Tiểu luận Thân thế và sự nghiệp của Chủ tịch Hồ Chí Minh

Mục lục :

A _ Lời mở đầu Tr 3

B _ Phần nội dung chính :

I/ Cuộc đời và sự nghiệp giải phóng dân tộc

1.Hoàn cảnh xuất thân và tuổi thơ . Tr 3 _ 4

2.quá trình ra đi tìm đường cứu nước . Tr 4 _ 5

3.Quá trình truyền bá CN Mac- Lenin vào Việt Nam và chuẩn bị về chính trị - tư tường - tổ chức cho việc thành lập Đảng Tr 6 _ 7

4. Hồ chủ tịch và bản tuyên ngôn đôc lập khai sinh ra nước Việt Nam dân chu cộng hoa (1940– 1945 ) Tr 7_ 11

5. Hồ chủ tịch lãnh đạo nhân dân kháng chiến chống thực dân Pháp (1945 -1954) Tr 11-14

6.Hồ Chí Minh lãnh đạo cách mạng XHCN và cuộc đấu tranh của toàn dân nhằm thực hiện hoà bình thống nhất đất nước (19540-1965) Tr 14 - 16

7. Hồ Chí Minh lãnh đạo cuộc kháng chiến chống Mỹ (1965 – 1969 ) . Tr 16 -18

8.Hồ Chí Minh ra đi vĩnh viễn Tr 18 - 19

II/ Hồ Chí Minh – Một nhân cách lớn :

1. Chủ tịch Hồ Chí Minh hiện thân đạo đức – văn minh của Đảng và dân tộc ta Tr 19-21

2.Hồ chí Minh – Nhân cách của thời đại Tr 21 -24

3. Hồ Chí Minh hình ảnh của dân tộc .Tr 24 - 25

4. Hồ Chí Minh với thế hệ trẻ .Tr 25 - 26

C _ Phần kết luận Tr 26 - 27

D_ Một số hình ảnh về Chủ Tịch Hồ Chí Minh Tr 28

 

