Tiểu luận Sự vận dụng lý luận của Lê nin về chủ nghĩa tư bản nhà nước vào nước ta hiện nay

Để thấy rõ tính khách quan của việc sử dụng hình thức kinh tế tư bản nhà nước ở nước ta hiện nay chúng ta cần phải nắm được đặc điểm cũng như trình độ của nền kinh tế nước ta. Có thể nói nền kinh tế nước ta là một nền kinh tế nông nghiệp lạc hậu với gần 80% dân số tham gia hoạt động nông nghiêp với kỹ thuật thô sơ là phổ biến. Công nghiệp nhỏ bé, thương nghiệp, giao thông vận tải và dịch vụ chưa phát triển. Hiện nay, Đảng và nhà nước ta đang lãnh đạo nhân dân ta tiến hành công cuộc đổi mới, công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước với mục đích đưa nước ta từ một nước nông nghiệp lạc hậu trở thành một nước công nghiệp tiên tiến, hiện đại, vững bước đi lên chủ nghĩa xã hội. Trong công cuộc đổi mới ấy, nền kinh tê nước ta cũng được chuyển đổi từ nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung quan liêu bao cấp sang nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường có sự điều tiết của nhà nước theo định hướng chủ nghĩa xã hội. Trong nền kinh tế nhiều thành phần ấy, Đảng ta đã xác định kinh tế tư bản nhà nước là một trong năm thành phần kinh tế cơ bản. Đó là một chủ trương đúng đắn, tất yếu của Đảng và nhà nước ta vì những nguyên nhân sau đây:

 

doc33 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 1681 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tiểu luận Sự vận dụng lý luận của Lê nin về chủ nghĩa tư bản nhà nước vào nước ta hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
n nhà nước là “ một bước tiến lớn ”, nhờ nó mà chiến thắng được tình trạng hỗn độn, tình trạng suy sụp về kinh tế, khắc phục được tình trạng sản xuất nhỏ phân tán cũng như đấu tranh chống được tính tự phát tiểu tư sản. Nếu sử dụng tốt chủ nghĩa tư bản nhà nước thì “ tất cả các con át chủ bài đều nằm trong tay giai cấp công nhân và sẽ đảm bảo chủ nghĩa xã hội được củng cố ”. Và chủ nghĩa tư bản nhà nước sẽ đưa nước Nga đến chủ nghĩa xãhội bằng con đường chắc chắn nhất. Thứ ba, chủ nghĩa tư bản nhà nước còn được xem là công cụ đấu tranh chống chủ nghĩa quan liêu và những lệch lạc quan liêu chủ nghĩa. Lê nin đã phân tích rõ nguồn gốc kinh tế của chủ nghĩa quan liêu ở nước Nga: ấy là tình trạng riêng rẽ, tình trạng phân tán của những người sản xuất nhỏ, cảnh khốn cùng của họ, tình trạng không có đường sá, nạn mù chữ, tình trạng không có sự trao đổi giữa công nghiệp và nông nghiệp, tình trạng thiếu sự liên hệ và tác động qua lại giữa công nghiệp và nông nghiệp. Bằng việc sử dụng chủ nghĩa tư bản nhà nước, nước Nga sẽ khắc phục được các tình trạng trên, nhờ đó mà có thể đấu tranh chống lại chủ nghĩa quan liêu. Thứ tư, thông qua chủ nghĩa tư bản nhà nước mà giai cấp công nhân có thể học tập được cách quản lý một nền sản xuất lớn, tổ chức một nền sản xuất lớn. Đồng thời, thông qua các hình thức của chủ nghĩa tư bản nhà nước mà các kỹ thuật công nghệ tiên tiến của các nước phát triển cũng được “ du nhập ” vào nước Nga. Nhờ đó, nước Nga có thể xây dựng tốt một cơ sở cho nền đại sản xuất của chính quyền Xô Viết. Thứ năm, chủ nghĩa tư bản nhà nước còn góp phần phát triển giai cấp công nhân. Nếu chủ nghĩa tư bản được lợi thế, thì sản xuất công nghiệp cũng sẽ tăng lên và giai cấp vô sản cũng theo đó mà lớn nhanh lên. Có thể nói, chủ nghĩa tư bản nhà nước có vai trò rất to lớn