Tiểu luận Thủ tục tái thẩm trong tố tụng hình sự

Việc thông báo và xác minh những tình tiết mới được phát hiện, quy định tại Điều 292 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 :

“1. Người bị kết án, cơ quan, tổ chức và mọi công dân có quyền phát hiện những tình tiết mới của vụ án và báo cho Viện kiểm sát hoặc Tòa án. Viện trưởng Viện kiểm sát có thẩm quyền kháng nghị tái thẩm ra quyết định xác minh những tình tiết đó.

2. Nếu có một trong những căn cứ quy định tại Điều 291 của Bộ luật này thì Viện trưởng Viện kiểm sát ra quyết định kháng nghị tái thẩm và chuyển hồ sơ vụ án cho Tòa án có thẩm quyền. Nếu không có căn cứ thì Viện trưởng Viện kiểm sát trả lời cho cơ quan, tổ chức hoặc người đã phát hiện biết rõ lý do của việc không kháng nghị.”

Theo nội dung của Điều luật trên thì phạm vi chủ thể có quyền thông báo những tình tiết mới phát hiện của vụ án là rất rộng, bao gồm mọi công dân, cơ quan, tổ chức và ngay cả người bị kết án đều có quyền này.

 

doc9 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 3374 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tiểu luận Thủ tục tái thẩm trong tố tụng hình sự, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
0 về tính chất của tái thẩm như sau: “Thủ tục tái thẩm được áp dụng đối với bản án hoặc quyết định đã có hiệu lực pháp luật nhưng bị kháng nghị vì có những tình tiết mới được phát hiện có thể làm thay đổi cơ bản nội dung của bản án hoặc quyết định mà Tòa án không biết được khi ra bản án hoặc quyết định đó.” Đây là giai đoạn có nhiều điểm giống với giai đoạn giám đốc thẩm. Cũng như Giám đốc thẩm, tái thẩm là một giai đoạn đặc biệt của tố tụng hình sự, được quy định trong bộ luật tố tụng hình sự, đây là giai đoạn xét lại bản án hoặc quyết định đã có hiệu lực pháp luật rơi vào trường hợp của điều luật 290 bộ luật tố tụng hình sự năm 2003. Giai đoạn này nhằm mục đích sửa chữa những sai lầm trong trường hợp tòa án đã xử vụ án không đúng. Tuy nhiên trình tự Tái thẩm có điểm khác với trình tự giám đốc thẩm đó là: Trong trình tự giám đốc thẩm thì nội dung là sửa chữa những sai lầm nghiêm trọng của tòa án trong việc xử lí vụ án đã đánh giá sai tính chất của hành vi phạm tội và nhân thân của bị cáo, vi phạm thủ tục tố tụng, áp dụng sai luật. Còn trong trình tự tái thẩm thì nội dung là sửa chữa sai lầm của tòa án trong việc giải quyết vụ án vì mới xác định được tình tiết mới mà Tòa án đã không biết được khi ra bản án hoặc quyêt định mà những tình tiết này đã làm thay đổi cả nội dung của bản án hoặc quyết định đã có hiệu lực pháp luật trên thực tế. Nếu những tình tinh tiết mới này không làm thay đổi cơ bản nội dung của bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án thì không thuộc trường hợp phải xét xử theo thủ tục tái thẩm .Cũng như tái thẩm sẽ đặt ra vói trường hợp tòa án cố ý ra bản án hoặc quyết định trái pháp luật. Như vậy, ta có thể hiểu rằng trong thủ tục tái thẩm Tòa án không có nhiệm vụ xét xử lại vụ án mà chỉ tiến hành kiểm tra, xem xét, đối chiếu với những quy định của pháp luật xem bản án hoặc quyết định bị kháng nghị có căn cứ và hợp pháp không. Khi xem xét, nếu Tòa án thấy bản án , quyết định bị kháng nghị có căn cứ quy định tại Điều 291 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 thì Tòa án tái thẩm ra quyết định hủy bản án, quyết định bị kháng nghị để điều tra lại hoặc xét xử lại, chứ không có quyền sửa bản án, quyết định