Tiểu luận Thâm hụt ngân sách nhà nước ở Việt Nam: Thực trạng và giải pháp

MỤC LỤC

Trang

A – LỜI MỞ ĐẦU 1

B – NỘI DUNG 2

Chương I: KHÁI NIỆM VỀ THÂM HỤT NGÂN SÁCH 2

I – KHÁI NIỆM NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC & THÂM HỤT NGÂN SÁCH 2

1. Ngân sách nhà nước 2

2. Thâm hụt ngân sách nhà nước 3

3. Phân loại thâm hụt NSNN 4

II – NGUYÊN NHÂN GÂY THÂM HỤT NGÂN SÁCH 5

III – TÁC ĐỘNG CỦA THÂM HỤT NGÂN SÁCH ĐỐI VỚI NỀN KINH TẾ 5

1. Thâm hụt ngân sách và vấn đế thoái lui đầu tư 5

2. Thâm hụt NSNN – một trong những nguyên nhân gây ra lạm phát 6

3. Tác động của thâm hụt ngân sách tới cán cân thương mại 6

Chương II: THỰC TRẠNG THÂM HỤT NGÂN SÁCH

VIỆT NAM 8

I – THỰC TRẠNG THÂM HỤT NGÂN SÁCH Ở NƯỚC TA TRONG

NHỮNG NĂM GẦN ĐÂY (2000 – 2010) 8

II – BỘI CHI NGÂN SÁCH VÀ MỐI LIÊN HỆ ĐẾN LẠM PHÁT VÀ

MẤT CÂN ĐỐI VĨ MÔ 10

Chương III: GIẢI PHÁP CHO VẤN ĐỀ THÂM HỤT NGÂN

SÁCH VIỆT NAM 18

I – CÁC BIỆN PHÁP GIẢM THÂM HỤT NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC 18

1. Biện pháp tăng thu giảm chi 18

2. Vay nợ trong nước 22

3. Vay nợ nước ngoài 23

4. Sử dụng dự trữ ngoại tệ 24

5. Phát hành tiền 25

II – NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA TRONG VIỆC XỬ LÝ THÂM

HỤT NSNN Ở VIỆT NAM VÀ KIẾN NGHỊ 26

1. Những vấn đề đặt ra trong việc xử lý thâm hụt ngân sách

NSNN ở Việt Nam 26

2. Kiến nghị 29

C – KẾT LUẬN 30

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 32

 