trong thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội không chỉ với nước Nga lúc bấy giờ mà cả với những nước đang quá độ lên chủ nghĩa xã hội trong giai đoạn hiện nay, trong đó có nước ta. 3. Các hình thức của chủ nghĩa tư bản nhà nước. 3.1. Xí nghiệp tô nhượng. Lê nin quan niệm tô nhượng là một giao kèo, một sự liên kết liên minh giữa chính quyền nhà nước Xô Viết với chủ nghĩa tư bản nhà nước, chống lại chế độ tự phát triển tư hữu. Tô nhượng dựa trên cơ sở đại công nghiệp cơ khí hoá, trong mỗi hợp đồng chỉ quan hệ với duy nhất một nhà tư bản, một tổ chức độc quyền. Nó được cho phép và bắt buộc phải có một hợp đồng và có một thời hạn chính xác. Người nhận tô nhượng là nhà tư bản, họ nhận tô nhượng để kinh doanh theo phương thức tư bản để lấy lợi nhuận và lợi nhuận siêu ngạch hoặc để có được loại nguyên liệu mà họ không thể có hoặc khó có thể có được bằng cách khác (tức là không ký hợp đồng với chính quyền Xô Viết) . Chính quyền Xô Viết cũng có lợi: lực lượng sản xuất phát triển, số lượng sản phẩm tăng lên nhanh chóng. Mặt khác, khi sử dụng chủ nghĩa tư bản nhà nước dưới hình thức tô nhượng, chính quyền Xô Viết sẽ tăng cường được nền đại sản xuất đối lập với nền tiểu sản xuất; nền sản xuất cơ khí hoá đối lập với nền sản xuất thủ công; nó củng cố được những quan hệ kinh tế do nhà nước điều chỉnh đối lập với những quan hệ kinh tế tiểu tư sản, vô chính phủ. Đồng thời tô nhượng cũng là sự tiếp tục của đấu tranh giai cấp dưới một hình thức khác, chứ không phải là sự thay thế đấu tranh giai cấp bằng hoà bình giai cấp. Tuy nhiên, tô nhượng là sự “ du nhập ” chủ nghĩa tư bản từ bên ngoài vào, vì vậy khi sử dụng hình thức này cần suy nghĩ, cân nhắc hết mọi điều khi ký hợp đồng tô nhượng và sau đó phải biết theo dõi việc chấp hành nó. Lê nin đã nêu ra những điểm cần lưu ý khi sử dụng hình thức tô nhượng như sau: Thứ nhất, để thực hành chủ nghĩa tư bản nhà nước dưới hình thức tô nhượng, cần phải từ bỏ chủ nghĩa ái quốc địa phương của một số người cho rằng, tự mình có thể làm lấy, không chấp nhận trở lại ách nô dịch của tư bản. Thứ hai, người nhận tô nhượng có trách nhiệm cải thiện đời sống công nhân trong xí nghiệp tô nhượng sao cho đạt tới mức sống trung bình của người nước ngoài. Cải thiện đời sống của công nhân trong các xí nghiệp tô nhượng và ngoài tô nhượng được xem là “ cơ sở của chính sách tô nhượng ”. Thứ ba, điều kiện về thuê mướn, về sinh hoạt vật chất, về trả lương cho các công nhân lành nghề và nhân viên người nước ngoài được quy định theo sự thoả thuận tự do giữa người nhận tô nhượng với những loại công nhân nói trên. Công đoàn không có quyền đòi áp dụng các mức lương của Nga, cũng như các luật lệ của Nga về thuê mướn nhân công đối với những công nhân đó. Thứ tư, phải tôn trọng luật pháp và nghiêm chỉnh tuân theo những quy tắc khoa học và kỹ thuật phù hợp với pháp luật của nước Nga và của nước ngoài. Chuyển từ chế độ tô nhượng lên chủ nghĩa xã hội là chuyển từ một hình thức đại sản xuất này sang một hình thức đại sản xuất khác. Một khi thắng lợi với hình thức tô nhượng nước Nga sẽ có ngay một số “ xí nghiệp lớn kiểu mẫu ” ngang hàng với các công ty lớn ở những nước tư bản chủ nghĩa hiện đại. Do vậy, ở Nga giai đoạn này tô nhượng chiếm ưu thế hơn so với các hình thức kinh tế tư bản nhà nước khác. 3.2. Hợp tác xã. Từ thực tiễn của nước Nga, Lê nin phân biệt hợp tác xã trong