đó. II) KHÁNG NGHỊ TÁI THẨM. 1. Đối tượng và căn cứ để kháng nghị theo thủ tái thẩm. Theo Điều 290 của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 thì đối tượng của việc kháng nghị theo thủ tục tái thẩm bao gồm những bản án hoặc quyết định đã cá hiệu lực pháp luật. Theo Điều 291 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 quy định về những căn cứ để kháng nghị theo thủ tục tái thẩm : “Những tình tiết được dùng làm căn cứ để kháng nghị tái thẩm là: 1. Lời khai của người làm chứng, kết luận giám định, lời dịch của người phiên dịch có những điểm quan trọng được phát hiện là không đúng sự thật; 2. Điều tra viên, Kiểm sát viên, Thẩm phán, Hội thẩm đã có kết luận không đúng làm cho vụ án bị xét xử sai; 3. Vật chứng, biên bản điều tra, biên bản các hoạt động tố tụng khác hoặc những tài liệu khác trong vụ án bị giả mạo hoặc không đúng sự thật; 4. Những tình tiết khác làm cho việc giải quyết vụ án không đúng sự thật.” Thực chất thì căn cứ để kháng nghị theo thủ tục tái thẩm là những tình tiết mới được phát hiện có thể làm thay đổi cơ bản nội dung của bản án hoặc quyết định mà Tòa án không biết được khi ra bản án hoặc quyết định đó. - Lời khai của người làm chứng, kết luận giám định, lời dịch của người phiên dịch có những điểm quan trọng được phát hiện là không đúng sự thật : Sự tham gia của người làm chứng đặt ra trong hầu hết các vụ án, việc có mặt của người làm chứng là người biết được các tình tiết có lien quan đến vu án nên lời khai của người làm chứng có ỹ nghĩa quan trọng cần thiết trong việc giúp cơ quan tiến hành tố tụng có thể xác định sự thật nhanh chóng, khách quan. Tuy nhiên, không phải mọi lời khai của người làm chứng đều cần xem xét tới mà chỉ những lời khai của người làm chứng có những điểm quan trọng được phát hiện là không đúng sự thật dẫn tới việc Tòa án ra bản án hoặc quyết định không khách quan thì mới là căn cứ để kháng nghị tái thẩm. Tại khoản 3 Điều 155 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 quy định về những trường hợp cần giám định : “Bắt buộc phải trưng cầu giám định khi cần xác định: a) Nguyên nhân chết người, tính chất thương tích, mức độ tổn hại sức khoẻ hoặc khả năng lao động; b) Tình trạng tâm thần của bị can, bị cáo trong trường hợp có sự nghi ngờ về năng lực trách nhiệm hình sự của họ; c) Tình trạng tâm thần của người làm chứng hoặc người bị hại trong trường hợp có sự nghi ngờ về khả năng nhận thức và khai báo đúng đắn đối với những tình tiết của vụ án; d) Tuổi của bị can, bị cáo, người bị hại, nếu việc đó có ý nghĩa đối với vụ án và không có tài liệu khẳng định tuổi của họ hoặc có sự nghi ngờ về tính xác thực của những tài liệu đó; đ) Chất độc, chất ma tuý, chất phóng xạ, tiền giả.” Khi có sự tham gia của người giám định thì người giám định phải chịu trách nhiệm cá nhân về kết luật giám định của mình. Nhưng để trở thành căn cứ kháng nghị theo thủ tục tái thẩm thì kết luận giám định đó có những điểm quan trọng được phát hiện là không đúng sự thật mà dẫn tới việc ra bản án hoặc quyết định không phù hợp với thực tế khách quan. Trường hợp vụ án giải quyết cần có người phiên dịch, khi xem xét phát hiện lời phiên dịch có những điểm quan trọng là không đúng sự thật trong bản án hoặc quyết định đã có hiệu lực pháp luật, thì Viện trưởng viện kiểm sát có thẩm quyền kháng nghị theo thủ tục tái thẩm để yêu cầu Tòa án có thẩm quyền xét xử lại. - Điều tra viên, Kiểm sát viên, Thẩm