Tiểu luận Thủ tục tố tụng về những vụ án mà bị can, bị cáo là người chưa thành niên

Xét xử vụ án hình sự mà bị cáo là người chưa thành niên cũng được tiến hành theo thủ tục chung, nhưng khi xét xử cần phải tuân thủ những quy định sau:

Thứ nhất, theo Khoản 1 Điều 307 BLTTHS năm 2003: “Thành phần của Hội dồng xét xử phải có một Hội thẩm là giáo viên hoặc là cán bộ Đoàn thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh”. Thực tiễn cho thấy thầy, cô giáo cũng như cán bộ Đoàn thanh niên vừa là người quản lý, giáo dục vừa là những nhà tâm lý nên họ hiểu biết nhất định về lứa tuổi này. Việc họ tham gia vào Hội đồng xét xử (HĐXX) giúp cho Tòa án đưa ra quyết định xử lý người chưa thành nên phạm tội đúng pháp luật và nâng cao tác dụng giáo dục đối với những đối tượng này. Bộ Tư pháp đã có Thông tư số 267/QĐTA hướng dẫn bầu Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân như sau: “chú ý cơ cấu Hội thẩm nhân dân là giáo viên, cán bộ Đoàn thanh niên để phù hợp với đặc điểm tình hình địa phương và quy định của BLTTHS”.

Thứ hai, trong những vụ án đối với người chưa thành niên thì việc tham gia của người bào chữa là bắt buộc. Trường hợp bị can, bị cáo hoặc người đại diện hợp pháp của họ không lựa chọn người bào chữa thì Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án yêu cầu Đoàn luật sư phân công văn phòng luật sư cử người bào chữa cho họ, hoặc đề nghị UBMTTQ Việt Nam, tổ chức thành viên của Mặt trận cử người bào chữa cho thành viên của tổ chức mình. Nếu thấy cơ quan tiến hành tố tụng đã yêu cầu Đoàn luật sư cử người bào chữa song bị can, bị cáo không đồng ý thì họ hoặc người đại diên hợp pháp của họ có thể lựa chọn người bào chữa khác, hoặc người đại diện hợp pháp của bị can, bị cáo tự mình bào chữa cho bị can, bị cáo.

 

doc15 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 6437 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tiểu luận Thủ tục tố tụng về những vụ án mà bị can, bị cáo là người chưa thành niên, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
nhất thì nhà trường cũng góp phần hết sức quan trọng vào việc hình thành nhân cách của trẻ. Nhà trường giúp người chưa thành niên rèn luyện tư cách đạo đức, tiếp thu kiến thức và vận dụng vào cuộc sống. Môi trường xung quanh cũng tác động ảnh hưởng không nhỏ đến người chưa thành niên. Thực tế là những hiện tượng tiêu cực ngoài xã hội ảnh hưởng đến đầu óc nhạy cảm và hiếu động của trẻ bởi chúng đang ở lứa tuổi bồng bột không có khả năng tự kiểm soát bản thân. 1.3. Có hay không có người thành niên xúi giục Một vấn đề cần được xác định là người chưa thành niên thực hiện hành vi phạm tội thường có sự tham gia và chỉ huy của người thành niên. Thực tiễn điều tra, truy tố, xét xử cho thấy những vụ án có người thành niên tham gia thì người chưa thành niên thường giữ vai trò thứ yếu. Điều này có nghĩa người chưa thành niên đã bị lôi kéo và bị người thành niên phân công cho thực hiện những hành vi phạm tội nhất định. Trong thực tế, kẻ xấu thường lợi dụng sự bồng bột, cả tin của người chưa thành niên để lôi kéo họ vào con đường phạm tội. Bên cạnh đó còn có sự lôi kéo kích động của người thành niên đối với