doc35 trang | Chia sẻ: leddyking34 | Lượt xem: 25516 | Lượt tải: 4download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tiểu luận Thâm hụt ngân sách nhà nước ở Việt Nam: Thực trạng và giải pháp, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ở mức cao. Ngoài ra, những khoản chi ngoài ngân sách trong mấy năm gần đây lên tới 20 – 25 % tổng ngân sách. Một tỉ quá cao. Tuy nhiên, theo một số chuyên gia và tổ chức kinh tế trên thế giới thì những con số trên còn lớn hơn nhiều. Cụ thể, theo chuyên gia tư vấn quốc tế Jitendra Modi thì tỉ lệ thâm hụt ngân sách ở Việt Nam năm 2007 phải là 6.9% GDP thay vì con số xấp xỉ 5% GDP như báo cáo của Chính phủ đã trước Quốc hội. Trong cuộc họp Hội nghị Nhóm tư vấn cho Việt Nam được tổ chức tại Kiên Giang, thì đại diện của Quỹ Tiền tệ quốc tế IMF cho biết mức thâm hụt năm 2009 đã lên tới 9% GDP, theo cách tính của IMF. Tỷ lệ này cao hơn nhiều so với mức Việt Nam công bố chỉ là 6,9% GDP. Đối với IMF, rõ ràng đó là một mức thâm hụt "lớn" và "không bền vững". Mức chênh lệch giữa 2 cách tính gần 2% GDP nếu quy đổi ra con số tuyệt đối sẽ lên đến hàng nghìn tỷ đồng – một con số quá lớn trong điều kiện phải kiểm soát và thắt chặt chi tiêu như hiện nay. Tình hình thâm hụt ngân sách ở Việt Nam hiện nay đang diễn ra hết sức phức tạp. Dưới đây là biểu đồ so sánh thâm hụt ngân sách của Việt Nam và một số nước trong khu vực (2001 - 2007) Thâm hụt ngân sách của Việt Nam và một số nước (2001 - 2007) Nguồn: Ngân hàng Phát triển châu Á (ADB) Biểu đồ cho thấy tình trạng thâm hụt ở nước ta có xu hướng ngày càng gia tăng và cao hơn các nước trong khu vực. II – BỘI CHI NGÂN SÁCH VÀ MỐI LIÊN HỆ ĐẾN LẠM PHÁT VÀ MẤT CÂN ĐỐI VĨ MÔ: Thâm hụt ngân sách và lạm phát cùng mất cân đối vĩ mô có mối quan hệ mật thiết với nhau.Nguyên nhân của lạm phát cao về cơ bản có một phần quan trọng là do chính sách tài khóa quá lỏng lẻo mà thể hiện cụ thể qua mức thâm hụt NSNN tăng liên tục qua các năm. Giai đoạn trước năm 1986, tình hình tài chính nước ta trong tình trạng yếu kém, thu không đủ chi thường xuyên, thâm hụt NSNN cao quá mức, chi tiêu Chính phủ chủ yếu nhờ vào sự viện trợ của nước ngoài là chính. Đến giai đoạn từ năm 1986-1990, trước tình hình khó khăn về kinh tế và chính trị, Liên Xô và các nước XHCN Đông Âu đã cắt giảm dần viện trợ của họ cho nước ta. Trước tình hình khó khăn đó, Đảng ta tiến hành đổi mới cơ chế quản lý kinh tế, chuyển từ cơ chế kế hoạch hoá tập trung quan liêu, bao cấp sang cơ chế thị trường có định hướng XHCN. Với những bước đi chập chững ban đầu, chính sách tài chính đã có đổi mới một bước. Tuy nhiên, thu NSNN càng không đủ chi và bù đắp thâm hụt NSNN không chỉ phải vay trong và ngoài nước mà còn phải lấy từ nguồn tiền phát hành. Chính yếu kém về NSNN nêu trên, là một yếu tố quan trọng gây nên lạm phát trong thập kỉ 80 của thế kỉ XX. Chi NSNN đã tăng cao tới mức bùng nổ ở trong những năm 1985-1988, đã gây ra thâm hụt NSNN trầm trọng vì không có sự tăng lên tương ứng về số thu. Giai đoạn từ năm 1986 – 1990, khi mà tỷ lệ tích luỹ nội bộ nền kinh tế rất thấp (có thể nói là không đáng kể), làm không đủ ăn thì tỷ lệ chi đầu tư phát triển như ở đồ thị 1 là quá lớn và nguồn bù đắp cho thâm hụt NSNN lại chủ yếu do tiền phát hành thì lạm phát cao là điều khó tránh khỏi. Đồ thị 1: Tổng bội chi NSNN và tiền phát hành để bù đắp bội chi NSNN (1985 – 1990) Đơn vị: Tỷ đồng Nguồn: Bộ Kế hoạch và Đầu tư Trong thời gian 5 năm 1986 – 1990, mức thâm hụt này một phần được hệ thống Ngân hàng thanh toán bằng cách phát hành tiền cụ thể qua bảng sau: Mức phát hành tiền để bù đắp thâm hụt NSNN (1984 – 1990) Đơn vị: Tỷ đồng Năm Mức phát hành tiền để bù