cấu kinh tế của xã hội tứca là các cơ sở hiện thực trên đó sẽ dựng lên một kiến trúc thượng tầng pháp lý và chính trị và những hình thái xã hôị nhất định tương ứng với cơ sở hiện thực đó”. Mỗi hình thái kinh tế xã hội có cơ sở hạ tầng và kiến trúc và thượng tầng của nó. Do đó cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng mang tính lịch sự cụ thể, giữ chúng có mối quan hệ biện chứng với nhau trong đó cơ sở hạ tầng giữ vai trò quyết định. Vai trò quyết định của cơ sở hạ tầng đối với kiến trúc thượng tầng thể hiện trước hết ở chỗ cơ sở hạ tầng đói với kiến trúc thượng tầng thể hiện trước hết ở chỗ cơ sở hạ tầng nào sinh ra kiến trúc thượng tầng ấy, giai cấp nào chiếm địa vị thống trị về kinh tế thì cũng chiếm địa vị thống trị về đời sống tinh thần, quan hệ sản xuất nào thì tạo ra kiến trúc thượng tầng tương ứng, mâu thuẫn trong lĩnh vực kinh tế quyết định tính chất mâu thuẫn trong lĩnh vực tư tưởng. Có thể thấy rằng C. Mác đã trình bày một cách hết sức sáng tỏ cấu trúc của hình thái kinh tế xã hội và cơ chế vận động của nó. Tuy nhiên, vào 1888 Ăngghen lại tóm tắt quan niệm về hình thái kinh tế xã hội của Mac trong đó ông nhấn mạnh cái cơ sở để cách nghĩa lịch sử là phương thức sản xuất lẫn cơ cấu xã hôị. Ông viết: “ trong mỗi thời đại lịch sử phương thức chủ yếu của sản xuất kinh tế và trao đổi, cùng với cơ cấu xã hội, do phương thức đó quyết định, đã cấu thành cơ sở cho lịch sử chính trị của thời đại và lịch sử của sự phát triển trí tuệ của thời đại, cái cơ sở mà chỉ có xuất phát từ đó mới cắt nghĩa được từ đó. B. Hình thái kinh tế xã hội I. Khái niệm về cấu trúc của hình thái kinh tế xã hội. Khác với quan điểm của các nhà triết học và xã hội học trước đấy cho rằng xã hội là một tập hợp ngẫu nhiên của nhiều hiện tượng xã hội như gia đình, dân tộc, tôn giáo, các tổ chức chính trị. Triết học Mac Lê Nin lần đầu tiên xem xét xã hội như một hệ thống trọn vẹn với một chỉnh thể những cơ cấu phức tạp liên kết thành hình thái xã hội. 1. Khái niệm hình thái kinh tế xã hội. Hình thái kinh tế xã hội là một phạm trù của chủ nghĩa duy vật lịch sử dùng để chỉ xã hội ở từng giai đoạn lịch sử nhất định với một kiểu quan hệ sản xuất đặc trưng cho xã hội đó, phù hợp với một trình độ nhất định của lực lượng sản xuất và một kiến trúc thượng tầng được xây dựng trên những quan hệ sản xuất ấy. Ngoài những mặt cơ bản trên đây hình thái kinh tế xã hội còn có những quan hệ khác, các quan hệ trên đây tuy có vai trò độc lập nhất định nhưng cũng bị chi phối bnởi những điều kiênj vật chất, kinh tế cụ thể và những quan hệ cơ bản khác của xã hội. 2. Theo định nghĩa trên đây cấu trúc hình thái kinh tế xã hội bao gồm: + Lực lượng sản xuất. + Quan hệ sản xuất. + Kiến trúc thượng tầng. Ba mặt đó không tách rời nhau mà nó phải phù hợp với nhau trong đó quan hệ sản xuất nó là quan hệ cơ bản, là tiêu chuẩn khách quan để phân biệt xã hội này với xã hội khác, nó quyết định các quan hệ sản xuất khác và các quan hệ sản xuất khác phải phù hợp với quan hệ sản xuất, lực lượng sản xuất đó là một cơ sở vật chất của một chế độ xã hội nhất định. Sự phát triển của các hình