những chế độ khác nhau. Theo Lê nin trong thực tế tồn tại hai chế độ hợp tác xã: tư bản chủ nghĩa và xã hội chủ nghĩa. Chế độ hợp tác xã tư bản chủ nghĩa trong lòng chế độ Xô Viết được coi là một hình thức của chủ nghĩa tư bản nhà nước. Trong một nước tư bản chủ nghĩa, hợp tác xã là những tổ chức tư bản tập thể. Còn trong điều kiện kinh tế mới - tức chính quyền Xô Viết, đã hình thành một loại xí nghiệp thứ ba, tức là xí nghiệp hợp tác xã. Những xí nghiệp hợp tác xã này được coi là một hình thức của chủ nghĩa tư bản nhà nước. Đặc trưng của xí nghiệp này là sự kết hợp những xí nghiệp tư bản tư nhân với những xí nghiệp kiểu xã hội chủ nghĩa chính cống. Lê nin chỉ ra rằng, chủ nghĩa tư bản hợp tác xã khác với chủ nghĩa tư bản tư nhân ở chỗ nó là một hình thái của chủ nghĩa tư bản nhà nước, vì vậy sẽ có lợi và có ích cho nước Nga ở một mức độ nào đó, khi sử dụng nó. Đồng thời, cũng giống như chủ nghĩa tư bản nhà nước, chủ nghĩa tư bản hợp tác xã cũng tạo điều kiện thuận lợi cho việc liên hiệp và tổ chức hàng triệu người, sau đó là toàn thể dân chúng - đây là một điều rất có lợi cho việc quá độ từ chủ nghĩa tư bản nhà nước lên chủ nghĩa xã hội. Nhưng mặt khác, chế độ hợp tác xã dựa trên cơ sở tiểu công nghiệp, trên nền sản xuất thủ công mà một bộ phận thậm chí còn có tính gia trưởng. Chính quyền có thể quan hệ với hàng ngàn, thậm chí hàng triệu tiểu chủ song lại không yêu cầu hợp đồng với thời hạn thật là chính xác. Chính vì vậy thủ tiêu một đạo luật về hơp tác xã dễ hơn nhiều so với việc bãi bỏ một hợp đồng tô nhượng, nhưng nó lại không thể thủ tiêu được các mối quan hệ kinh tế đang có giữa chính quyền Xô Viết vơí hàng triệu các nhà tư bản nhỏ. Ngoài ra, việc chuyển từ chế độ hợp tác xã của những người sản xuất nhỏ lên chủ nghĩa xã hội là việc chuyển từ tiểu sản xuất lên đại sản xuất. Vì vậy, đây là một bước quá độ phức tạp hơn, nhưng thành công của nó lại có thể bao gồm được những khối quần chúng nhân dân lao động đông đảo hơn, do vậy, nó nhổ được những gốc rễ sâu xa hơn và dai dẳng hơn của những quan hệ cũ tiền xã hội cbủ nghĩa thậm chí tiền tư bản chủ nghĩa. Sự thành công của chính sách hợp tác xã sẽ giúp nền kinh tế nhỏ phát triển và tạo điều kiện thuận lợi cho nền kinh tế từ sản xuất nhỏ quá độ trong một thời gian không nhất định lên nền đại sản xuất trên cơ sở tự nguyện kết hợp. 3.3. Hình thức đại lý uỷ thác. Nhà nước lôi cuốn nhà tư bản với tư cách là một nhà buôn, trả cho họ một số tiền hoa hồng để họ bán sản phẩm của nhà nước và mua sản phẩm của người sản xuất nhỏ, trên cơ sở đó theo dõi tình hình sản xuất và phân phối sản phẩm. Cuối cùng với chính sách cho phép mở rộng trao đổi hàng hoá giữa thành thị với nông thôn, giữa công nghiệp với nông nghiệp, củng cố lại lưu thông tiền tệ, hình thức kinh tế này cũng đã có những bước phát triển mới trong giai đoạn này. 3.4. Cho tư bản trong nước thuê xí nghiệp, vùng mỏ, rừng, đất. Hình thức này giống hình thức tô nhượng, nhưng đối tượng tô nhượng không phải là tư bản nước ngoài mà là tư bản trong nước. Hình thức này được coi là hình thức riêng biệt để phân biệt nó với hình thức tương tự nhưng đối tượng thuê là tư bản trong nước. 3.5. Cho nông dân thuê những hầm mỏ nhỏ. Qua thực tiễn vùng mỏ Đôn bat, Lê nin rút ra một hình thức nữa của chủ nghĩa tư bản nhà nước: cho nông dân thuê những hầm mỏ nhỏ. Đây cũng là kiểu cho thuê nhưng đối tượng