phán, Hội thẩm đã có kết luận không đúng làm cho vụ án bị xét xử sai: Kết luận không đúng của Điều tra viên, Kiểm sát viên, Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân là căn cứ để kháng nghị theo thủ tuc tái thẩm khi những kết luận này là do cố ý , có tính chất phạm tội của Điều tra viên, Kiểm sát viên, Thẩm phán,Hội thẩm nhân dân mà khi ra bản án hoặc quyết định Tòa án không biết được. Nếu trường hợp những người này có kết luận không đúng nhưng không phải do cố ý mà do những nguyên nhân khác như: năng lực chuyên môn kém, trình độ yếu…dẫn tới việc ra kết luận sai và làm cho bản án hoặc quyết định của tòa án không khách quan thì đây không được coi là căn cứ để kháng nghị theo thủ tục tái thẩm mà nếu bản án , quyết định đã có hiệu lực pháp luật thì đây là trường hợp xem là căn cứ kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm. - Vật chứng, biên bản điều tra, biên bản các hoạt động tố tụng khác hoặc những tài liệu khác trong vụ án bị giả mạo hoặc không đúng sự thật: Đây là căn cứ kháng nghị theo thủ tục tái thẩm mà có thể do những người tham gia tố tụng và những người khác gây ra. Khi mà trong hồ sơ vụ án có những vật chứng, biên bản điều tra, biên bản các hoạt động tố tụng khác hoặc những tài liệu giả mạo khác không đúng sự thật là cho các cơ quan tiến hành tố tụng : cơ quan điều tra,Viện kiểm sát, Tòa án không hề biết về sự không khách quan đó nên đã ra bản án hoặc quyết định không đúng với các tình tiết khách quan, sai lầm , khi ấy đây trở thành căn cứ kháng nghị theo thủ tục tái thẩm theo như điều luật quy định. - Những tình tiết khác làm cho việc giải quyết vụ án không đúng sự thật : Căn cứ này trong Bộ luật tố tụng hình sự năm 1988 chưa có mà được bổ xung, mở rộng trong Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003. Xét theo Điều 290 của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 thì nhìn chung lại thủ tục tái thẩm chỉ được áp dụng với những bản án hoặc quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật nhưng bị kháng nghị vì có những tình tiết mới được phát hiện. Trước khi kháng nghị, Viện kiểm sát phải điều tra xác minh để kết luận về tình tiết mới được phát hiện có được xem là căn cứ để kháng nghị theo thủ tục tái thẩm hay không. Cần lưu ý trong thực tế, có trường hợp vụ án có tình tiết mới được phát hiện nhưng việc xử lí vụ án không sai nên không tái thẩm .Ví dụ: người tiến hành tố tụng nhận hối lộ của bị cáo nhưng không cần làm sai lệch vụ án hoặc kết luận sai vì hành vi của bị cáo chưa đủ cơ sở để truy cứu trách nhiệm hình sự, trường hợp này nếu phát hiện thì xử lí theo tội nhận và đưa hối lộ mà không cần phải tiến hành tái thẩm. 2 . Thông báo và xác minh những tình tiết mới được phát hiện. Việc thông báo và xác minh những tình tiết mới được phát hiện, quy định tại Điều 292 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 : “1. Người bị kết án, cơ quan, tổ chức và mọi công dân có quyền phát hiện những tình tiết mới của vụ án và báo cho Viện kiểm sát hoặc Tòa án. Viện trưởng Viện kiểm sát có thẩm quyền kháng nghị tái thẩm ra quyết định xác minh những tình tiết đó. 2. Nếu có một trong những căn cứ quy định tại Điều 291 của Bộ luật này thì Viện trưởng Viện kiểm sát ra quyết định kháng nghị tái thẩm và chuyển hồ sơ vụ án cho Tòa án có thẩm quyền. Nếu không có căn cứ thì Viện trưởng Viện kiểm sát trả lời cho cơ quan, tổ chức hoặc người đã phát hiện biết rõ lý do của việc