đắp thâm hụt NSNN 1984 0.4 1985 9.3 1986 22.9 1987 89.2 1988 450 1989 1655 1990 1200 Nguồn: Bộ Kế hoạch và Đầu tư Số còn lại được bù đắp bằng các khoản vay nợ và viện trợ của nước ngoài và một số nhỏ do các khoản thu từ bán công trái trong nước. Tỉ lệ % các khoản vay nợ và viện trợ nước ngoài so với thâm hụt (1984 – 1990) Đơn vị: % Năm Tỉ lệ % các khoản vay nợ và viện trợ so với thâm hụt 1984 71.3 1985 40.8 1986 38.4 1987 32.1 1988 32.6 1989 24.9 1990 46.7 Mặc dù có nhiều cố gắng đáng kể trong năm 1989, nhưng tình trạng thiếu hụt NSNN vẫn trầm trọng. Tổng chi đã tăng gấp đôi so với năm 1988, một phần do lạm phát chuyển từ năm 1988 sang và đã làm tăng giá đáng kể một số mặt hàng và dịch vụ thiết yếu do Nhà nước cung cấp. Tất cả những phân tích ở trên cho thấy, có nhiều nguyên nhân gây ra lạm phát cao trong giai đoạn từ năm 1986-1990, trong đó có việc bù đắp thâm hụt NSNN bằng sự phát hành tiền như ở đồ thị 1. Bước vào giai đoạn từ năm 1991-1995, tình hình đất nước đã có nhiều chuyển biến tích cực, sản xuất và lưu thông hàng hoá đã có động lực mới, tình trạng thiếu lương thực đã được giải quyết căn bản, lạm phát siêu mã đã được đẩy lùi, nhưng lạm phát cao vẫn còn. Cơ cấu chi NSNN đã dần dần thay đổi theo hướng tích cực. Nguồn thu trong nước đã đủ cho chi thường xuyên, tình trạng đi vay hoặc dựa vào phát hành cho chi thường xuyên đã chấm dứt. Trong giai đoạn này, chi đúng đối tượng, có hiệu quả, thúc đẩy phát triển kinh tế – xã hội được đặt ra. Nhờ những giải pháp trên, số thâm hụt NSNN đã giảm dần qua từng năm và được bù đắp bằng vay của dân và vay nước ngoài. Trong giai đoạn từ năm 1991-1995, tỷ lệ thâm hụt NSNN so với GDP chỉ ở mức 1,4% đến 4,17% (1991: 1,4%, 1992:1,5%, 1993: 3,9%, 1994: 2,2% và năm 1995 là 4,17%). Như vậy, có thể thấy thâm hụt NSNN trong những năm 1991-1995 là rất thấp, thể hiện chính sách thắt chặt chi tiêu của Chính phủ trong thời kỳ này và đây cũng là yếu tố rất quan trọng góp phần kiềm chế lạm phát. Giai đoạn từ năm 1996-2000, tình hình thu chi NSNN đã có nhiều chuyển biến tích cực, thu không những đủ chi thường xuyên mà còn cho đầu tư phát triển, thâm hụt NSNN được khống chế ở mức thấp. Tuy nhiên, giai đoạn từ năm 1996-2000, do tác động của khủng hoảng tài chính ở các nước Đông Nam Á nên nền kinh tế có gặp không ít khó khăn. Tốc độ tăng trưởng kinh tế giảm dần từ năm 1996 đến năm 1999 và đến năm 2000, tốc độ này mới tăng lên chút ít, chặn đứng đà giảm sút. Trong những năm này, tỷ lệ thâm hụt NSNN ở mức từ 3,0% GDP năm 1996 lên 4,95% GDP năm 2000 (năm 1996: 3%, năm 1997: 4,05%, năm 1998: 2,49%, năm 1999: 4,37%, năm 2000: 4,95%). Tỷ lệ thâm hụt bình quân 5 năm là 3,87% GDP, cao hơn mức bình quân năm 1991-1995 (2,63%). Năm 2000 có mức thâm hụt cao nhất là 4,95% GDP và năm 1998 có mức thâm hụt thấp nhất là 2,49%. Đây là thời kỳ suy thoái và thiểu phát, nên mức thâm hụt NSNN như trên không tác động gây ra lạm phát mà có tác động làm cho nền kinh tế chuyển sang giai đoạn đi lên. Giai đoạn từ năm 2001-2007, NSNN cũng đã có chuyển biến đáng kể. Tốc độ tăng thu hằng năm bình quân là 18,8%. Tốc độ tăng chi bình quân hằng năm đạt 18,5%. Thâm hụt NSNN trong giai đoạn này về cơ bản đuợc cân đối ở mức 5% GDP và thực hiện ở mức 4,9%-5% GDP. Nếu chỉ xét ở tỷ lệ so với GDP, cũng thấy thâm hụt NSNN trong 7 năm trở lại đây tăng cao hơn các năm trước đó khá nhiều (bình quân khoảng 4,95% GDP) vì giai đoạn năm 1991-1995, mức thâm hụt NSNN so với GDP chỉ ở mức 2,63% và giai đoạn từ năm 1996-2000 ở mức 3,87% so với GDP. Thực tế trong các năm qua, từ năm 2001 đến nay, tốc độ tăng thâm hụt NSNN là khá cao, ở mức 17-18%/ năm. Tốc độ này nếu trừ đi yếu tố tăng