thuê - theo cách nói của Lê nin - là những tiểu tư bản. Qua việc làm này, Lê nin rút ra hai kết luận - một hiện tượng ngược đời: chính ở những hầm mỏ nhỏ cho nông dân thuê, sản xuất lại đặc biệt phát triển hơn là những xí nghiệp lớn nhất trước kia là của tư bản, ngang hàng với những xí nghiệp tư bản ở Tây Âu. Những quan hệ của chủ nghĩa tư bản nhà nước được phát triển. Những nông dân này hoạt động theo kiểu nộp tô cho nhà nước (gần 30% số than khai thác được) . Có thể nói hình thức này của chủ nghĩa tư bản nhà nước cũng có những vai trò nhất định, đóng góp đáng kể cho công cuộc khôi phục kinh tế, xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước Nga thời bấy giờ. 3.6. Công ty hợp doanh. Hình thức này được đề cập trong báo cáo tại Đại hội IV Quốc tế vô sản, Lê nin đã nói về những thành tựu đạt được do sử dụng chủ nghĩa tư bản nhà nước. Khi nói về lĩnh vực thương nghiệp, chính quyền Xô Viết đang cố gắng lập ra những công ty hợp doanh và đã thành lập được theo thể thức tiền vốn một phần là của tư bản tư nhân, ngoài ra của tư bản nước ngoài và một phần là của chính quyền Xô Viết. 4. Những điều kiện để sử dụng có hiệu quả chủ nghĩa tư bản nhà nước. Qua các phần nghiên cứu trên, chúng ta đã thấy được tính tất yếu phải sử dụng chủ nghĩa tư bản nhà nước, vai trò của chủ nghĩa tư bản nhà nước cũng như những hình thức cụ thể để áp dụng chủ nghĩa tư bản nhà nước. Nhưng, để sử dụng có hiệu quả chủ nghĩa tư bản nhà nước, cần phải làm như thế nào, cần có những điều kiện gì ?. Trong hệ thống chính sách “ Kinh tế mới ” Lê nin đã nêu rõ những điều kiện cần thiết để sử dụng có hiệu quả chủ nghĩa tư bản nhà nước. Trước hết, việc áp dụng chủ nghĩa tư bản nhà nước đòi hỏi phải có sự kiểm kê, kiểm soát của nhà nước đối với các hoạt động của các doanh nghiệp. Điều này được thực hiện với điều kiện là chính quyền nhà nước nằm trong tay giai cấp công nhân. Và nhà nước cần phải quy định khuôn khổ cho sự phát triển của chủ nghĩa tư bản nhà nước. Như Lê nin nói: “ Nếu nhà nước công nhân nắm lấy công xưởng, nhà máy và đường sắt thì chúng ta không sợ gì chủ nghĩa tư bản ấy”. Như vậy, vấn đề là ở chỗ Nhà nước xã hội chủ nghĩa phải kiểm soát ngăn chặn bất cứ chủ nghĩa tư bản nào vượt ra ngoài khuôn khổ của chủ nghĩa tư bản nhà nước và phải làm cho nó phù hợp với lợi ích của giai cấp công nhân. Mặt khác, chủ nghĩa tư bản nhà nước do không đồng nghĩa với hoà bình giai cấp nên tất yếu nhà nước phải đứng ra để bảo vệ lợi ích của nhân dân lao động thông qua việc kiểm kê, kiểm soát nhằm giảm sự đối lập về lợi ích giai cấp - một điều mang tính chất tất yếu tồn tại trong hình thức này. Đồng thời để chủ nghĩa tư bản nhà nước có thể tồn tại và phát triển được thì ở nước Nga lúc này phải thành lập được những hình thức sở hữu hỗn hợp và sở hữu trong các doanh nghiệp. Lý luận về chủ nghĩa tư bản của Lê nin cũng đã cùng lúc đặt ra yêu cầu mới trong nhận thức về chế độ sở hữu trong thời kỳ quá độ. Theo Lê nin thì chế độ sở hữu mang tính chất phổ biến trong thời kỳ quá độ là chế độ sở hữu hỗn hợp với rất nhiều hình thức, trong đó nhà nước trực tiếp khống chế những cơ sở kinh tế nào đó của mọi loại hình sở hữu. Vì vậy, ngay cả một cơ sở kinh tế thuộc sở hữu toàn dân cũng có thể tồn tại và hoạt động được dưới hình thức sở hữu hỗn hợp, kể cả với tư bản nước ngoài trong đó nhà nước nắm địa vị khống chế. Thực hiện chế độ sở