thái kinh tế xã hội là quá trình lịch sử tự nhiên. C.Mác viết: “ Tôi coi sự phát triển của những hình thái kinh tế xã hội là một quá trình lịch sử tự nhiên. Lê Nin giải thích thêm chỉ có đem những quan hệ xã hội vào những quan hệ sản xuất, đem quy những quan hệ sản xuất vào những lực lượng sản xuất thì người ta mới có được một cơ sở sản xuất vững chắc để quan niệm sự phát triển của nhuững hình thái kinh tế xã hội là một quá trình lịch sử tự nhiên. Và dĩ nhiên là không có mối quan hệ như thế thì không thể có một xã hội khoa học được”. Chúng ta đều biết quy luật của đời sống xã hội có đặc điểm là tác động thông qua con người. Song không phải vì thế mà nó mang tính khách quan. Ngược lại, xã hội vận động theo những quy luật không những chúng phụ thuộc mà còn quyết định cả ý chí, ý thức và ý định của con người. Nhìn chung, cho đến nay lịch sử nhân loại đã trải qua bốn hình thái kinh tế xã hội: cộng sản nguyên thuỷ, chiếm hữu nô lệ, phong kiến, tư sản chủ nghĩa đang quá độ sang xã hội chủ nghĩa. Giai đoạn đầu của hình thái kinh tế xã hội – xã hội cộng sản chủ nghĩa, nhưng xét từng quôcá gia dân tộc thì do những đặc điểm về lịch sử không phải quốc gia nào cũng phải trải qua tất cả các hình thức kinh tế xã hội theo một sơ đồ chung. Các nước không qua hình thái kinh tế này hay hình thái khác là sự thật lịch sử và là quá trình ấy là vì sự vận động của xã hội diễn ra không đều giữa các quốc gia, giữa các vùng. Lịch sử thường xuất hiện những trung tâm phát triển cao hơn về sản xuất vật chất, về kỹ thuật hoặc văn hoá, chính trị, .... sự giao lưu, xâm nhập tác động qua lại các trung tâm đó làm xuất hiện khả năng một số nước đi sau có thể rút ngắn tiến trình lịch sử mà không lặp lại tuần tự các quá trình phát triển, các quốc gia trong từng thời kỳ lịch sử nhất định. Như vậy, quá trình lịch sử – tự nhiên của phát triển xã hội chẳng những diễn ra bằng con đường phát triển tuần tự mà còn bao hàm cả trường hợp bỏ qua một hình thái kinh tế – xã hội nhất định trong những hoàn cảnh của lịch sử nhất định. Sự phát triển của hình thái kinh tế xã hội, sự chuyển biến từ hình thái kinh tế đó lên hình thái kinh tế cao hơn được giải thích trước hết bằng sự tác động của quy luật bằng sự phù hợp của quan hệ sản xuất với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất. Quy luật đó là khuynh hướng tự tìm đường cho mình trong sự phát triển và thay thế các hình thái kinh tế xã hội. Chính do tác động của các quy luật này mà hình thái kinh tế xã hội là một quá trình lịch sử – tự nhiên. II. ý nghĩa khoa học và cách mạng của học thuyết Mác về hình thái kinh tế xã hội. Trước Mác chủ nghĩa duy tâm thống trị khoa học xã hội, các nhà triết học đã không giải quyết một cách khoa học vấn đề phân loại các chế độ xã hội phân tích lịch sử xã hội. Với học thuyết Mác về hình thái kinh tế xã hội, chủ nghĩa Mác đã chỉ ra rằng, động lực của lịch sử không phải là một thứ tinh thần thần bí nào, mà chính là hoạt động thực tiễn của con ngườidưới tác động của các quy luật khách quan. Xuất phát từ: “cái sự thật hiển nhiên....là trước hết con người cần phải ăn, uống, ở và mặ nghĩa là phải lao động, trước khi có thể đấu tranh để giành quyền thống trị, trước khi có thể hoạt động, tôn giáo, chính trị, triết hoạc, ...”