doc29 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 14319 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tiểu luận Thân thế và sự nghiệp của Chủ tịch Hồ Chí Minh, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ta từ trước đến nay. Thắng lợi có ý nghĩa lịch sử và có tính chất thời đại của Cách mạng tháng Tám đã mở ra một kỷ nguyên mới trong lịch. sử dân tộc Vìệt Nam, vì nó đã khai sinh ra nước Việt Nam dân chủ cộng hòa, Nhà nước dân chủ nhân dân đầu tiên ở Đông Nam Á. "Lần này là lần đầu tiên trong lịch sử cách mạng của các dân tộc thuộc địa và nửa thuộc địa, một đảng mới 15 tuổi đã lãnh đạo cách mạng thành công, đã nắm chính quyền toàn quốc". 5.Hoà chuû tòch laõnh ñaïo nhaân daân khaùng chieán choáng thöïc daân Phaùp (1945 -1954) : Mới giành được chính quyền, chưa có thời gian để tổ chức và củng cố lực lượng của mình nhân dân ta đã phải đối phó với tình hình cực kỳ khó khăn, phức tạp. Nạn đói khủng khiếp do thực dân Pháp và phát xít Nhật gây ra vẫn còn đe dọa nhân dân ta. Kinh tế, tài chính nước ta kiệt quệ. Trong khi đó ở miền Bắc, 20 vạn quân Tưởng thừa lệnh đế quốc Mỹ kéo sang Việt Nam mượn cớ tước vũ khí quân Nhật, kỳ thật là nhằm thực hiện âm mưu tiêu diệt Đảng ta, phá tan Việt Minh, giúp bọn phản động nước ta lật đổ chính quyền nhân dân, lập một chính phủ phản động làm tay sai cho Mỹ, Tưởng. Bọn phản cách mạng như Việt Nam quốc dân đảng, Phục quốc, Việt Nam cách mạng đồng minh hội, v.v... đòi thay đổi thành phần Chính phủ, thay đổi Quốc kỳ và đòi Hồ Chủ tịch phải từ chức v.v... Ở miền Nam, nấp sau lưng quân đội Anh, thực dân Pháp đã quay trở lại đánh chiếm nước ta một lần nữa. Bọn phản động cũng nổi dậy làm tay sai cho thực dân Pháp, tìm mọi cách chống lại cuộc kháng chiến của đồng bào ta ở miền Nam. Trong lúc vận mệnh của Nhà nước ta như "ngàn cân treo sợi tóc" Hồ Chủ tịch kêu gọi nhân dân tăng cường đoàn kết chống giặc đói, chống giặc dốt, chống giặc ngoại xâm và đề ra khẩu hiệu kháng chiến đi đôi với kiến quốc. Để thực hiện nhiệm vụ chủ yếu lúc này là giữ vững chính quyền cách mạng, Hồ Chủ tịch đặt vấn đề phải tổ chức càng sớm càng tốt cuộc tổng tuyển cử, bầu Quốc hội, thành lập Chính phủ chính thức và ban hành Hiến pháp dân chủ, làm cho nhân dân tin tưởng vào chế độ mới. Trước thế giới, chính quyền do dân bầu ra sẽ có một giá trị pháp lý không thể phủ nhận được.Ngày 6 tháng 1 năm 1946, cuộc tổng tuyển cử tiến hành thắng lợi trong cả nước. Toàn dân ta tỏ rõ sự tín nhiệm đặc biệt đối với Hồ Chủ tịch. Ngày 2 tháng 3 năm 1946, trong kỳ họp đầu tiên của Quốc hội, Người được bầu làm Chủ tịch nước Việt Nam dân chủ cộng hòa. Uỷ ban dự thảo hiến pháp được thành lập do Hồ Chủ tịch trực tiếp chỉ đạo. Ngày 9 tháng 11 năm 1946, Quốc hội thông qua Hiến Pháp đầu tiên của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa, xác nhận quyền làm chủ đất nước và các quyền tự do dân chủ của nhân dân ta. Để mang lại quyền lợi cấp bách và thiết thực cho nhân dân, trước hết là cho công nông, Hồ Chủ tịch đề nghị với Chính phủ bãi bỏ chế độ thuế khóa của thực dân Pháp; ban hành luật lao động, bảo vệ quyền lợi của công nhân; quy định giảm tô cho nông dân, lấy ruộng đất chia cho nông dân. Người phát động chiến dịch tăng gia sản xuất, Tuần lễ vàng, thanh toán nạn mù chữ. Trong thư gửi học sinh nhân dịp khai trường và thư gửi thiếu nhi nhân dịp tết Trung thu, Người căn dặn thiếu niên và nhi đồng phải cố gắng học tập để mai sau xây dựng nước nhà.Theo sáng kiến của Hồ Chủ tịch, tháng 5 năm 1946, Hội liên hiệp quốc dân Việt Nam (gọi tắt là Liên Việt) được thành lập để mở rộng khối đại đoàn kết toàn dân, bắt tay với các đảng phái chính trị và các nhân sĩ dân chủ và thân sĩ yêu nước mới gia nhập Mặt