hữu hỗn hợp đa dạng chính là thực hiện dân chủ về mặt kinh tế trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Đây cũng chính là cơ sỏ cho việc thành lập những hình thức sở hữu hỗn hợp giữa nhà nước với tư bản trong và ngoài nước, và cũng là điều kiện để cho chủ nghĩa tư bản nhà nước được áp dụng thành công. 5. Kết quả thực hiện chủ nghĩa tư bản nhà nước thời Lê nin. Qua các tài liệu thì chính sách “ Kinh tế mới ” nói chung, chủ nghĩa tư bản nhà nước nói riêng đã đem lại cho nước Nga Xô Viết những kết quả nhất định, góp phần làm sống động nền kinh tế nước Nga - nền kinh tế đã bị suy sụp rất nhiều sau chiến tranh. Kết quả chủ yếu và quan trọng nhất là tình hình giai cấp nông dân đã được cải thiện một cách đáng kể. Từ chỗ đói kém, nông dân bất bình, dẫn đến bạo loạn vậy mà chỉ sau một năm nông dân chẳng những đã có đủ lương thực mà còn nộp thuế cho nhà nước hàng trăm triệu put. Nông dân đã hài lòng với tình hình của họ. Công nghiệp cũng đang trên đà phát triển, đời sống của công nhân đã được cải thiện, tình trạng bất mãn của công nhân không còn. Công nghiệp nặng tuy vẫn còn nhiều khó khăn song cũng đã có những bước phát triển nhất định. Tuy nhiên chính sách tô nhượng cho đến lúc ấy (1922) vẫn chưa có một tô nhượng sinh lợi nào trong công nghiệp nặng. Nhưng thông qua chính sách “ Kinh tế mới “ mà đã thu hút được một số vốn lớn hơn 20 triệu rúp vàng. Riêng về chủ nghĩa tư bản nhà nước, nhìn chung đã mang lại cho nước Nga những tác dụng tích cực. Nhờ tô nhượng với nước ngoài, nhiều ngành công nghiệp quan trọng (đặc biệt khai thác dầu) đã phát triển, nhiều kinh nghiệm tiên tiến, với kỹ thuật, thiết bị hiện đại của nền sản xuất lớn tư bản chủ nghĩa đã được đưa vào quá trình sản xuất, mang lại hiệu quả cao. Tô nhượng cùng các công ty hợp doanh đã góp phần phát triển sản xuất hàng hoá, tăng thêm dự trữ ngoại tệ cho đất nước, mở rộng các quan hệ liên doanh, liên kết kinh tế trong các lĩnh vực đầu tư sản xuất, chuyển giao công nghệ tiên tiến và phát triển ngoại thương với các nước tư bản phương Tây. Thông qua các hoạt động của các công ty hợp doanh, những người cộng sản Nga còn có thể thực sự học cách buôn bán, điều mà bấy giờ Lê nin thường nói là rất quan trọng. Hoạt động của các xí nghiệp cho thuê, các xí nghiệp hỗn hợp đã góp phần giúp nhà nước Xô Viết duy trì sự hoạt động sản xuất bình thường ở các cơ sở kinh tế, tăng thêm sản phẩm cho xã hội, việc làm cho người lao động. Hình thức đại lý thương nghiệp và các hợp tác xã tư bản chủ nghĩa trong các lĩnh vực sản xuất, tín dụng và tiêu thụ đã góp phần quan trọng trong việc hỗ trợ thương nghiệp xã hội chủ nghĩa, đẩy nhanh quá trình trao đổi và lưu thông hàng hoá tiền tệ, làm sống động nền sản xuất hàng hoá nhỏ, qua đó cải biến những người tiểu nông, nối liền quan hệ trao đổi công - nông nghiệp, thành thị - nông thôn. Chính bởi vậy, có thể nói chủ nghĩa tư bản nhà nước đã góp phần không nhỏ vào việc khôi phục và phát triển kinh tế nước Nga sau chiến tranh. Tuy nhiên, so với những mong muốn và mục tiêu mà Lê nin đặt ra thì những thành tựu của chủ nghĩa tư bản nhà nước đã đạt được ở Nga vẫn còn rất thấp. Điều đó do nhiều nguyên nhân gây nên trong đó có phần bởi chủ nghĩa tư bản đế quốc vẫn tìm mọi cách bóp chết chính quyền Xô Viết về mặt kinh tế nên sự hợp tác đầu tư không được như mong muốn. Với tư cách là một thành phần kinh tế song tỷ trọng của kinh tế tư bản nhà nước trong tổng sản phẩm của cả nước mới chỉ đạt khoảng 1% trong suốt giai đoạn 1923 - 1924. Năm 1923, các xí nghiệp tô nhượng mới sản xuất được khối lượng sản phẩm là 35,1 triệu rúp. Nhưng hiện thực đó cũng không thể phủ nhận tính đúng đắn của lý luận của Lê nin về chủ nghĩa tư bản nhà nước. Có thể nói lý luận đó trong hệ thống chính sách “ Kinh tế mới “ là một trong những di sản quý giá nhất mà Người để lại cho chúng ta. Và, nhờ chính sách “ Kinh tế mới ” mà chính quyền Xô Viết đã có những bước tiến vững chắc trong nông nghiệp và công nghiệp. Nông dân vừa lòng, công nghiệp cũng như thương nghiệp đang hồi sinh và phát triển. Vì vậy,việc nghiên cứu sâu sắc tư tưởng đó của Lê nin có ý nghĩa thiết thực đối với chúng ta, giúp chúng ta xác định rõ phương tiện cũng như con đường thực hiện định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta. II. Sự vận dụng lý luận của Lê nin về chủ nghĩa tư bản nhà nước vào nước ta hiện nay. 1. Sự cần thiết và khả năng sử dụng kinh tế tư bản nhà nước ở nước ta hiện nay. 1.1. Tính tất yếu khách quan của việc sử dụng hình thức kinh tế tư bản nhà nước ở nước ta hiện nay. Để thấy rõ tính khách quan của việc sử dụng hình thức kinh tế tư bản nhà nước ở nước ta hiện nay chúng ta cần phải nắm được đặc điểm cũng như trình độ của nền kinh tế nước ta. Có thể nói nền kinh tế nước ta là một nền kinh tế nông nghiệp lạc hậu với gần 80% dân số tham gia hoạt động nông nghiêp với kỹ thuật thô sơ là phổ biến. Công nghiệp nhỏ bé, thương nghiệp, giao thông vận tải và dịch vụ chưa phát triển. Hiện nay, Đảng và nhà nước ta đang lãnh đạo nhân dân ta tiến hành công cuộc đổi mới, công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước với mục đích đưa nước ta từ một nước nông nghiệp lạc hậu trở thành một nước công nghiệp tiên tiến, hiện đại, vững bước đi lên chủ nghĩa xã hội. Trong công cuộc đổi mới ấy, nền kinh tê nước ta cũng được chuyển đổi từ nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung quan liêu bao cấp sang nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường có sự điều tiết của nhà nước theo định hướng chủ nghĩa xã hội. Trong nền kinh tế nhiều thành phần ấy, Đảng ta đã xác định kinh tế tư bản nhà nước là một trong năm thành phần kinh tế cơ bản. Đó là một chủ trương đúng đắn, tất yếu của Đảng và nhà nước ta vì những nguyên nhân sau đây: Thứ nhất, như trên đã nói, nước ta đang trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, nền kinh tế nước ta là nền kinh tế nhiều thành phần, trong đó tất yếu tồn tại thành phần kinh tế tư bản tư nhân. Mặt khác, với chính sách khuyến khích tự do trao đổi hàng hoá, khuyến khích làm giàu chính đáng, tất yếu sẽ nảy sinh một tầng lớp tư sản mới. Không thể dùng sắc lệnh để loại bỏ được thành phần kinh tế này, cách tốt nhất là hướng nó vào con đường chủ nghĩa tư bản nhà nước. Như vậy, sự tồn tại của kinh tế tư bản nhà nước vừa mang tính tất yếu khách quan vừa như là một sách lược kinh tế của nhà nước ta để định hướng cho các thành phần kinh tế khác (tiêu biểu là thành phần kinh tế tư bản tư nhân) đi lên chủ nghĩa xã hội. Thứ hai,ở một nước mà nền tiểu sản xuất chiếm ưu thế như nước ta thì không thể trực tiếp xây dựng chủ nghĩa xã hội được. Do đó chúng ta phải sử dụng kinh tế tư bản nhà nước như một sách lược kinh tế. Hay nói cách khác chủ nghĩa tư bản nhà nước sẽ là mắt xích trung