. Chừng nào cái sự thật hiển nhiên còn tồn tại thì chứng tỏ quan niệm duy vật về lịch sử vẫn không thể bác bỏ được. Học thuyết hình thái kinh tế – xã hội là quan niệm duy vật biện chứng được cụ thể hoá trong việc xem xét đời sống xã hội. Trước hết, học thuết này gắn bó hữu cơ với việc mở rộng các nguyên tắc của chủ nghĩa duy vật vào sự nhận thuức các hiện tượng xã hội. Chính việc mở rộng chủ nghĩa duy vật vào lĩnh vực lịch sử và xã hội đã cho phép vạch ra sự thống nhất giữa xã hội và tự nhiên, sự thống nhất của toàn bô thế giới vật chất. Việc xem xét lịch sử loài người theo quan điểm duy vật để giúp C.Mác tìm ra những nét chung, cơ bản, lặp đi, lặp lại trong các chế độ xã hội của các nước khác nhau. C.Mác đã chỉ ra rằng: “xã hội loài người phải sản xuất để tồn tại và phương thức sản xuất ra của cải vật chất là cái quyéet định các quan hệ chính trị và pháp lý hiện hình trong một xã hội nhất định, cũng như quyết định các trào lưu tư tưởng khác nhau của xã hội”. Tư tưởng, học thuýet, giá trị tinh thần đóng một vai trò tích cực trong đời sống xã hội nhưng xét đến cùng thì nhân tố khách quan quyết định trong lịch sử vẫn là yếu tố kinh tế. Học thuyết hình thái kinh tế xã hội đã khắc phục được quan niệm trìu tượng về xã hội: Mác bác bỏ cách miêu tả một xã hội nói chung, phi lịch sử, không thay đổi về chất. Do việc hình thành hình thái kinh tế xã hội và quan điểm lịch sử cụ thể. Học thuyết hình thái kinh tế - xã hội lần đầu tiên cung cấp cho chúng ta những tiêu chuẩn thực sự duy vật về phân tích lịch sử và cho phép đi sâu vào bản chất của quá trình lịch sử, hiểu được logic khách quan của quá trình đó. Học thuyết này giúp cho việc hiểu được sự vận động của xã hội theo các quy luật khách quan, vạch ra sự thống nhất trong cái muôn màu, muôn vẻ của cá sự kiện lịch sử ở các nước khác nhau trong các thời kỳ khác nhau. Chính vì thế mà “ nó đem lại cho khoa học- xã hội sợi dây dẫn đường để phát hiện ra những mối liên hệ nhân quả, để giải thích chứ không chỉ mô tả các sự kiện lịch sử. Nó là cơ sở khoa học để tiếp cận đúng đắn khi giải quyết những vấn đề cơ bản của các ngành khoa học xã hội rất đa dạng:. Bất kỳ một hiện tượng xã hội nào, từ hiện tượng kinh tế đến hiện tượng tinh thần đều chỉ có thể được hiểu chúng khi gắn nó với một hình thái kinh tế xã hội nhất định. Ngày nay thực tiễn lịch sử và và kiến thức về xã hội lịch sử của nhân loại đã có nhiều bổ sung và phát triển mới so với khi học thuyết hình thái kinh tế - xã hội ra đời. Tuy vậy, những cơ sở khoa học mà quan niệm duy vật về lịch sử đã đem đến cho khoa học xã hội vẫn giữ nguyên giá trị. Bởi lẽ, nếu so với “ cách tiếp cận hình thái” thì trên thực tế, chính “cách tiếp cận văn minh” đẽ phạm sai lầm căn bản là chỉ coi trình độ phát triển khoa học công nghệ, lực lượng sản xuất là yếu tố quyết định duy nhất, bỏ qua vai trò các quan hệ kinh tế giai cấp... Thực tiễn lịch sử trên toàn thế giới những năm gần đây đã chứng minh rằng nếu người ta muốn giải quyết các vấn