trận dân tộc thống nhất. Nhận rõ kẻ thù trước mắt là thực dân Pháp, Người tạm thời hoà hoãn với quân Tưởng, nhân nhượng cho chúng một số quyền lợi về chính trị và kinh tế để giữ vững chính quyền, rảnh tay đối phó với quân Pháp ở miền Nam. Từ cuối tháng 2 năm 1946, theo lệnh của đế quốc Mỹ, quân Tưởng đã thỏa thuận cho quân Pháp kéo ra miền Bắc thay thế chúng. Để không phải bước ngay vào cuộc chiến đẩu trên phạm vi cả nước chống nhiều kẻ thù cùng một lúc trong khi chưa được chuẩn bị, Hồ Chủ tịch đã cùng với Trung ương Đảng chuyển sang chủ trương tạm thời hoà hoãn với quân Pháp bằng Hiệp định sơ bộ ngày 6 tháng 3 năm 1946. Nhờ đó, chúng ta đã tống cổ quân Tưởng ra khỏi miền Bắc, quét sạch bọn tay sai của chúng, đồng thời cũng phá được âm mưu của đế quốc Mỹ. Ngày 31 tháng 5 năm 1946, Hồ Chủ tịch lên đường thăm nước Pháp với tư cách là thượng khách của chính phủ Pháp. Trong thời gian ở nước Pháp, Hồ Chủ tịch đã tranh thủ tuyên truyền cho mọi tầng lớp nhân dân Pháp hiểu rõ cuộc đấu tranh chính nghĩa của nhân dân ta, tranh thủ được sự đồng tình và ủng hộ của nhân dân Pháp và nâng cao uy tín của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa trên trường quốc tế. Người tỏ rõ thiện chí hòa bình của nhân dân ta trên nguyên tắc bảo vệ chủ quyền và thống nhất của dân tộc ta: "Đồng bào Nam Bộ là dân nước Việt Nam. Sông có thể cạn, núi có thể mòn, song chân lý đó không bao giờ thay đổi.Do thái độ ngoan cố và hiếu chiến của thực dân Pháp, cuộc đàm phán chính thức giữa đoàn đại biểu Chính phủ ta do đồng chí Phạm Văn Đồng dẫn đầu với đoàn đại biểu Chính phủ Pháp tại Phông Ten Nơ Bơ Lô (Fontaine Bleau) không thành công. Hồ Chủ tịch ký Tạm ước ngày 14 tháng 9 năm 1946 với Chính phủ Pháp để tranh thủ thời gian tiếp tục xây dựng lực lượng, chuẩn bị cho cuộc kháng chiến toàn quốc, điều mà Người biết chắc chắn sẽ xảy ra. Trước những hành động xâm lược trắng trợn của thực dân Pháp, đêm 19 tháng 12 năm 1946, cuộc kháng chiến từ cục bộ đã lan ra khắp nước.Ngày 20 tháng 12 năm 1946, Hồ Chủ tịch ra Lời kêu gọi toàn quốc khángchiến: "Chúng ta muốn hòa bình, chúng ta đã nhân nhượng. Nhưng chúng ta càng nhân nhượng, thực dân Pháp càng lấn tới, vì chúng quyết tâm cướp nước ta lần nữa". "Không Chúng ta thà hy sinh tất cả, chứ nhất định không chịu mất nước,nhất định không chịu làm nô lệ. Hỡi đồng bào! Chúng ta phải đứng lên!"Bất kỳ dàn ông, đàn bà, bất kỳ người già, người trẻ không chia tôn giáo đảng phái, dân tộc, hễ là người Việt Nam thì phải đứng lên đánh thực dân Pháp, cứu Tổ quốc. Ai có súng dùng súng, ai có gươm dùng gươm, không có gươm thì dùng cuốc, thuổng, gậy gộc, ai cũng phải ra sức chống thực dân cứu nước" Để động viên mọi lực lượng kháng chiến, tháng 6 năm 1948, Hồ Chủ tịch ra Lời kêu gọi thi đua yêu nước: thi đua diệt giặc đói, diệt giặc dốt và diệt giặc ngoại xâm; thi đua thực hiện toàn dân kháng chiến, toàn diện kháng chiến, tiền tuyến thi đua giết giặc, hậu phương thi đua sản xuất và tiết kiệm. Hồ Chủ tịch luôn luôn chăm lo củng cố và phát triển Đảng. Hồ Chủ tịch chỉ rõ Đảng cần phải mạnh mẽ, trong sạch, kiểu mẫu, toàn Đảng phải nhất trí về tư tưởng, thống nhất về tổ chức và hành động. Cán bộ, đảng viên phải kiên quyết chấp hành đúng mọi chính sách của Đảng và Chính phủ; phải liên hệ mật thiết với quần chúng, đi đường lối quần chúng; phải thực hiện tự phê bình và phê bình. Đảng viên phải toàn tâm toàn ý phục vụ Đảng, phục vụ nhân dân, phải có nhiệt tình cách mạng và phẩm chất, đạo đức tốt.Tháng 3 năm 1947, Người viết Thư gửi các đồng chí Bắc Bộ và tiếp đấy viết thư gửi Các đồng chí Trung Bộ, kêu gọi cán bộ đảng viên hãy đem tất cả tinh thần và lực lượng để lãnh đạo toàn thể nhân dân ta nhằm vào một mục đích: đánh đuổi thực dân Pháp, làm cho nước nhà thống nhất và độc lập. Người phê phán những khuyết điểm của cán bộ, đảng viên như: địa phương chủ nghĩa, óc bè phái, quân phiệt, quan liêu, hẹp hòi, ham chuộng hình thức, làm việc lối bàn giấy, vô kỷ luật, ích kỷ, hủ hóa. Tháng 10 năm 1947, Người viết cuốn Sửa đổi lối làm việc làm tài liệu tu dưỡng tư tưởng, đạo đức và tác phong cho cán bộ và đảng viên. Người nêu lên 12 điều xây dựng Đảng và 5 điểm về đạo đức cách mạng: nhân, nghĩa, trí, dũng, liêm. Để tiến hành cuộc chiến tranh nhân dân, Hồ Chủ tịch và Trung ương Đảng chú trọng xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân với ba thứ quân: bộ đội chủ lực, bộ đội địa phương và dân quân du kích. Người thường nhắc nhở: quân đội từ nhân dân mà ra, vì nhân dân mà chiến đấu, "quân với dân như cá với nước" cho nên phải bảo vệ tính mạng và tài sản của nhân dân, không được động đến một cái kim, sợi chỉ của dân; đóng quân ở đâu phải giúp đỡ nhân dân ở đó tăng gia sản xuất. Hồ Chủ tịch khẳng định rằng chính quyền phải thật sự là của nhân dân, do dân cử ra để phục vụ nhân dân. Cán bộ và nhân viên chính quyến phải là "đầy tớ trung thành của nhân dân", gương mẫu trong việc thực hiện các chính sách của Chính phủ....Ngày 14 tháng 1 năm 1950, Hồ Chủ tịch tuyên bố sẵn sàng đặt quan hệ ngoại giao với các nước tôn trọng quyền bình đẳng và chủ quyền của nước Việt Nam dân chủ cộng hoà. Liền sau đó Liên Xô, Trung Quốc và các nước dân chủ nhân dân khác lần lượt công nhận và đặt quan hệ ngoại giao với nước ta. Tháng 9 năm 1950, Hồ Chủ tịch và Trung ương Đảng quyết định mở chiến dịch biên giới. Lần đầu tiên quân ta mở một chiến dịch lớn như thế. Hồ Chủ tịch đích thân ra mặt trận, trực tiếp tham gia chỉ đạo tác chiến.   Tháng 2 năm 1951, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thú hai của Đảng họp tại căn cứ địa Việt Bắc. Trong Báo cáo chính trị đọc trước Đại hội, Hồ Chủ tịch tổng kết kinh nghiệm hoạt động trong 21 năm qua, khẳng định đường lối lãnh đạo đúng đắn của Đảng ta, vạch rõ ưu khuyết điểm của cán bộ đảng viên. Bản báo cáo vạch trần âm mưu của đế quốc Mỹ can thiệp sâu vào Đông dương, nêu lên khẩu hiệu chính của ta là: "Tiêu diệt thực dân Pháp và đánh bại bọn can thiệp Mỹ, giành thống nhất độc lập hoàn toàn, bảo vệ hoà bình thế giới". Hồ Chủ tịch nhấn mạnh cần phải chú trọng, tăng cường đoàn kết toàn dân, phát huy truyền thống yêu nước của dân tộc. Hồ Chủ tịch còn nêu lên sự cần thiết của tình đoàn kết giữa các nước anh em Lào, Cam Pu Chia tiến đến thành lập Mặt trận các dân tộc Việt Nam Khơ me Lào. Chính cương Đảng lao động Việt Nam là sự tổng hợp những ý kiến lớn trong Báo cáo chính trị của Hồ Chủ tịch và báo cáo Bàn về cách mạng Việt Nam của đồng chí Trường Chinh. Nó đã khẳng định đường lối cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân tiến lên cách mạng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam và soi sáng đường lối kháng chiến để đi đến thắng lợi hoàn toàn. Về Đảng lao động Việt Nam, Hồ Chủ tịch đã nhấn mạnh lập trường quan điểm của Đảng và tư cách đảng viên: Đảng viên Đảng lao động Việt Nam là những ngườimà: Giầu sang không thể quyến rũ. Nghèo khó không theå chuyển lay. Uy lực không thể khuất phục" Đại hội đã bầu ra Ban chấp hành trung ương mới và nhất trí bầu Hồ Chủ tịch làm Chủ tịch Đảng và đồng chí Trường Chinh được bầu lại làm Tổng bí thư cThực hiện chủ trương mở rộng và tăng cường khối đoàn kết dân tộc, ngày 3 tháng 3 năm 1951, Việt Minh và Liên Việt mở Đại hội quyết định hợp nhất thành một Mặt trận. Người nhấn mạnh Mặt trận cần phải đoàn kết chặt chẽ và lâu dài, thực hiện phê bình và tự phê bình, thân ái giúp đỡ nhau để cùng tiến bộ. Tổng kết những kinh nghiệm