gian giữa nền tiểu sản xuất va chủ nghĩa xã hội, làm phương tiện, con đường, phương pháp phương thức để tăng lực lượng sản xuất. Lê nin đã từng nói: “ trong một nước tiểu nông trước hết các đồng chí phải bắc những chiếc cầu nhỏ vững chắc, đi xuyên qua chủ nghĩa tư bản nhà nước tiến lên chủ nghĩa xã hội ”. Sử dụng hình thức kinh tế tư bản nhà nước sẽ giúp chúng ta phát triển lực lượng sản xuất vì kinh tế tư bản nhà nước có ưu thế về vốn, kỹ thuật và công nghệ cũng như những kinh nghiệm và biện pháp quản lý kinh tế tiên tiến. Thông qua hình thức hơp tác, đầu tư với tư bản trong và ngoài nước, chúng ta sẽ thu hút được vốn, kỹ thuật công nghệ hiện đại.... Đặc biệt trong điều kiện cuộc cách mạng khoa học công nghệ đang diễn ra như vũ bão thì hình thức kinh tế tư bản nhà nước sẽ giúp chúng ta tránh khỏi nguy cơ bị tụt hậu. Bên cạnh đó, chúng ta còn học tập thêm được những phương pháp cũng như những kinh nghiệm quý báu của các nhà tư bản nước ngoài trong quản lý kinh tế. Đó là những tiền đề hết sức cần thiết để nước ta tiến hành thành công công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Như vậy, sử dụng kinh tế tư bản nhà nước không những là một tất yếu khách quan trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội mà còn là một biện pháp để chúng ta tăng cường phát triền lực lượng sản xuất, trên cơ sở đó phát triển nhanh nền kinh tế để đi lên chủ nghĩa xã hội. Thứ ba, việc sử dụng hình thức kinh tế tư bản nhà nước còn phù hợp với xu thế quốc tế hoá đang diễn ra trên toàn bộ thế giới và đặc biệt là khu vực Đông Nam á. Chúng ta sẽ không thể phát triển được nếu không mở rộng quan hệ kinh tế với các nước trong khu vực và trên thế giới kể cả các nước chủ nghĩa xã hội cũng như các nước tư bản chủ nghĩa. Vì vậy, sự hợp tác về kinh tế với các nước tư bản thông qua hình thữc kinh tế tư bản nhà nước là một tất yếu trong quá trình mở rộng sự hợp tác phát triển trên mọi lĩnh vực. Từ tất cả các điều trên có thể kết luận rằng ở nước ta hiện nay, việc sử dụng hình thức kinh tế tư bản nhà nước là một tất yếu khách quan. Sử dụng kinh tế tư bản nhà nước sẽ là điều kiện cần thiết để khắc chế tính tự phát trong sản xuất và chế độ sản xuất phân tán kém hiệu quả của kinh tế sản xuất nhỏ, nhằm khai thác tối đa tiềm năng để tập trung cho các nguồn lực hướng về mục tiêu kinh tế - xã hội cao nhất như công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước và các chương trình kinh tế lớn khác. Hơn nữa, tố chất cạnh tranh vốn có của hình thái kinh tế tư bản chủ nghĩa sẽ như chất xúc tác cho một môi trường kinh tế cạnh tranh sôi động, giúp cho tất cả các thành phần kinh tế trong xã hội có một sự nhận thức về bản thân mình đúng hơn, ý thức hơn về nhu cầu tồn tại trong phát triển xã hội, và do đó sẽ đáp ứng sản phẩm tốt hơn cho người tiêu dùng. Một hệ quả hết sức quan trọng của sự phối hợp kinh tế trong nước với nhau và trong nước với nước ngoài là sự giao lưu và tăng trưởng trí tuệ, kiến thức xã hội và do đó thúc đẩy mặt bằng học vấn kinh tế xã hội được nâng cao. Chính vì tất cả những lý do trên mà Đảng và Nhà nước ta đã áp dụng một cách rộng rãi, phổ biến các hình thức kinh tế tư bản nhà nước để phát triển lực lượng sản xuất theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ VIII viết: “ Kinh tế tư bản nhà nước bao gổm các hình thức hợp tác liên doanh giữa kinh tế nhà nước với tư bản tư nhân trong nước và hợp tác liên doanh giữa kinh tế nhà nước với tư bản nước ngoài. Kinh tế tư bản nhà nước có vai trò quan trọng trong việc động viên tiềm năng to lớn về vốn, công nghê, khả năng tổ chữc quản lý.... của các nhà tư bản vì lợi ích của bản thân họ, cũng như của công cuộc xây dựng và phát triển đất nước... ”. 