trưởng thì còn cao hơn tỷ lệ lạm phát hằng năm (năm 2001: 0,2%; năm 2002: 1,6%; năm 2003: 9,7%; năm 2004: 8,1%; năm 2005: 9,0%; năm 2006: 11,1%; năm 2007: 7,8%). Đồ thị 2: Bội chi NSNN so với GDP Đơn vị: % Nguồn: Bộ Tài chính Nếu chỉ xem xét thâm hụt NSNN so với GDP thì chưa thấy hết sự tăng lên của nó trong những năm gần đây; đặc biệt những năm gần đây, ngoài NSNN được cân đối, đã có một lượng vốn lớn được đưa ra đầu tư các công trình giao thông và thuỷ lợi thông qua hình thức phát hành trái phiếu Chính phủ không cân đối vào NSNN. Ngoài ra, phải kể đến lượng công trái giáo dục được phát hành để thu hút tiền cho đầu tư kiên cố hoá trường lớp học cũng là một lượng tiền lớn cân đối ngoài NSNN. Nếu cộng cả hai loại trên vào cân đối NSNN, thâm hụt NSNN trong những năm qua không phải chỉ 5% GDP mà cao hơn (khoảng 5,8-6,2% GDP). Thực tế trong những năm gần đây, mặc dù chúng ta đã kiểm soát thâm hụt NSNN từ hai nguồn là vay nước ngoài và vay trong nước nên sức ép tăng tiền cung ứng thêm ra thị trường là không có, nhưng sức ép tăng chi tiêu của Chính phủ cho tiêu dùng thường xuyên và cho đầu tư là tăng lên. Có thể thấy, chính sách tài khoá trong những năm qua có phần nới lỏng như những năm chúng ta đang phải kích cầu đầu tư. Nếu so sánh tổng chi NSNN so với GDP trong những năm qua cho thấy, NSNN đã chi một khối lượng lớn tiền tệ không chỉ ở số tuyệt đối mà cả ở số tương đối. Như trên đã phân tích, thâm hụt NSNN tăng cao thể hiện chính sách tài khoá lỏng lẻo, nói lên sự chi tiêu của Chính phủ cho đầu tư và thường xuyên vượt quá mức có thể của nền kinh tế. Nếu như bù đắp thâm hụt NSNN bằng phát hành thêm tiền thì trực tiếp tác động gây ra lạm phát, vì đã làm tăng cung tiền tệ nhiều hơn cầu tiền tệ trên thị trường như giai đoạn từ năm 1986-1990. Tuy nhiên, việc bù đắp thâm hụt NSNN bằng nguồn huy động từ bên ngoài và từ trong nước về cơ bản, cũng tăng cung tiền vào thị trường trong nước. Điều này, có thể giải thích là do phần huy động từ vay nước ngoài đã làm tăng cung lượng tiền vào thị trường trong nước, vì số tiền vay nước ngoài về để bù đắp thâm hụt NSNN phải đổi ra VND để chi tiêu trên cơ sở bán cho NHNN là chính, mà NHNN lại phát hành tiền ra để mua ngoại tệ là cơ bản. Đây chính là phần làm cho lạm phát tăng lên nếu lượng vay từ bên ngoài vào bù đắp thâm hụt NSNN quá lớn. Thực tế trong những năm qua, lượng vay tiền từ bên ngoài vào bù đắp thâm hụt NSNN chiếm khoảng 1/3 số thâm hụt, tức là khoảng 1,5%-1,7% so với GDP. Nếu cộng thêm cả phần vay về cho vay lại, lượng tiền từ bên ngoài vào nền kinh tế nước ta qua bù đắp thâm hụt NSNN khoảng 2%-2,5% GDP. Đây chính là một nguyên nhân gây ra lạm phát cao của nước ta trong năm 2007 và các tháng đầu năm 2008. Qua đồ thị 3 cho thấy, chi NSNN đã tăng từ 27% GDP năm 2001 lên 40,4% năm 2007 là một con số khá lớn trong chi tiêu của Chính phủ. Đồ thị 3: Chi NSNN so với GDP từ 2001 – 2007 (Đơn vị: %) Nguồn: Bộ Tài chính Còn phần bù đắp thâm hụt NSNN từ nguồn vay trong dân về cơ bản, chỉ thu tiền từ trong lưu thông vào NSNN và sau đó, lại chuyển ra lưu thông nên không làm tăng lượng tiền cơ bản trên thị trường mà chỉ làm cho vòng quay tiền tệ có thể tăng nhanh hơn, tạo ra hệ số nở tiền cao hơn mức cần thiết. Điều này, cũng tạo ra tăng cung tiền tệ do vòng quay tiền tệ lớn, có tạo ra tác động một phần gây ra lạm phát, nhưng không lớn bằng trực tiếp phát hành tiền ra và vay vốn từ bên ngoài để bù đắp thâm hụt NSNN. Nhìn lại quá trình những năm trước đây có thể thấy, chúng ta đã thực hiện một chính sách tài khoá lỏng lẻo thể hiện tỷ lệ thâm hụt NSNN bằng khoảng 5% GDP hằng năm, cộng với đó là phát hành trái phiếu, công trái giáo dục