trong quá trình thực hiện chính sách đại đoàn  kểt dân tộc, Hồ Chủ tịch nêu lên một khẩu hiệu nỗi tiếng:"Đoàn kết, đoàn kết, đạ đoàn kết,Thành công, thành công, đại thành công"Năm 1952, Hồ Chủ tịch và Trung ương Đảng chủ trương mở cuộc vận động chỉnh Đảng, chỉnh quân và chỉnh đốn công tác quần chúng nhằm nâng cao trình độ chính trị và tư tưởng cho cán bộ, đảng viên, cho quân đội và các đoàn thể quần chúng, chú trọng bồi dưỡng sức dân, chủ yếu là nông dân, vì: Nông dân là một lực lượng rất to lớn của dân tộc, một đồng minh của giai cấp công nhân.Tháng 12 năm 1953, dưới sự chủ tọa của Hồ Chủ tịch, Quốc hội thông qua Luật cải cách ruộng đất. Đông xuân 1953 -1954, trên đà thắng lợi, quân và dân ta đã tập trung lực lượng tiến công địch ở hầu khắp các chiến trường, từ đồng bằng Bắc Bộ đến Bình Trị Thiên, Liên khu V và Nam Bộ, phá tan kế hoạch giành lại quyền chủ động của địch. Để đập tan cố gắng cuối cùng của thực dân Pháp và can thiệp Mỹ, tháng 12 năm 1953, Hồ Chủ tịch chủ tọa Hội nghị Bộ chính trị Trung ương Đảng, quyết định tiêu diệt tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ. Thắng lợi của quân và dân ta trên chiến trường buộc Chính phủ Pháp ngồi vào bàn đàm phán với Chính phủ ta ở Hội nghị Giơnevơ Ngày 7 tháng 5 năm 1954, quân và dân ta giành chiến thắng vĩ đại ở Điện Biên Phủ. Tháng 7 năm 1954, Trung ương Đảng họp Hội nghị lần thứ sáu để chuẩn bị về tư tưởng, chính trị và tổ chức cho toàn Đảng, toàn quân và toàn dân ta đi vào bước ngoặt mới của cách mạng. Tại Hội nghị, Hồ Chủ tịch chỉ rõ đế quốc Mỹ đang trở thành kẻ thù chính và trực tiếp của nhân dân ta. Để phù hợp với tình hình mới, Hội nghị quyết định thay khẩu hiệu kháng chiến đến cùng bằng khẩu hiệu hòa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ.Ngày 20 tháng 7 năm 1954, Hội nghị Giơ ne vơ về Đông Dương kết thúc. Chính phủ Pháp phải ký kết đình chiến trên cơ sở tôn trọng độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam, Lào và Cam pu chia. Mặc dù có tình phá hoại hội nghị, đế quốc Mỹ cũng phải cam kết tôn trọng Hiệp nghị Giơ ne vơ về Đông  Dương. Ngày 22 tháng 7 năm 1954, Hồ Chủ tịch ra lời kêu gọi đồng bào cả nước ra sức phấn đấu đề củng cố hòa bình thực hiện thống nhất, hoàn thành độc lập, dân chủ trong cả nước.Chiến thắng Điện Biên Phủ đã thể hiện đường lối kháng chiến đúng đắn và sáng tạo: Lần đầu tiên trong lịch sử, một nước thuộc địa nhỏ yếu đã đánh thắng một nước thực dân hùng mạnh, góp phần thúc đẩy quá trình sụp đổ nhanh chóng của hệ thống thuộc địa của chủ nghĩa đế quốc. Đó là thắng lợi vẻ vang của nhân dân ta, đồng thời cũng là thắng lợi của các lực lượng hào binh, hân chủ và xã hội chủ nghĩa trên thế giới". Việt Nam - Điện Biên Phủ - Hồ Chí Minh, trở thành khẩu hiệu chiến đấu của các dân tộc bị áp bức, được nhân dân thế giới nhắc đến với niềm tự hào và cảm phục 6.Hoà Chí Minh laõnh ñaïo caùch maïng XHCN vaø cuoäc ñaáu tranh cuûa toaøn daân nhaèm thöïc hieän hoaø bình thoáng nhaát ñaát nöôùc (19540-1965) : Chiến thắng Điện Biên Phủ và thắng lợi của Hội nghị Giơnevơ năm 1954 về Đông Dương mở ra một thời kỳ mới trong lịch sử cách mạng Việt Nam. Hòa bình được lập lại ở Đông Dương; miền Bắc Việt Nam được giải phóng khỏi ách đế quốc. Ngày 1 tháng 1 năm 1955, trên Quảng trường Ba Đình lịch sử, nhân dân ta vui mừng đón chào Hồ Chủ tịch, Trung ương Đảng và Chính phủ trở về Thủ đô sau những năm kháng chiến gian khổ và anh dũng. Từ năm 1955, ở miền Nam nước ta, đế quốc Mỹ ra sức hất cẳng thực dân Pháp, âm mưu biến một nửa nước ta thành thuộc địa kiểu mới và căn cứ quân sự của Mỹ, chuẩn bị gây lại chiến tranh. Trước tình hình mới, Hồ Chủ tịch và Trung ương Đảng nêu lên hai nhiệm vụ chiến lược phải đồng thời tiến