không kháng nghị.” Theo nội dung của Điều luật trên thì phạm vi chủ thể có quyền thông báo những tình tiết mới phát hiện của vụ án là rất rộng, bao gồm mọi công dân, cơ quan, tổ chức và ngay cả người bị kết án đều có quyền này. Mặc dù bản án đã có hiệu lực pháp luật thì người bị kết án vẫn có quyền thông báo cho cơ quan có thẩm quyền đó là Viện kiểm sát biết những tình tiết mới được phát hiện của chính vụ án mà mình bị kết án. Điều này khẳng định sự công minh, khách quan của pháp luật . Các cơ quan nhà nước, tổ chức xã hội cũng có quyền báo cho Viện kiểm sát biết về những tình tiết mới của vụ án mà họ có liên quan, hay họ biết phát hiện ra. Các cơ quan , tổ chức, người bị kết án hay mọi công dân khi thông báo cho Viện kiểm sát về những tình tiết mới của vụ án có thể trình bày bằng Đơn từ và gửi đến bất cứ Viện kiểm sát hoặc Tòa án nào khi chưa xác định được nơi có thẩm quyền nhận thông báo đó. Và nếu Tòa án nhận được đơn từ thông báo đó thì chuyển cho Viện kiểm sát có quyền kháng nghị theo thủ tục tái thẩm. Viện kiểm sát trước khi ra quyết định kháng nghị theo thủ tục tái thẩm thì phải xem xét tình tiết mới được phát hiện có xác thực hay không , nếu khi thấy cần thiết Viện kiểm sát tiến hành xác minh tình tiết mới được phát hiện. Khi có đủ cắn cứ theo điều 291 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 thì Viện kiểm sát ra quyết định kháng nghị theo thủ tục tái thẩm và chuyển hồ sơ vụ án cho tòa án có thẩm quyền. Nếu không có căn cứ để phải tái thẩm vụ án thì Viện kiểm sát trả lời cho chủ thể đã báo tin. 3. Những người có quyền kháng nghị tái thẩm. Khác với kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm, kháng nghị theo thủ tục tái thẩm chỉ thuộc thẩm quyền của Viện kiểm sát và nên trong phạm vi quyền hạn của mình thì Viện trưởng Viện kiểm sát sẽ ra quyết định kháng nghị. Nội dung này được quy định tại điều 293 của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003: “1. Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao có quyền kháng nghị theo thủ tục tái thẩm đối với những bản án hoặc quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án các cấp, trừ quyết định của Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao. 2. Viện trưởng Viện kiểm sát quân sự trung ương có quyền kháng nghị theo thủ tục tái thẩm đối với những bản án hoặc quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án quân sự cấp dưới. 3. Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân cấp tỉnh có quyền kháng nghị theo thủ tục tái thẩm đối với những bản án hoặc quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án nhân dân cấp huyện. Viện trưởng Viện kiểm sát quân sự cấp quân khu có quyền kháng nghị theo thủ tục tái thẩm đối với những bản án hoặc quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án quân sự khu vực. 4. Bản kháng nghị của những người quy định tại Điều này phải được gửi cho người bị kết án và những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến việc kháng nghị.” - Viện trưởng VKSNDTC có quyền kháng nghị tái thẩm đối với bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của tòa án các cấp : tòa hình sự TANDTC, Tòa phúc thẩm TANDTC , TAQSTƯ, Tòa án nhân dân cấp tỉnh, Tòa quan sự cấp quân khu, Tòa án nhân dân cấp huyện và tòa án quân sự khu vực, nhưng lại trừ quyết định của Hội đồng thẩm phán TANDTC. Chỉ Chánh án TANDTC và Viện trưởng VKSNDTC mới có quyền kháng nghị tái thẩm theo