cho đầu tư. Hơn nữa, chúng ta cũng đã có lúc phát hành tiền ra để kích cầu đầu tư, đầu tư cho một số công trình lớn, phát hành tiền cho một số công việc… mà chưa thống kê hết. Đây chính là sự tích tụ tiền tệ các năm trước đó góp một phần làm cho lượng tiền tệ trong lưu thông tăng cao, thể hiện ở tốc độ tăng hệ số tạo tiền của nền kinh tế nước ta tăng trên 10% hằng năm và tăng 79,2% năm 2007 so với năm 2001, trong khi cũng chỉ tiêu này các nước chỉ tăng 1-3%/năm và tăng 10%-15% năm 2007 so với năm 2001. Việc gia tăng thâm hụt ngân sách sẽ có thể dẫn đến giảm tiết kiệm nội địa, giảm đầu tư tư nhân, hay gia tăng thâm hụt cán cân tài khoản vãng lai. Ở Việt Nam, mặc dù thâm hụt ngân sách tăng đột biến trong năm 2007 chưa làm suy giảm tiết kiệm nội địa và đầu tư tư nhân nhưng nó đã làm tăng mức thâm hụt tài khoản vãng lai, từ -0,5% năm 2006 lên tới -8% năm 2007. Thâm hụt ngân sách cao và kéo dài còn làm xói mòn niềm tin đối với năng lực điều hành vĩ mô của chính phủ. Nó cũng làm tăng mức lạm phát kỳ vọng của người dân và của các nhà đầu tư vì họ cho rằng Chính phủ trước sau gì cũng sẽ phải in thêm tiền để tài trợ thâm hụt. Tóm lại, thâm hụt ngân sách cao kéo dài sẽ đe dọa sự ổn định vĩ mô, và do vậy, khả năng duy trì tốc độ tăng trưởng nhanh và bền vững của nền kinh tế. Chương III GIẢI PHÁP CHO VẤN ĐỀ THÂM HỤT NGÂN SÁCH VIỆT NAM I – CÁC BIỆN PHÁP GIẢM THÂM HỤT NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC: Để khắc phục tình trạng thâm hụt ngân sách, tùy theo bối cảnh, tình hình kinh tế từng nước mà người ta có thể sử dụng một, hai hay nhiều biện pháp cùng kết hợp với nhau như: Tăng thu giảm chi Vay nợ trong nước Vay nợ ngoài nước Sử dụng dự trữ ngoại tệ Phát hành tiền Trong đó biện pháp thứ nhất thường bị coi là khá “bảo thủ” vì nó nhằm vào việc các giảm chi tiêu. Do đó, biện pháp này sẽ bị các ban ngành, địa phương hoặc đơn vị có ngân sách dự kiến bị cắt giảm lên tiếng phàn đối, cản trở hoặc tìm cách gian lận, đồng thời tổng nhu cầu xã hội cũng bị co hẹp lại. Trong khi ngược lại, ba biện pháp còn lại được xem như là những biện pháp “cấp tiến” vì nó không trực tiếp cắt giảm quyền lợi của bất kỳ bộ phận nào trong xã hội. Mặt khác nó lại hướng vào việc tăng nguồn tài chính cho nên khá dễ triển khai. Sau đây chúng ta sẽ đi vào phân tích từng biện pháp cụ thể để thấy được ưu điểm cũng như nhược điểm của từng biện pháp và biện pháp nào sẽ mang lại hiệu quả cao hơn? Biện pháp tăng thu giảm chi: Đây là biện pháp mà Chính phủ bằng những quyền hạn và nhiệm vụ được giao, tính toán hợp lý để tăng các khoản thu như thu từ Thuế.... và cắt giảm chi tiêu. Tuy vậy, vấn đề đặt ra là phải tính toán số tăng thu và giảm chi thế nào để gây ảnh hưởng ít nhất đến tăng trưởng kinh tế. Đặt trong bối cảnh chống lạm phát nên chính sách ngân sách (hay chính sách tài khóa) của Chính phủ trong thời gian qua chỉ hướng đến mục đích giảm chi tiêu công (gồm đầu tư công và chi thường xuyên) và qua đó giảm tổng cầu. Cụ thể là Chính phủ chỉ thị: (i) Cắt giảm nguồn đầu tư từ ngân sách và tín dụng nhà nước; (ii) Rà soát và cắt bỏ các hạng mục đầu tư kém hiệu quả của doanh nghiệp nhà nước (DNNN); (iii) Cắt giảm chi thường xuyên của bộ máy nhà nước các cấp. Tổng đầu tư của Nhà nước (từ ngân sách, tín dụng nhà nước và thông qua DNNN) luôn chiếm trên dưới 50% tổng đầu tư của toàn xã hội. Vì vậy, không nghi ngờ gì, nếu Nhà nước có thể cắt giảm một số khoản đầu tư kém hiệu quả và có thứ tự ưu tiên thấp thì sức ép gia tăng lạm phát chắc chắn sẽ nhẹ đi. Cũng tương tự như vậy, lạm phát cũng sẽ được kiềm chế bớt nếu các cơ quan nhà nước có thể cắt giảm chi thường xuyên (chiếm 56% tổng chi ngân sách năm 