đề chính trị, xã hội văn hoá... của mỗi xã hội thì rõ ràng là người ta không chỉ thuần tuý dựa vào sự tiến bộ của khoa học kỹ thuật. Điểm mấu chốt là chế độ xã hội – tức là hình thái kinh tế xã hội. Chương ii: Lý luận hình thái kinh tế xã hội với sự nhận thức con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta trong thời đại mới. I- học thuyết về hình hái kinh tế xã hội – nền tảng lý luận của chủ nghĩa duy vật lịch sử. 1. Những cơ sở xuất để phan tích đời sốn xã hội. Xây dựng quan niệm duy vật về lịch sử C. Mac và Ph. Ăngghen đã xuấtphát từ những tièn đế sau. “ Tièn đề đầu tiên của toàn bộ lịch sử nhân loại thì dĩ nhiên là sự tồn tại của những cá nhân con người sống “. Xã hội, dưới bất kỳ hình thức nào cũng là sự liên hệ và tác động giữa người với người. Ngay từ khi mới ra đời, con người đã có nhu cầu tìm hiểu thế giới xung quanh,kể cả vấn đề tự nhận thức về bản thân. Các nhà tư tưởng đã từng tiếp cận vấn đề con người dưới nhiều góc độ và có nhièu đóng góp quý báu, phát hiện ra nhiều thuộc tính, phẩm chất, năng lực phong phú, kỳ diệu của con người về mặt sinh học,xã hội cũng như tâm lý – ý thức. Trên cơ sở đó họ đã kiến giải vàđề xuất những con đường, biện pháp hướng con người đến cuộc sống tươi đẹp. Nhưng do những hạn chế lịch sử, các nhà tư tưởng trước đây chưa có cái nhìn đầy đủ về tồn tại của con người cũng như về lịch sử của xã hội loài người . Họ mới chỉ nghiên cứu những mặt khác nhau của tồntại con người. Tuy vậy tất cả những tư tưởng ấy đã họp hành dòng chủ lưu của lịch sử văn hoá nhân loại, đó là chủ nghĩa nhân đạo. Triết học mác tiếp nối truyền thống cao quý đó và đã có những phát hiện mới, những đóng mới . Lần đầu tiên Mac vạch ra phương thức tồn tại của con người. Xuất phát từ cuộc sóng của con gười hiện thực, mac nhận thấy, phương thức tồn tại của con người chính là hoạt động của họ. Cái quy định hành vi lịch sử đầu tiên và cũng là động lực thúc đẩy con người hoạt động trong suốt quả trình lịch sử của mình là nhu cầu về lợi ích. Nhu cầu tồn tại của con người hình thành một cách khách quan và có nhiều bạc thng mà trước hết là nhu cầu sống ( ăn ,uống, mặc...) nhu cầu giao tiếp và tha gia hoạt động cộng đồng, nhu cầu phát triển tính cách và tự khẳng định mình. Nhu cầu là động lực bên trong cua tính tchs cực,của hứng thú. Kết qủa hoạt động thoả mãn nhu cầu đòng thời làm nẩy sinh nhu cầu mới vàcả những điều kiện thực hiện nhu cầu mới. “ Cá nhân là thực thể của hội” cho nên mọi biểu hiện sinh hoạt của nó là biểu hiện và khẳng địnhcủa sinh hoạt xã hội. Con người cá nhân nằm trong thành phần hệ thống xã hội như gia đình, tập thể, giai cấp, dân tộc...và rộng hơn là hội loài người. “ Đời sống xã hội có tính chất hực tiễn để tồn tại và phát trỉen xã hội không ngừng hoạt động để sản xuất và tái sản xuất , bản thân con người,b, của cải vật chất, c, các quan hệ xã hội d, năng lựctinh thần, trí tuệ. Không thể thiếu một số yếu tố nào trong cấu trúc sản xuất xã hội, song cần nhấn mạnh rằng sản xuất của cải vật chất là yếu tố nền tảng và chính nó tạo ra những điều kiện vật chất cho xã hội tồn tại, là động lực của xã hội, chi phối