thủ tục xem xét bản án tử hình trước khi đưa ra thi hành. - Viện trưởng VKSQSTƯ có quyền kháng nghị tái thẩm đối với bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án quân sự cấp dưới : là Tòa án quân sự cấp quân khu và Tòa án cấp khu vực. - Viện trưởng VKSND cấp tỉnh có quyền kháng nghị tái thẩm đối với bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án nhân dân câp huyện. Viện trưởng Viện kiểm sát quân sự cấp quân khu có quyền kháng nghị tái thẩm đối với bản án , quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án quân sự khu vực. Sau khi đã kháng nghị thì bản kháng nghị phải được gửi cho người bị kết án và những người có quyền lợi và nghĩa vụ lien quan tới việc kháng nghị. 4 . Tạm đình chỉ thi hành bản án hoặc quyết định đã bị kháng nghị theo thủ tục tái thẩm. Vì việc kháng nghị theo thủ tục tái thẩm có thể dẫn tới chỗ làm thay đổi cơ bản nội dung của bản án hoặc quyết định đã có hiệu lực pháp luật. Nên người đã kháng nghị theo thủ tục tái thẩm có quyền tạm đình chỉ thi hành bản án hoặc quyết định đã có hiệu lực pháp luật bị kháng nghị, khi xét thấy trong thời gian chờ xét xử tái thẩm mà việc thi hành bản án hoặc quyết định đó có thể gây ra thiệt hại cho người phai thi hành. Cơ sở pháp lí đó là Điều 294 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003: “Những người đã kháng nghị theo thủ tục tái thẩm có quyền tạm đình chỉ thi hành bản án hoặc quyết định bị kháng nghị”. 5. Thời hạn kháng nghị theo thủ tục tái thẩm. Về thời hạn kháng nghị theo thủ tục tái thẩm được quy định tại Điều 295 của bộ luật tố tụng hình sự như sau: “1. Tái thẩm theo hướng không có lợi cho người bị kết án phải tiến hành trong thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự quy định tại Điều 23 của Bộ luật hình sự và thời hạn kháng nghị không được quá một năm, kể từ ngày Viện kiểm sát nhận được tin báo về tình tiết mới được phát hiện. 2. Tái thẩm theo hướng có lợi cho người bị kết án thì không hạn chế về thời gian và được tiến hành trong cả trường hợp người bị kết án đã chết mà cần minh oan cho họ. 3. Việc kháng nghị về dân sự trong vụ án hình sự đối với nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án được tiến hành theo quy định của pháp luật về tố tụng dân sự” - Tái thẩm theo hướng không có lợi cho người bị kết án có thể là : xử them tội khác, phạt nặng hơn, kết tội và xử phạt người đã xác định là không phạm tội hoặc được miễn trách nhiệm hình sự, miễn hình phạt .Luật quy định thời hạn kháng nghị tái thẩm theo hướng không có lợi cho người bị kết án là một năm , kể từ ngày Viện kiển sát nhận được tin báo về tình tiết mới được phát hiện,với mục đích giữ tính ổn định của bản án đã có hiệu lực pháp luật và thể hiện chính sách nhân đạo của nhà nước. Kháng nghị tái thẩm trong trường hợp này chỉ được tiến hành trong thời hạn truy cứu trách nhiệm hình sự. - Kháng nghị theo hướng có lợi cho người bị kết án thì không hạn chế về thời gian như: kháng nghị để minh oan cho người bị kết án, kháng nghị bỏ bớt tội cho người bị kết án về nhiều tội, kháng nghị giảm nhẹ hình phạt vì phát hiện tình tiết giảm nhẹ quan trọng…kháng nghị này còn đặt ra ngay cả khi người bị kết án đã chết mà cần minh oan cho họ. - Kháng nghị về dân sự trong vụ án hình sự như: xử về người phải bồi thường, về mức bồi thường thiệt hại… Kháng nghị về dân sự trong vụ án hình sự đối với nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người có quyền