người chưa thành niên đang ở trong hoàn cảnh khó khăn, đây là nhân tố khiến các em có hành vi phạm tội. Theo điểm i Khoản 1 Điều 46 BLHS năm 1999 thì phạm tội vì bị người khác đe dọa, cưỡng bức là một trong những tình tiết giảm nhẹ. Vì vậy trong những vụ án mà bị can, bị cáo là người chưa thành niên cần phải xác định có người lớn xúi giục hay không. Ngoài ra để phát hiện đồng phạm trong vụ án mà bị can, bị cáo là người chưa thành niên đảm bảo không để lọt kẻ phạm tội, không làm oan người vô tội, các cơ quan tiến hành tố tụng cũng cần xác định xem có người thành niên xúi giục hay không. 1.4. Nguyên nhân và điều kiện phạm tội Muốn đấu tranh phòng, chống tội phạm đối với người chưa thành niên phạm tội có hiệu quả, đồng thời đề ra biện pháp khắc phục và ngăn ngừa hợp lý, chúng ta phải tìm hiểu nguyên nhân và điều kiện dẫn họ đến con đường phạm tội. Trong thực tế cũng như trong lý luận có nguyên nhân và điều kiện không thể phủ nhận được đó là: + Môi trường gia đình, nhà trường, xã hội là những nguyên nhân; + Đặc điểm tâm lý lứa tuổi người chưa thành niên là điều kiện ảnh hưởng và tác động lẫn nhau một cách biện chứng làm phát sinh tội phạm ở người chưa thành niên. Môi trường gia đình, nhà trường, xã hội luôn gắn bó mật thiết với nhau và tác động trực tiếp đến con người, đặc biệt là người chưa thành niên. Những yếu tố tiêu cực trong gia đình, sự buông lỏng quản lý, giáo dục; nhà trường còn thiếu kiên quyết, chưa làm tròn trách nhiệm trong việc quản lý, dạy dỗ học sinh; tình trạng bất cập trong tổ chức cộng đồng, trong quản lý xã hội…ảnh hưởng không nhỏ đến người chưa thành niên. Trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử với những vụ án mà bị can, bị cáo là người chưa thành niên, cơ quan tiến hành tố tụng phải xác định nguyên nhân và và điều kiện phạm tội nhằm: + Đề ra các biện pháp xử lý phù hợp và đúng đắn theo quy định của pháp luật. + Yêu cầu các cơ quan hoặc tổ chức hữu quan áp dụng những biện pháp cần thiết nhằm khắc phục nguyên nhân và điều kiện phát sinh tội phạm tại các cơ quan hoặc tổ chức đó, góp phần vào việc đấu tranh phòng, chống tội phạm có hiệu quả. 2. Quy định về chủ thể tiến hành và tham gia tố tụng 2.1 Người tiến hành tố tụng Khoản 1 Điều 302 BLTTHS năm 2003 quy định: “Điều tra viên, kiểm sát viên, Thẩm phán tiến hành tố tụng đối với người chưa thành niên phạm tội phải là người có những hiểu biết cần thiết về tâm lý học, khoa học giáo dục cũng như vè hoạt động đấu tranh phòng, chống tội phạm của người chưa thành niên”. Để các hoạt động tố tụng trong những vụ án mà bị can, bị cáo là người chưa thành niên diễn ra có hiệu quả, trước hết những người tiến hành tố tụng phải có kiến thức về tâm lý học nói chung và tâm lý người chưa thành niên nói riêng. Trên cơ sở đó người tiến hành tố tụng mới có thể xác định dược hướng tiếp cận và tác động tâm lý bị can, bị cáo là người chưa thành niên; tạo được lòng tin, thái độ hợp tác, cầu thị từ phía người chưa thành niên trong hoạt động tố tụng. Điều này không chỉ quy định trong BLTTHS của nước ta mà còn được quy định ở trong BLHS của hầu hết các nước trên thế giới. Quy tắc Bắc Kinh cũng chỉ rõ: “Ở thành phố lớn