các yếu tố khác trong cấu trúc xã hội, là cư sở của lịch sử loài người. Sản xuát vật chất tạo ra những tư liệu sinh hoạt đáp ứng nhu cầu sống của con người, tạo ra những tư liệu sản xuất mà những tư liệu sản xuất này vạch ra những thời đại lịch sử của con người. C mac nhấn mạnh: “ những thời đại kinh tế khác nhau không phải ở chỗ chúng sản xuất ra cái gì là ở chỗ chúng được sản xuất ra bằng cách nào, với những tư lệu nào. Cũng chính trong quá trình sản xuất vật chất ấy con người tự tạo ra và tự hoàn thiện chính bản thân mình. Nền sản xuất xã hội là một thể thống nhất bao gồm nhièu mặt, nhiều mối liên hệ trong đó nổi lên hai loại quan hệ cơ bản + Một là: Quan hệ kinh tế – kỹ thuật biểu hiện bằng cách thức, năng lực trình độ con người đặt ra trong quá trình tác động vào giới tự nhiên để tạo ra những sản phẩm ( lực lượng sản xuất) + Hai là: Quan hệ kinh tế – xã hội: Tức là cách thức giải quýet vấn đề lợi ích kinh tế, là qua hệ giữa người với người trong qúa trình sản xuất, trao đổi và tiêu dùng. Lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất không phải là hai bộ phận mà là hai loại quan hệ trong một thể thống nhất cấu thành phương thức sản xuất. Về mặt nhận thức luận đó là hai góc độ tiếp cận để xem xét một thực thể . Tức là nếu phân tích phương thức sản xuất theo quan hệ giữa con người với con người với giới tự nhiên thì đó là phân tích lưc lượng sản xuất, Nếu phân tích phương thức sản xuất theo quan hệ giữa con người với con người thì đó là phân tích quan hệ sản xuất. Lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất nằm trong một thực thể thống nhất của hai mặt đói lập của phương thức sản xuẫtã hội nhất định. Chúng quy định chế ước tác động qua lại thúc đẩy lần nhau phát triển, trong đó lực lượng sản xuất luôn đống vai trò quyết định, sản xuất quan hệ phải phù hợp với tính chất và trình độ phát triển của lưc lướngản xuất. Sự thống nhất mẫu huẫn này không ngừng tự sản sinh và tự giải quyết là động lực vận động nội tại của phương thức sản xuất , sớơ phát triển của tàn bộ loài người. Lịch sử không phải là mọt nhân cách lịch sử phát triển nào đó sử dụng con người làm phương tiện đạt tới mục đích của mình . Lịch sử chẳng qua chỉ là hoạt động của con người theo đuổi mục đích của bản thân mình. Nói lịch sử là sự hoạt động của chính con người , hoạt động baogồm sự thống nhất giữa mặt khách quan và chủ quan của quá trình lịch sử. Nhà sáng lập chủ nghĩa duy vật lịch sử đã đặt ra và giải quyết đúng đắn mối quan hệ biện chứng giữa tồn tại xã hội và ý thức xã hội , giữa điều kiện khsch quan và nhân tố chủ quan , giữa quy luật lịch sử và sự hoạt động có ý thức của con người , gữa yếu tố và tự do , gữa tự phát và tự giác trng sự phát triển của lịch sử . Các cặp phạm trù này là các lát cắt nhận thức luận khác nhau nhưng bổ sung cho nhau cùng làm sáng tỏ mộtt vấn đề hết sức phức tạp , đó là mối quan hệ giữa mặt khách quan và mặt củ quan của tiến trình lịch sử. C. Mác xác lập nguyên lý có tính chất phương pháp luận để giải uyết vấn đề này : “ Không phải ýthức con người quyết định tòn tại của họ , trái lại chính sự tồn tại xã hội