2007). Cấu trúc đầu tư toàn xã hội (1995 - 2007) Nguồn: GSO, MPI Mặc dù chính sách cắt giảm chi tiêu công là hoàn toàn đúng đắn, song hiệu lực của những biện pháp cụ thể đến đâu thì còn chưa chắc chắn vì ít nhất có bốn lý do: Thứ nhất, việc cắt giảm, thậm chí giãn tiến độ đầu tư công không hề dễ dàng, nhất là khi những dự án này đã được các cơ quan lập pháp các cấp quyết định; đã được đưa vào quy hoạch của các bộ, ngành, địa phương; đã được triển khai; và nhất là khi chúng gắn với lợi ích thiết thân của những cơ quan liên quan đến dự án. Thứ hai, Nhà nước hầu như không thể kiểm soát các khoản đầu tư của các doanh nghiệp nhà nước (DNNN), một mặt là do chính sách phân cấp trong quản lý đầu tư, và mặt khác là do một số tập đoàn lớn đã tự thành lập ngân hàng riêng. Thứ ba, với tốc độ lạm phát như hiện nay thì chỉ cần giữ được tổng mức đầu tư công theo đúng dự toán cũng đã được coi là một thành tích đáng kể. Thứ tư, kinh nghiệm quốc tế cho thấy rằng vì việc giảm chi thường xuyên rất khó khăn nên đây thường là hạng mục cuối cùng nằm trong danh sách cắt giảm. Hơn thế, với thực tế ở Việt Nam thì phạm vi chi thường xuyên có thể cắt giảm không nhiều. Đầu tiên là phải trừ đi quỹ lương (chiếm khoảng 2/3 tổng chi thường xuyên), sau đó phải trừ đi các khoản phụ cấp có tính chất lương, chi chính sách chế độ, tiền đóng niêm liễn cho các tổ chức quốc tế, các khoản chi thường xuyên đã được thực hiện… Theo ước lượng của Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư thì nếu làm thật quyết liệt thì sẽ giảm được khoảng 3.000 tỉ đồng chi hội họp và mua sắm xe - tức là giảm được khoảng 0,8% tổng chi ngân sách. Giảm thâm hụt ngân sách bằng cơ chế quản lý đầu tư công Chính sách giảm tổng cầu thông qua thắt chặt chi tiêu công là đúng đắn, cần thiết nhưng chưa đủ. Nỗ lực giảm chi tiêu công của Chính phủ chỉ thực sự có hiệu lực nếu như Chính phủ đồng thời có cơ chế để đảm bảo những khoản đầu tư còn lại có hiệu quả. Đầu tiên là phải có cơ chế quản lý đầu tư công sao cho những dự án kém hiệu quả (như chương trình 5 triệu tấn đường hay đánh bắt xa bờ) bị loại bỏ ngay từ đầu. Sau đó, phải đảm bảo dự án được tiến hành đúng tiến độ và không bị thất thoát, lãng phí (như dự án 112 và các dự án đầu tư xây dựng cơ bản - được ước lượng là thất thoát trung bình 30%). Một trong những biện pháp có thể được sử dụng để cải thiện cơ chế quản lý đầu tư công là thành lập một hội đồng thẩm định đầu tư công độc lập. Một nguyên nhân quan trọng của tình trạng thất thoát, lãng phí trong đầu tư công là do quá trình ra quyết định đầu tư của chính quyền địa phương và các bộ ngành chủ quản chịu ảnh hưởng của các nhóm lợi ích và do vậy thiếu khách quan. Vì vậy, nhiệm vụ của ủy ban độc lập này là đánh giá, thẩm định một cách toàn diện và khách quan các dự án có quy mô vượt quá một quy mô đầu tư nhất định nào đó. Kết luận của Hội đồng thẩm định này sau đó được công bố rộng rãi. Tương tự như vậy, báo cáo kiểm toán các DNNN và dự án đầu tư công lớn cũng phải được công khai. Để thu hẹp thâm hụt ngân sách thì song song với việc giảm chi tiêu, Chính phủ cũng cần cải thiện các nguồn thu ngân sách, tránh tình trạng ngân sách phụ thuộc quá nhiều (tới hơn 40%) vào các nguồn thu không bền vững từ dầu mỏ và thuế nhập khẩu như hiện nay. Khi Việt Nam gia nhập WTO thì hàng rào thuế quan và phi thuế quan thì việc cắt giảm thuế nhập khẩu theo các cam kết WTO và tham gia các khu vực mậu dịch tự do sẽ ảnh hưởng nhiều đến nguồn thu ngân sách. Điều này cũng dễ hiểu khi số thu thuế xuất nhập khẩu của Việt Nam hiện chiếm một tỷ trong khá lớn so với các nước đang phát triển; khoảng 13% tổng thu ngân sách từ phí và lệ phí. Bộ Tài