hành: Xây dựng miền Bắc, đưa miền Bắc tiến lên chủ nghĩa xã hội và đấu tranh thực hiện thống nhất nước nhà, tiếp tục hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân trong cả nước. Hồ Chủ tịch và Trung ương Đảng nêu lên nhiệm vụ của toàn Đảng, toàn dân ta là phải nhanh chóng xây dựng miền Bắc thành căn cứ địa vững mạnh cho cách mạng cả nước. Người kêu gọi toàn thể nhân dân ta thi đua tăng gia sản xuất, thực hành tiết kiệm, mọi công việc đều phải làm nhiều, nhanh, tốt, rẻ, để hoàn thành và hoàn thành vượt mức kế hoạch Nhà nước. Người đã đến thăm hầu khắp các tỉnh miền Bắc, từ vùng mỏ Quảng Ninh đến các khu tự trị Việt Bắc và Tây Bắc, từ các thành phố đến các vùng nông thôn đồng bằng. Người thăm hỏi công nhân trên các công trường xây dựng nhà máy mới, đi thăm các công trình thủy lợi đang xây dựng, cùng bà con nông dân tát nước chống hạn, tham gia Tết trồng cây v.v... Nhằm ổn định kinh tế và cải thiện đời sống của nhân dân, Hồ Chủ tịch và Trung ương Đảng nêu lên nhiệm vụ cần kíp lúc đó là phải tiếp tục hoàn thành cải cách ruộng đất. Đến giữa năm 1956, công cuộc cải cách ruộng đất đã căn bản hoàn thành trên miền Bắc nước ta.Khơi dậy khối đại đoàn kết toàn dân, Hồ Chủ tịch và Trung ương Đảng chủ trương cải tổ Mặt trận Liên - Việt thành Mặt trận thống nhất dân tộc. Từ ngày 5 đến ngày 10 tháng 9 năm 1955, Đại hội Mặt trận dân tộc thống nhất toàn quốc đã họp ở Hà Nội, quyết định mở rộng và củng cố Mặt trận, thành lập Mặt trận Tổ quốc Việt Nam. Đại hội đã thông qua một bản cương lĩnh mới nhằm mục đích đấu tranh cho hòa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ trong cả nước. Tháng 1 năm 1957, Quốc hội quyết định thành lập Ban sửa đổi Hiến pháp do Hồ Chủ tịch làm trưởng ban. Sau ba năm chuẩn bị và nghiên cứu, tháng 12 năm 1959, Hồ Chủ tịch đã trình bày trước Quốc hội bản dự thảo Hiến pháp sửa đổi và được Quốc hội nhất trí thông qua. Đó là bản Hiến pháp xã hội chủ nghĩa, đáp ứng đúng nguyện vọng tha thiết của nhân dân ta và chỉ rõ con đường vẻ vang mà nhân dân ta đang noi theo. Công cuộc khôi phục kinh tế ở miền Bắc đã hoàn thành thắng lợi, Hồ Chủ tịch và Trung ương Đảng lãnh đạo nhân dân ta bước vào thới kỳ cải tạo xa hội chủ nghĩa, bước đầu phát triển kinh tế và văn hóa (1958 -1960). Ngày 3 tháng 8 năm 1959, Người viết thư kêu gọi nông dân ra sức phát triển và củng cố các tổ đổi công và hợp tác xã, đồng thời phải thi đua cải tiến kỹ thuật, đó là hai chân của nông nghiệp,đưa nông nghiệp phát triển nhanh. Đến cuối năm 1960, việc cải tạo nông nghiệp theo hình thức hợp tác xã bậc thấp đã căn bản hoàn thành. Cuộc vận động cải tạo công thương nghiệp tư bản chủ nghĩa tư doanh và thủ công nghiệp theo chủ nghĩa xã hội cũng tiến hành có kết quả tốt. Với những thắng lợi đó, quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa đã được xác lập trên miền Bắc nước ta. Trong công cuộc xây dựng đất nước, Hồ Chủ tịch kêu gọi nhân dân ta phải dựa vào sức mình là chính, đồng thời coi trọng sự ủng hộ và giúp đỡ của các nước anh em.Để củng cố mối đoàn kết quốc tế trong tinh thần quốc tế vô sản, tháng 6 năm 1955, Hồ Chủ tịch đi thăm Liên Xô, Trung Quốc, Mông Cổ và một số nước xã hội chủ nghĩa (năm 1957), tiếp đến là các nước Ấn Độ (tháng 2 năm 1958), In-đô-nêxia (tháng 2 năm 1959). Đi đến đâu Hồ Chủ tịch và đoàn đại biểu Việt Nam cũng nhận được sự ủng hộ nhiệt tình đối với sự nghiệp xây dựng Chủ nghĩa Xã hội của nhân dân ta. Trong hai cuộc Hội nghị quốc tế các đảng cộng sản và công nhân họp tại Maxcơva (tháng 11 năm 1957 và tháng 11 năm 1960), Đoàn đại biểu Đảng ta do Hồ Chủ tịch dẫn đầu đã đóng góp tích cực vào việc tổng kết những vấn đề chiến lược và sách lược của cách mạng thế giới, đề ra những quy