và nghĩa vụ lien quan đến vụ án được tiến hành theo quy định của pháp luật về tố tụng dân sự. Việc kháng nghị theo thủ tục tái thẩm, xem xét bản án tử hình trước khi đưa ra thì hành thì trong thời hạn hai tháng, kể từ ngày nhận được bản án và hồ sơ vụ án tử hình, Chánh án Tòa án NDTC , Viện trưởng Viện kiểm sát NDTC phải quyết định kháng nghị hoặc quyết định không kháng nghị tái thẩm. III. XÉT XỬ THEO THỦ TỤC TÁI THẨM. 1 . Thẩm quyền tái thẩm. Về thẩm quyền tái thẩm, Điều 296 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 có quy định về ba cấp tái thẩm: “1. ủy ban Thẩm phán Tòa án nhân dân cấp tỉnh tái thẩm những bản án hoặc quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án nhân dân cấp huyện. ủy ban Thẩm phán Tòa án quân sự cấp quân khu tái thẩm bản án hoặc quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án quân sự khu vực. 2. Tòa hình sự Tòa án nhân dân tối cao tái thẩm những bản án hoặc quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án nhân dân cấp tỉnh. Tòa án quân sự trung ương tái thẩm bản án hoặc quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án quân sự cấp quân khu. 3. Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao tái thẩm bản án hoặc quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Toà án quân sự trung ương, Toà hình sự, các Toà phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao.” - Ủy ban thẩm phán Tòa án nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương xét xử tái thẩm đối với các bản án hoặc quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án nhân dân huyện, quận, thị xã và cấp tương đương . Ủy ban thẩm phán Tòa án quân sự cấp quân khu tái thẩm những bản án hoặc quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án quân sự khu vực . - Tòa hình sự Tòa án nhân dân tối cao xét xử tái thẩm đối với những bản án hoặc quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án nhân tỉnh , thành phố trực thuộc Trung ương và những bản án hoặc quyết định phúc thẩm hoặc giám đốc thẩm của những Tòa án đó. Tòa án quân sự Trung ương tái thẩm những bản án hoặc quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án quân sự cấp quân khu và những bản án hoặc quyết định phúc thẩm, giám đốc thẩm của các Tòa án đó. - Hội đồng thẩm phán TANDTC tái thẩm bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của TAQSTƯ, Tòa hình sự, các Tòa phúc thẩm TANDTC. 2. Thủ tục tái thẩm. Điều 297 Bộ luật tố tụng hình sự quy định về việc tiến hành tái thẩm : “Những quy định tại các điều 280, 281, 282 và 283 của Bộ luật này cũng được áp dụng đối với việc tái thẩm.” Việc chuẩn bị phiên tòa tái thẩm, thủ tục phiên tòa, những người tham gia phiên tòa và thời hạn tái thẩm cũng tương tự các quy định về giám đốc thẩm. - Về những người tham gia theo điều 280 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003.Phiên tòa xét xử phải có sự tham gia của Viện trưởng Viện kiểm sát cùng cấp hoặc Kiểm sát viên được Viện trưởng ủy quyền. Trong những trường hợp cần thiết Tòa án có thể triệu tập đến phiên tòa người đã bị kết án hoặc người bào chữa. - Về thành phần của Hội đồng xét xử tái thẩm phải tuân theo điều 250 của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 sẽ như sau: 1. Hội đồng tái thẩm Tòa hình sự Tòa án nhân dân tối cao hoặc Tòa án quân sự trung ương gồm ba Thẩm phán. Nếu Uỷ ban Thẩm phán Tòa án nhân dân cấp tỉnh, Uỷ ban Thẩm phán Tòa án quân sự cấp quân khu hoặc Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao tái thẩm thì phải có ít nhất hai phần ba tổng số thành viên của Uỷ ban Thẩm phán hoặc Hội đồng Thẩm phán tham gia xét xử. Quyết định tái thẩm của Uỷ ban Thẩm phán hoặc Hội đồng Thẩm phán phải được quá nửa tổng số thành viên của Uỷ ban Thẩm phán hoặc Hội đồng Thẩm phán tán thành. 