chính đã dự tính, việc cắt giảm thuế sẽ làm giảm khoảng 10% số thu từ hoạt động xuất nhập khẩu. Bên cạnh đó, dưới tác động gián tiếp của cắt giảm thuế, tính ổn định và bền vững của thu ngân sách sẽ bị ảnh hưởng. Số thu từ khu vực kinh tế trong nước, nhất là từ các doanh nghiệp nhà nước sẽ bị ảnh hưởng mạnh do tác động của cạnh tranh quốc tế và quá trình cải cách doanh nghiệp. Bên cạnh đó, sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế và những thay đổi thị trường trong quá trình hội nhập cũng sẽ thay đổi nguồn thu. Cải cách thuế, đặc biệt là thuế thu nhập cá nhân (hiện chiếm 2% tổng ngân sách của Việt Nam trong khi con số này ở các nền kinh tế hiện đại đều lớn hơn 20%) và thuế bất động sản. Thật bất công và kém hiệu quả khi nhiều người sau một đêm trở thành triệu phú nhờ vào việc Nhà nước đầu tư cơ sở hạ tầng (CSHT) tại nơi họ có bất động sản, trong khi lại không phải đóng góp gì cho ngân sách nhà nước. Áp dụng thuế bất động sản đúng đắn là một cách đảm bảo sự bền vững cho ngân sách nhà nước, đồng thời giúp Nhà nước thực hiện được các chương trình đầu tư CSHT vì quốc kế dân sinh. Vay nợ trong nước: Vay nợ trong nước được Chính phủ thực hiện dưới hình thức phát hành công trái, trái phiếu. Công trái, trái phiếu là những chứng chỉ ghi nhận nợ của nhà nước, là một loại chứng khoán hay trái khoán do nhà nước phát hành để vay các dân cư, các tổ chức kinh tế - xã hội và các ngân hàng. Ở Việt Nam, Chính phủ thường uỷ nhiệm cho Kho bạc nhà nước phát hành trái phiếu dưới các hình thức: tín phiếu kho bạc; trái phiếu kho bạc; trái phiếu công trình. Năm Số tiền vay trong nước để bù đắp thâm hụt NSNN (đơn vị tính: tỷ đồng) 2000 15,370 2002 18,382 2003 22,895 2004 27,450 2005 32,420 2006 36,000 2007 43,000 2008 51,200 2009 88,520 2010 (ƯTH lần 1) 39,060 Ưu điểm: Đây là biện pháp cho phép Chính phủ có thể duy trì việc thâm hụt ngân sách mà không cần phải tăng cơ sở tiền tệ hoặc giảm dự trữ quốc tế. Vì vậy, biện pháp này được coi là một cách hiệu quả để kiềm chế lạm phát. Hạn chế: Việc tài trợ thâm hụt ngân sách nhà nước bằng nợ tuy không gây ra lạm phát trước mắt nhưng nó lại có thể làm tăng áp lực lạm phát trong tương lai nếu như tỷ lệ nợ trong GDP liên tục tăng. Thứ nữa, việc vay từ dân trực tiếp sẽ làm giảm khả năng của khu vực tư nhân trong việc tiếp cận tín dụng và gây sức ép làm tăng lãi suất trong nước. Đặc biệt, ở những nước trải qua giai đoạn lạm phát cao (như nước ta hiện nay), giá trị thực của trái phiếu chính phủ giảm nhanh chóng, làm cho chúng trở nên ít hấp dẫn. Chính phủ có thể sử dụng quyền lực của mình để buộc các chủ thể khác trong nền kinh tế phải giữ trái phiếu, tuy nhiên, nếu việc này có dài có thể gây ảnh hướng nghiêm trọng đến uy tín của Chính phủ và khiến cho việc huy động vốn thông qua kênh này sẽ trở nên khó khăn hơn vào các năm sau. Vay nợ nước ngoài: Chính phủ có thể tài trợ thâm hụt ngân sách bằng các nguồn vốn nước ngoài thông qua việc nhận viện trợ nước ngoài hoặc vay nợ nước ngoài từ các chính phủ nước ngoài, các định chế tài chính thế giới như Ngân hàng Thế giới (WB – World Bank), Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF – International Monetary Fund), Ngân hàng Phát triển Châu Á (ADB – Asian Development Bank), các tổ chức liên chính phủ, tổ chức quốc tế... Viện trợ nước ngoài là nguồn vốn phát triển của các chính phủ, các tổ chức liên chính phủ, các tổ chức quốc tế cung cấp cho chính phủ của một nước nhằm thực hiện các chương trình hợp tác phát triển kinh tế xã hội và hiện nay chủ yếu là nguồn vốn phát triển chính thức ODA (Official Development Assistance) Vay nợ nước ngoài có thể thực hiện dưới các hình thức: phát hành