luật phổ biến của sự nghiệp cách mạng xã hội chủ nghĩa và xây dựng chủ nghĩa xã hội. Đầu năm 1960, chào mừng Đảng ta 30 tuổi và đón chào Đại hội lần thứ ba của Đảng sắp họp, Hồ Chủ tịch viết bài Ba mươi năm hoạt động của Đảng tổng kết lịch sử Đảng ta qua 30 năm đấu tranh oanh liệt và chiến thắng vẻ vang.Tháng 9 năm 1960, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ ba của Đảng họp tại Thủ đô Hà Nội. Đại hội thông qua Điều lệ mới của Đảng, bầu ra Ban chấp hành trung ương mới của Đảng ta. Hồ Chủ tịch được bầu lại làm Chủ tịch Ban chấp hành Trung ương Đảng và đồng chí Lê Duẩn được bầu làm Bí thư thứ nhất Ban chấp hành Trung ương Đảng. Ngày 27 tháng 3 năm 1964 Hồ Chủ tịch triệu tập Hội nghị chính trị đặc biệt. Báo cáo trước Hội nghị, Hồ Chủ tịch nêu cao tinh thần phấn đấu dũng cảm của nhân dân lao động miền Bắc trong 10 năm xây dựng đất nước, chỉ rõ chế độ xã hội chủ nghĩa là rất tốt đẹp và đang cổ vũ mạnh mẽ cuộc đấu tranh yêu nước của đồng bào miền Nam. Người biểu dương tinh thần đấu tranh kiên cường, bất khuất và hoan nghênh những thắng lợi của quân và dân miền Nam, dưới sự lãnh đạo của Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam, đang giáng cho đế quốc Mỹ và bè lũ tay sai những đòn quyết liệt, xứng đáng với danh hiệu "Thành đồng Tổ quốc". Để góp phần trong cuộc đấu tranh của nhân dân miền Nam tiến tới một nước Việt Nam độc lập, Người ra lời kêu gọi " Mỗi người chúng ta phải làm việc bằng hai".Những cuộc đồng khởi nổ ra từ đầu năm 1960, đánh dấu một bước nhảy vọt quan trọng, dẫn đến sự thành lập Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam ngày 20 tháng 2 năm 1960. Hoảng sợ trước cuộc đấu tranh mạnh mẽ và dồn dập của quân và dân miền Nam, từ giữa năng 1961, đế quốc Mỹ gây ra "cuộc chiến tranh đặc biệt".Trong những năm miền Nam chiến đấu quyết liệt chống đế quốc Mỹ xâm lược, Hồ Chủ tịch đã có ý định vào miền Nam để thăm đồng bào, đồng chí. Người nêu vấn đề này một cách kiên quyết. Trong những năm cuối của đời mình, tuy yếu, nhưng Hồ Chủ tịch vẫn tập đi bộ, tập leo dốc, và nhiều khi leo những dốc khá cao: Người muốn xem sức mình hiện nay thế nào và vẫn quyết tâm rèn luyện để thực hiện ý định vào miền Nam thăm đồng bào,đồngchí.Từ năm 1968 trở đi thấy sức khỏe của mình đã sút kém nhiều hơn, Hồ Chủ tịch yêu cầu: hễ có đồng chí miền Nam ra thì phải cho Người biết và đưa vào gặp Người. Vì vậy, rất nhiều cán bộ, chiến sĩ miền Nam ra Bắc đã được vào thăm Người. Mỗi lần gặp, Hồ Chủ tịch đều hỏi thăm tình hình miền Nam rất tỉ mỉ và Người rất vui. 7. Hoà Chí Minh laõnh ñaïo cuoäc khaùng chieán choáng Myõ (1965 – 1969 ) : Trước nguy cơ thất bại trong chiến tranh xâm lược ở miền Nam Việt Nam, đế quốc Mỹ điên cuồng gây chiến tranh phá hoại bằng không quân và hải quân đối với miền Bắc, đồng thời liều lĩnh chuyển "chiến tranh đặc biệt" của chúng ở miền Nam ra chiến tranh cục bộ. Trước tình hình nghiêm trọng do âm mưu và hành động chiến tranh mới của đế quốc Mỹ gây ra, Hồ Chủ tịch và Trung ương Đảng nêu cao quyết tâm động viên lực lượng của toàn Đảng, toàn quân, toàn dân kiên quyết đánh bại cuộc chiến tranh xâm lược của đế quốc Mỹ trong bất cứ tình huống nào, nhằm bảo vệ miền Bắc, giải phóng miền Nam, hoàn thành nhiệm vụ cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân trong cả nước, tiến tới thực hiện hòa bình thống nhất Tổ quốc. Hồ Chủ tịch và Trung ương Đảng nêu rõ nhiệm vụ cấp bách của cách mạng miền Bắc là phải kịp thời chuyển hướng tư tưởng và tổ chức, chuyển hướng xây dựng kinh tế và tăng cường lực lượng quốc phòng, để miền Bắc có đủ sức mạnh kịp thời đáp ứng yêu cầu bảo vệ miền Bắc, chi viện cho cách mạng miền Nam, đồng thời nên tiếp tục xây dựng cơ sở vật chất và kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội. Lời kêu gọi Quyết tâm đánh thắng giặc Mỹ xâm lược của Hồ Chủ tịch lại vang lên như tiếng kêu  xung trận: Chiến tranh có thể kéo dài 5 năm, 10 năm, 20 năm hoặc lâu hơn nữa. Hà Nội, Hải Phòng và một số thành phố, xí nghiệp có thể bị tàn phá, song nhân dân Việt Nam quyết không sợ ! Không có gì quý hơn độc lập tự do. Người nhắc nhở cán bộ phải chú ý từ việc đào hầm trú ẩn đến việc sơ tán người già và trẻ em. Người thăm hỏi đồng bào những nơi bị địch bắn phá, chăm lo việc ổn định đời sống của nhân dân. Người đi thăm nhiều đơn vị thuộc các lực lượng vũ trang nhân dân, gửi hoa chúc Tết các chiến sĩ đang trực tiếp chiến đấu trên trận địa. Lá cờ Quyết tâm đánh thắng giặc Mỹ xâm lược của Hồ chủ tịch đặt ra làm giải thưởng luân lưu từ tháng 3 năm 1965 đã động viên toàn quân và toàn dân ta sôi nổi thi đua lập công. Từ năm 1959, Hồ Chủ tịch đã thưởng hàng nghìn huy hiệu của người để biểu dương những người tốt, việc tốt của các ngành, các giới ở các địa phương trên toàn miền Bắc. Để nâng cao tác dụng giáo dục hơn nữa, giữa năm1968, Người đề ra việc bồi dưỡng và nêu gương "người tốt, việc tốt", lấy đó làm biện pháp cơ bản xây dựng con người mới, con người xã hội chủ nghĩa đang chiến thắng bọn Mỹ xâm lược và chiến thắng tự nhiên.Đầu năm 1969, Người viết một bài quan trọng nhan đề là Nâng cao đạo đức cách mạng, quét sạch chủ nghĩa cá nhân. Người chỉ thị cho toàn Đảng, toàn quân và toàn dân ta phải kết hợp học tập với việc kiểm điểm tư tưởng và việc làm trong những năm qua, phát huy những ưu điểm và thắng lợi đã giành được, khắc phục những khuyết điểm trong tư tưởng, đạo đức và tác phong, phấn đấu đưa sự nghiệp cách mạng đến thắng lợi to lớn hơn. Cuối tháng 4 năm 1969, Quốc hội đã thông qua và quyết định thi hành Điều lệ hợp tác xã sản xuất nông nghiệp bậc cao nhằm đảm bảo thật sự quyền làm chủ tập thể của nông dân xã viên.Nhân dịp kỷ niệm lần thứ 50 cuộc Cách mạng xã bội chủ nghĩa tháng Mười Nga, Hồ Chủ tịch viết bài Cách mạng tháng Mười vĩ đại và con đường giải phóng cho các dân tộc (tháng 10 năm 1967).  Trong khi tăng cường và mở rộng chiến tranh xâm lược Việt Nam, đế quốc Mỹ luôn mồm rêu rao "thiện chí hòa bình" sẵn sàng thương lượng không điều kiện v.v... hòng lừa bịp dư luận thế giới và dư luận nhân dân Mỹ, Hồ Chủ tịch kiên quyết vạch trần những thủ đoạn gian dối của nhà cầm quyển Mỹ, tố cáo chính sách thương lượng trên thế mạnh của chúng hòng buộc nhân dân ta phải hạ vũ khí và từ bỏ những nguyện vọng chính đáng của mình. Trong thư gửi các vị đứng đầu các nước xã hội chủ nghĩa và một số nước khác ngây 24 tháng 1 năm 1966, và thư gửi nhân dân Mỹ ngày 23 tháng 12 năm 1966, Hồ Chủ tịch nêu rõ sự xâm lược của Mỹ là nguồn gốc duy nhất, là nguyên nhân trực tiếp gây nên tình hình nghiêm trọng  ở Việt Nam và Đông Nam Á. Cuộc kháng chiến của nhân dân ta ngày càng tranh thủ được sự ủng hộ tích cực của dư luận tiến bộ toàn thế giới. Ngay trên đất Mỹ, bọn cầm đầu hiếu chiến Mỹ cũng ngày càng bị cô lập. Thay mặt nhân dân Việt Nam, Hồ Chủ tịch nhiều lần cảm ơn sự ủng hộ đầy nhiệt tình đó. Một mặt trận thống nhất của nhân dân thế giới ủng hộ nhân dân Việt Nam chống Mỹ đã được hình thành. Việt Nam đã trở thành vấn đề lương tâm của thời đại.Bị thua đau ở cả hai miền nước ta, ngày 1 tháng 1 năm 1968, Chính phủ Mỹ buộc phải chấm dứt không điều kiện việc ném bom và bắn phá trên toàn bộ lãnh thổ nước Việt Nam dân chủ cộng hòa và phải nói chuyện với đại diện của Chính phủ ta và đại diện Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam tại Hội nghị

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docThân thế và sự nghiệp của Chủ tịch Hồ Chí Minh.doc
Tài liệu liên quan