2. Tại phiên tòa tái thẩm của Uỷ ban Thẩm phán Tòa án nhân dân cấp tỉnh, Uỷ ban Thẩm phán Tòa án quân sự cấp quân khu, Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao khi biểu quyết về nội dung kháng nghị thì phải biểu quyết theo trình tự những ý kiến đồng ý với kháng nghị, những ý kiến không đồng ý với kháng nghị. Nếu không có loại ý kiến nào được quá nửa tổng số thành viên của Uỷ ban Thẩm phán, Hội đồng Thẩm phán biểu quyết tán thành, thì phải hoãn phiên toà. Trong thời hạn ba mươi ngày, kể từ ngày ra quyết định hoãn phiên tòa thì Uỷ ban Thẩm phán, Hội đồng Thẩm phán phải mở phiên tòa xét xử lại vụ án với sự tham gia của toàn thể các thành viên. - Về chuẩn bị phiên tòa và thủ tục phiên tòa tái thẩm cũng tuân theo quy đinh tại Điều 282 Bộ luật hình sự năm 2003 cụ thể là: 1. Chánh án Tòa án phân công một Thẩm phán làm bản thuyết trình về vụ án tại phiên tòa. Bản thuyết trình tóm tắt nội dung vụ án và các bản án, quyết định của các cấp Tòa án, nội dung của kháng nghị. Bản thuyết trình phải được gửi trước cho các thành viên Hội đồng chậm nhất là bảy ngày trước ngày mở phiên tòa tái thẩm. 2. Tại phiên tòa, một thành viên của Hội đồng tái thẩm trình bày bản thuyết trình về vụ án. Các thành viên của Hội đồng tái thẩm phát biểu ý kiến và đại diện Viện kiểm sát phát biểu quan điểm của Viện kiểm sát về việc giải quyết vụ án. Nếu đã triệu tập người bị kết án, người bào chữa, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến việc kháng nghị thì những người này được trình bày ý kiến trước khi đại diện Viện kiểm sát phát biểu. Trong trường hợp họ vắng mặt thì Hội đồng tái thẩm vẫn có thể tiến hành xét xử. - Về thời hạn tái thẩm theo điều 283 Bộ luật hình sự năm 2003 là: Phiên tòa tái thẩm phải được tiến hành trong thời hạn bốn tháng, kể từ ngày nhận được kháng nghị. 3. Thẩm quyền của hội đồng tái thẩm. Căn cứ theo Điều 298 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003, khi xét xử tái thẩm Hội đồng tái thẩm có quyền quyết định : “1. Không chấp nhận kháng nghị và giữ nguyên bản án hoặc quyết định đã có hiệu lực pháp luật; 2. Hủy bản án hoặc quyết định bị kháng nghị để điều tra lại hoặc xét xử lại; 3. Huỷ bản án hoặc quyết định bị kháng nghị và đình chỉ vụ án.” Nếu tình tiết mới được phát hiện dùng làm căn cứ để kháng nghị không xác thực không làm thay đổi nội dung bản án thì Hội đồng thẩm phán quyết định không chấp nhận kháng nghị và giữ nguyên bản án hoặc quyết định đã có hiệu lực pháp luật. Khi xác minh được tình tiết mới được phát hiện là thay đổi cơ bản nội dung của vụ án thì Hội đồng tái thẩm ra quyết định hủy bản án hoặc quyết định đã có hiệu lực pháp luật để điều tra lại hoặc xét xử lại tùy thuộc vào tình tiết mới được phát hiện trong giai đoạn điều tra hay xét xử. Và cũng tùy từng trường hợp cụ thể mà Tòa án cấp tái thẩm quyết định hủy bản án hoặc quyết định đã có hiệu lực pháp luật để giải quyết lại vụ án theo thủ tục sơ thẩm, phúc thẩm hoặc giám đốc thẩm tùy thuộc vào việc phát hiện tình tiết mới ở cấp nào hoặc việc xét xử ở cấp nào là hợp lí. Hội đồng thẩm phán có quyền hủy bản