cần thành lập những đơn vị cơ sở đặc biệt chuyên giải quyết những trường hợp liên quan tới người chưa thành niên” (Điều 12). Quy định của BLTTHS Việt Nam hoàn toàn phù hợp với quy tắc này. Tuy nhiên theo quy định tại Điều 302 BLTTHS năm 2003 cũng mới chỉ đề cập tới việc Điều tra viên, Kiểm sát viên, Thẩm phán phải là người có những hiểu biết cần thiết về tâm lý học, khoa học giáo dục cũng như về hoạt động đấu tranh phòng, chống tội phạm người chưa thành niên chứ không nhất thiết phải là những người được đào tạo về lĩnh vực đó. Điều này cũng gây ảnh hưởng tới chất lượng điều tra, truy tố, xét xử bị can, bị cáo là người chưa thành niên. Thực tế ở nước ta hiện nay cũng chưa có cơ quan tiến hành tố tụng chuyên trách để điều tra, truy tố, xét xử đối với người chưa thành niên. Đối với hội thẩm khi tham gia xét xử những vụ án mà bị cáo là người chưa thành niên, Luật không quy định phải có những điều kiện trên nhưng trong Hội đồng xét xử phải có một Hội thẩm nhân dân là giáo viên hoặc cán bộ Đoàn thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh. 2.2 Người tham gia tố tụng Về cơ bản bị can, bị cáo là người chưa thành niên cũng có các quyền và nghĩa vụ như đối với bị can, bị cáo thành niên được quy định tại Điều 49, Điều 50 BLTTHS năm 2003. Tuy nhiên do những hạn chế về tâm sinh lý mà bị can, bị cáo là người chưa thành niên có thể không tự mình thực hiện được một số các quyền và nghĩa vụ cho nên để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của họ, BLTTHS đã quy định một số quyền và nghĩa vụ đặc biệt dành cho bị can, bị cáo là người chưa thành niên, trong đó có quyền bào chữa được quy định tại Điều 305 BLTTHS năm 2003. “Trong trường hợp bị can, bị cáo là người chưa thành niên hoặc người đại diện hợp pháp của họ không lựa chọn được người bào chữa thì Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án phải yêu cầu Đoàn luật sư phân công Văn phòng luật sư cử người bào chữa cho họ hoặc đề nghị Ủy ban Mặt trận tổ quốc (UBMTTQ) Việt Nam, tổ chức thành viên của Mặt trận cử người bào chữa cho thành viên của tổ chức mình”. (Khoản 2 Điều 305) Theo quy định tại Khoản 2 Điều 57 BLTTHS năm 2003, sau khi Đoàn luật sư đã cử người bào chữa thì bị can, bị cáo là người chưa thành niên hoặc người đại diện hợp pháp của họ vẫn có quyền yêu cầu thay đổi hoặc từ chối người bào chữa. Trong trường hợp chấp nhận yêu cầu thay đổi người bào chữa của bị can, bị cáo là người chưa thành niên và người đại diện hợp pháp, cơ quan tiến hành tố tụng phải có trách nhiệm yêu cầu Đoàn luật sư cử người bào chữa khác cho họ. Đối với quyền từ chối bào chữa của bị can, bị cáo là người chưa thành niên và người đại diện hợp pháp thì có thể hiểu là họ có quyền hoàn toàn từ chối. Họ không cần sự giúp đỡ của luật sư và tự mình thực hiện quyền bào chữa. Thực tế đã xảy ra những trường hợp bị can, bị cáo là người chưa thành niên hoặc người đại diện hợp pháp của họ từ chối sự giúp đỡ, hỗ trợ về mặt pháp lý của luật sư vì họ không được giải thích về nội dung của quyền bào chữa. Ví dụ: họ không hiểu biết về chế độ thù lao cho luật sư hay những trưỡng trường hợp được giúp đỡ mà không phải trả tiền. Trong những trường