trái phiếu bằng ngoại tệ mạnh ra nước ngoài, vay bằng hình thức tín dụng... Năm Số tiền vay nước ngoài để bù đắp thâm hụt NSNN (đơn vị tính: tỷ đồng) 2000 6630 2002 7,215 2003 7,041 2004 7,253 2005 8,326 2006 12,500 2007 13,500 2008 15,000 2009 27,380 2010 (ƯTH lần 1) 20,050 Ưu điểm: nó là một biện pháp tài trợ ngân sách nhà nước hữu hiệu, có thể bù đắp được các khoản thâm hụt mà lại không gây sức ép lạm phát cho nền kinh tế. Đây cũng là một nguồn vốn quan trọng bổ sung cho nguồn vốn thiếu hụt trong nước, góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội. Nhược điểm: Nó sẽ khiến cho gánh nặng nợ nần, nghĩa vụ trả nợ tăng lên, giảm khả năng chi tiêu của chính phủ. Đồng thời, nó cũng dễ khiến cho nền kinh tế trở nên bị phụ thuộc vào nước ngoài. Thậm chí, nhiều khoản vay, khoản viện trợ còn đòi hỏi kèm theo đó là nhiều các điều khoản về chính trị, quân sự, kinh tế khiến cho các nước đi vay bị phụ thuộc nhiều. Sử dụng dự trữ ngoại tệ: Quỹ dự trữ ngọai tệ là lượng ngoại tệ mà ngân hàng trung ương hoặc cơ quan hữu trách tiền tệ của một quốc gia hoặc một lãnh thổ nắm giữ dưới dạng ngoại tệ nhằm thanh toán quốc tế hoặc hỗ trợ đồng tiền quốc gia. Chính phủ có thể sử dụng việc giảm dự trữ ngoại tệ để tài trợ thâm hụt ngân sách. Ưu điểm của việc này là dự trữ hợp lý có thể giúp quốc gia tránh được khủng hoảng. Tuy nhiên, Nhược điểm việc sử dụng quỹ dự trữ ngoại tệ để tài trợ thâm hụt ngân sách lại tiềm ẩn nhiều rủi ro và phải hết sức hạn chế sử dụng. Vì nếu khu vực tư nhân cho rằng nguồn dự trữ ngoại tệ của quốc gia hết sức mỏng mảnh, thì sự mất niềm tin vào khả năng mà chính phủ có thể can thiệp vào thị trường ngoại hối có thể dẫn đến một dòng vốn ồ ạt chảy ra thế giới bên ngoài, làm cho đồng nội tệ giảm mạnh giá và làm tăng sức ép lạm phát. Kết hợp với việc vay nợ nước ngoài ở trên, việc giảm quỹ dự trữ ngoại tệ cũng sẽ khiến cho tỷ giá hối đoái tăng, làm suy yếu sức cạnh tranh quốc tế của hàng hoá trong nước. Phát hành tiền: Chính phủ khi bị thâm hụt ngân sách sẽ đi vay Ngân hàng Trung ương để bù đắp. Để đáp ứng nhu cầu này, tất nhiên, Ngân hàng trung ương sẽ tăng việc in tiền. Điều này sẽ tạo ra thêm cơ sở tiền tệ. Chính vì vậy, nó được gọi là tiền tệ hoá thâm hụt. Ưu điểm của biện pháp này là nhu cầu bù tiền để bù đắp ngân sách nhà nước được đáp ứng một cách nhanh chóng, không phải trả lãi, không phải gánh thêm các gánh nặng nợ nần. Nhưng, nhược điểm của biện pháp này lại lớn hơn rất nhiều lần. Việc in thêm và phát hành thêm tiền sẽ khiến cho cung tiền vượt cầu tiền. Nó đẩy cho việc lạm phát trở nên không thể kiểm soát nổi. Trong những năm 80 của thế kỷ 20, nước ta đã bù đắp thâm hụt ngân sách nhà nước bằng cách in thêm tiền đưa vào lưu thông. Việc này đã đẩy tỷ lệ lạm phát đỉnh điểm lên tới hơn 600%, nền kinh tế bị trì trệ... Chính vì những hậu quả đó, biện pháp này rất ít khi được sử dụng. Và từ năm 1992, nước ta đã chấm dứt hoàn toàn việc in tiền để bù đắp thâm hụt ngân sách nhà nước. Tóm lại mỗi, giải pháp cho thâm hụt ngân sách NSNN đều có những ưu điểm và nhược điểm riêng. Không một giải pháp nào chỉ có toàn ưu điểm và cũng không tồn tại giải pháp nào thuần túy là nhược điểm. Do vậy cần phối hợp sử dụng đồng thời các giải pháp với những “liều lượng” hợp lý, phù hợp với từng giai đoạn phát triển và bối cảnh nền kinh tế nhằm phát huy tối đa tác dụng của mỗi giải pháp. II – NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA TRONG VIỆC XỬ LÝ THÂM HỤT NSNN Ở VIỆT NAM VÀ KIẾN NGHỊ Những vấn đề đặt ra tro

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docThâm hụt ngân sách ở Việt Nam (Năm 2000-2010)- Thực trạng và giải pháp.doc
Tài liệu liên quan