2.1. Những khả năng sử dụng hình thức kinh tế tư bản nhà nước ở nước ta. Như vậy, qua phần phân tích trên ta thấy rõ tính tất yếu của việc sử dụng hình thức kinh tế tư bản nhà nước ở nước ta. Nhưng chúng ta sẽ vận dụng như thế nào? Liệu nước ta có đủ điều kiện và khả năng để sử dụng hình thức kinh tế tư bản nhà nước hay không? Lý luận của Lê nin đã chỉ rõ, để sử dụng có hiệu quả chủ nghĩa tư bản nhà nước thì trước hết, chính quyền nhà nước phải nằm trong tay giai cấp công nhân. ở nước ta hiện nay, Đảng Cộng sản - Đảng tiên phong của giai cấp công nhân và nhân dân lao động đang giữ vai trò lãnh đạo. Toàn thể nhân dân ta đều tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng và đang nỗ lực phấn đấu để đưa đất nước ta tiến lên chủ nghĩa xã hội. Có thể nói, đây là điều kiện đầu tiên quan trọng nhất để sử dụng chủ nghĩa tư bản nhà nước. Thứ hai, về mặt kinh tế, nước ta đã chuyển từ nền kinh tế kế hoạch hoá quan liêu bao cấp sang nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường có sự điều tiết của nhà nước. Đây là một điều kiện rất quan trọng để phát triển kinh tế tư nhân trong nước cũng như nước ngoài trên cơ sở đó vận dụng các hình thức kinh tế tư bản nhà nước như: liên doanh, liên kết giữa nhà nước và tư bản tư nhân trong nước và liên doanh, liên kết giứa nhà nước và tư bản tư nhân nước ngoài.... Thứ ba, về mặt luật pháp, chúng ta đã ban hành và đang tiếp tục hoàn thiện hành lang pháp lý về thành phần kinh tế tư nhân trong nước, liên doanh giữa nhà nước và kinh tế tư bản tư nhân trong nước, về đầu tư nước ngoài cũng như liên doanh giữa nhà nước và nước ngoài.... Không những thế, những xu thế quốc tế hiện nay cũng tạo cho nước ta những thuận lợi nhất định. Trước hết, đó là xu thế hoà bình, hợp tác quốc tế trên cơ sở hai bên cùng có lợi. Khác với thời kỳ chiến tranh lạnh trước kia, ngày nay, Việt Nam mong muốn làm bạn với tất cả các nước, cùng hợp tác trong mọi lĩnh vực, đặc biệt là kinh tế. Đây không chỉ là mong muốn của nước ta mà đã là sách lược của tất cả các nước trong khu vực và hầu hết các nước trên thế giới. Xu thế này tạo điều kiện rất thuận lợi để chúng ta kêu gọi, thu hút các nguồn vốn đầu tư nước ngoài. Cùng với xu thế hợp tác là xu thế quốc tế hoá. Quá trình quốc tế hoá đang diễn ra hết sức mạnh mẽ trong khu vực cũng như toàn thế giới tác động rất mạnh mẽ đến nền kinh tế nước ta. Trong thời đại ngày nay, không một quốc gia nào có thể tồn tại độc lập, riêng rẽ mà phải nằm trong mối quan hệ với các quốc gia khác, đặc biệt là trong lĩnh vực kinh tế. Có thể nói nền kinh tế của một quốc gia ngày nay nằm trong mối quan hệ chặt chẽ với nền kinh tế thế giới, nền kinh tế toàn cầu. Chính vì vậy, kinh tế tư bản nhà nước đặc biệt là liên kết giữa nhà nước và tư bản nước ngoài sẽ tạo điều kiện để nước ta gia nhập và là một bộ phận trong nền kinh tế đó để tránh khỏi nguy cơ tụt hậu. Như vậy, nước ta có đầy đủ khả năng và điều kiện để vận dụng chủ nghĩa tư bản nhà nước kể c

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc50175.doc
Tài liệu liên quan