án hoặc quyết định bị kháng nghị và đình chỉ vụ án khi có những căn cứ quy định ở Điều 107 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 về những căn cứ không được khởi tố vụ án hình sự. Việc đình chỉ vụ án có thể là đình chỉ toàn bộ hoặc từng phần, những phần còn lại của bản án hoặc quyết định không bị hủy bỏ có thể được giữ nguyên không cần điều tra , xem xét lại. Bản quyết định tái thẩm được viết tương tự bản quyết định giám đốc thẩm. 4. Hiệu lực của quyết định tái thẩm và việc giao quyết định tái thẩm. Điều 299 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 quy định : “1. Quyết định của Hội đồng tái thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày ra quyết định. 2. Trong thời hạn mười ngày, kể từ ngày ra quyết định, Hội đồng tái thẩm phải gửi quyết định tái thẩm cho người bị kết án, người kháng nghị, Tòa án, Viện kiểm sát, cơ quan Công an nơi đã xử sơ thẩm, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến việc kháng nghị hoặc người đại diện hợp pháp của họ, Cơ quan thi hành án dân sự có thẩm quyền; thông báo bằng văn bản cho chính quyền xã, phường, thị trấn hoặc cơ quan, tổ chức nơi người bị kết án cư trú hoặc làm việc.” Quyết định tái thẩm là chung thẩm nên có hiệu lực ngay từ ngày ra quyết định. Trong thời hạn mười ngày , kể từ ngày ra quyết định, Hội đồng tái thẩm phải gửi quyết định tái thẩm cho những người sau đây: Người bị kết án; Người kháng nghị; Tòa án, Viện kiểm sát, cơ quan Công an nơi xảy đã xử sơ thẩm ; Người có quyền lợi và nghĩa vụ lien quan tới việc kháng nghị hoặc người đại điện hợp pháp của họ ; Cơ quant hi hành án dân sự có thẩm quyền. Ngoài việc làm trên thì Hội đồng tái thẩm còn phải thông báo bằng văn bản cho chính quyền xã, phường, thị trấn hoặc cơ quan, tổ chức nơi người bị kết án cư trú hoặc làm việc. 5. Điều tra lại hoặc xét xử lại vụ án. Trong trường hợp Hội đồng tái thẩm hủy bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật để điều tra lại thì trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày ra quyết định, hồ sơ vụ án phải được chuyển cho Viện kiểm sát có thẩm quyền để điều tra lại theo thủ tục chung. Còn trường hợp Hội đồng tái thẩm hủy bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật để xét xử sơ thẩm lại thì trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày ra quyết định, hồ sơ vụ án phải được chuyển cho Tòa án có thẩm quyền để xét xử theo thủ tục sơ thẩm chung. Các hoạt động tố tụng về điều tra, truy tố, xét xử sơ thẩm và việc kháng cáo ,kháng nghị…đối với các vụ án cần điều tra lại, xét xử lại thì tiết hành theo thủ tục chung quy định trong \bộ luật tố tụng hình sự. Khi điều tra lại ,xét xử lại, các cơ quan điều tra, Tòa án không bị phụ thuộc vào quyết định của cấp tái thẩm. Tòa án cấp sơ thẩm có quyền quyết định bị cáo có tội hay không có tội, Tòa án cấp phúc thẩm cũng xét xử theo thủ ttucj chung và có quyền ra bất cứ một quyết định nào hợp pháp. Các cơ quan tiến hành tố tụng phải nghiên cứu toàn bộ các tình tiết của vụ án một cách khách quan, toàn diện và đầy đủ và không chỉ nghiên cứu những tình tiết mới phát hiện được. Nội dung này được quy định tại Điều 300 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003: “1. Nếu Hội đồng tái thẩm quyết định hủy bản án hoặc quyết định đã có hi

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docBài tập học kỳ TTHS- thủ tục tái thẩm trong tố tụng hình sự.doc
Tài liệu liên quan