của họ quyết định ý thức của họ. Xã hội là bộ phận đặc thù của thế giới vật chất, vận động và phát triển theo quy luật khách quan. Quy luật xã hội là những mối liện hệ bản chất, tất yếu, lặp đi lặp lại của các quá trình, hiện tượng của đời sống xã hội , đặc trưng cho khuynh hướng cơ bản phát trỉen của xã hội từ thấp đến cao. Nói dến quy luật là nói đến tính tất yếu khách quan, nhưng điều đó không có nghĩa là con người bó tay trước quy luật , khi chưa nhận thức được quy luật thi con người hành động một cách tự phát, là nô lệ của tính tất yếu . Khi đã nhận thức được quy luật về những điều kiện hoạt động của chúng,tức là nhận thức được tính tất yếu , thì con người có thể điều khiển hoạt động của mình phù hợp với yêu cầu của quy luật một cách tự giác và con người có tự do trong hoạt động của mình. Quan niệm duy vật về lịch sử không phủ nhận tác động của mục đích của con người đối với tiến trình lịch sử mà còn đòi hỏi giải thích nó một cách khoa học, tức là xem xét nhu cầu khách quan của sự xuất hiên các mục đích và những điều kiện hiện thực để thực hiện mục đích đó. Mặt khác, để đạt được mục đích cần phải có các điều kiện khách quan thích hợp, hoạt động của con người là qúa trình chuyển tính chủ quan thành tính khách quan. Quá trình lịch sử lại thống nhất giữa quy luật vận động của xã hội và hoạt động chính sách ý thức của con người. Và cùng với tiến bộ của xã hội, vai trò của nhân tố chủ quan ngày càng tăng , đó là xu hướng có tính quy luật. 2- Cấu trúc xã hội – phạm trù hình thái kinh tế – xã hội. Thế giới vật chất là một thể thống nhất bao gồm nhiều cấp độ tổ chức khác nhau. ở mỗi cấp độ tổ chức nhất định của vật chất ta có thẻ tmfthấy những yếu tố ổn định mà những mối liện hệ và sự tác độn lẫn nhau giữa chúng tạo thành cấu trúc , mang lại cho nó tính chỉnh thể. Quy trình phát triển đến các cấp độ tổ chức cao làm gia tăng tính phức tạp của hệ thống . Xã hội là hệ thống cực kỳ phức tạp , nẻn khi phân tích xã hội đòi hỏiphải xem xét tính toán tác động của nhều tham số và hợp phần đa dạng ,và được những bộ phận chủ yếu và mốii liện hệ giữa chúng. Điều này rất quan trọng về mặt phương pháp luận , vf nó cho ta cái nhìn tổng quát về xã hội. Các nhà triết học và xã hội học trước Mác khi nghiên cứu xã hội chỉ tiêp cận bộ phận này hay bộ phận khác, nhấn mạnh một yếu tố nào đó và gán cho nó tính quy định, và do đó, không thể đưa ra một mô hình lý luận phản ánh xã hội trong tính chỉnh thể, trọn vẹn của nó. Quan niệm của chủ nghĩa duy vật lịch sử xem xét xã hội với tính cách la một hệ thống bao gồm trong nó bốn lĩnh vực cơ bản: + Lĩnh vực kinh tế của đời sống xã hội, tức quan hệ sản xuất, quan hệ kinh tế giữ vai trò là quan hệ ban đầu, cơ bản và quyết định tất cả các quan hệ xã hội khác. + Lĩnh vực xã hội: Tức quan hệ gia đình, tầng lớp xã hội,giai cấp, dân tộc, trong đó quan hệ giai cấp đóng vai trò chi phối. + Lĩnh vực chính trị và đời sống xã hội: các tổ chức và các thiết chế quyền lực, hệ thống luật pháp và tư tưởng chính trị +Lĩnh vực tinh thần và đời sỗng xã hội: Đóng góp khoa

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc60654.doc