hợp này cơ quan tiến hành tố tụng phải giải thích cho bị can, bị cáo chưa thành niên hoặc người đại diện hợp pháp biết rõ về quyền của họ trong tố tụng. Đặc biệt là vai trò của người bào chữa trong việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho họ. Người chưa thành niên dù ở mức độ tuổi nào thì vẫn là người còn phụ thuộc nhất định vào gia đình, nhà trường, xã hội. Mặt khác nguyên tắc xử lý những người chưa thành niên phạm tội chủ yếu nhằm giáo dục, giúp đỡ họ sửa chữa sai lầm, phát triển lành mạnh trở thành công dân có ích cho xã hội. Chính vì vậy sự tham gia của gia đình, nhà trường và các tổ chức xã hội trong những vụ án mà bị can, bị cáo là người chưa thành niên vùa là quyền vừa là nghĩa vụ bắt buộc, nhằm động viên toàn xã hội tham gia vào việc chăm sóc, giáo dục người chưa thành niên và giúp các cơ quan tiến hành tố tụng giải quyết vụ án có hiệu quả. Khoản 1 Điều 306 BLTTHS năm 2003 quy định: “ Đại diện của gia đình, người bị tạm giữ, bị can, bị cáo; thầy giáo, cô giáo, đại diện nhà trường, Đoàn thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh, tổ chức khác nơi người bị tạm giữ, bị can, bị cáo học tập, lao động và sinh sống có quyền và nghĩa vụ tham gia tố tụng theo quyết định của Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án”. 3. Việc áp dụng, thay đổi, hủy bỏ biện pháp ngăn chặn và giám sát bị can, bị cáo là người chưa thành niên Do đặc điểm tâm, sinh lý của người chưa thành niên mà việc thực hiện, áp dụng các biện pháp ngăn chặn đối với bị can, bị cáo là người chưa thành niên phải được xem xét một cách rất thận trọng, nhất là trường hợp bắt, tạm giữ, tạm giam. Thực tiễn đấu tranh phòng và chống tội phạm dã chỉ ra rằng, áp dụng biện pháp ngăn chặn đối với bị can, bị cáo là người chưa thành niên khi chưa thực sự cần thiết có thể gây ảnh hưởng rất lớn đến quá trình trưởng thành của họ. Chính vì vậy, Điều 303 BLTTHS năm 2003 quy định: “1. Người từ đủ 14 tuổi đến dướ 16 tuổi có thể bị bắt, tạm giữ, tạm giam nếu có đủ căn cứ quy định tại các Điều 80, 81, 82, 86, 88 và 120 của Bộ luật này, nhưng chỉ trong những trường hợp phạm tội rất nghiêm trọng do cố ý hoặc pham tội đặc biệt nghiêm trọng. 2. Người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi có thể bị bắt, tạm giữ, tạm giam nếu có đủ căn cứ quy định tại các Điều 80, 81, 82, 86, 88 và 120 của Bộ luật này nhưng chỉ trong những trường hợp phạm tội nghiêm trọng do cố ý, phạm tội rất nghiêm trọng hoặc phạm tội đặc biệt nghiêm trọng”. Khi áp dụng các biện pháp ngăn chặn đối với các bị can, bị cáo là người chưa thành niên thì ngoài việc phải tuân thủ các quy định chung, các cơ quan có thẩm quyền còn phải đảm bảo thực hiện đúng và đầy đủcác quy định tại Điều 303 BLTTHS. Nếu xét thấy việc áp dụng các biện pháp trên là không cần thiết, Tòa án có thể ra quyết định giao bị can, bị cáo là người chưa thành niên cho cha mẹ, người đỡ đầu của họ giám sát để đảm bảo sự có mặt của bị can, bị cáo khi có giấy triệu tập của cơ quan tiến hành tố tụng So với quy định trước đây trong BLTTHS năm 1988 thì việc quy định như hiện nay đã cụ thể, rõ ràng và phù hợp với BLHS năm 1999, đảm bảo được quyền và lợi ích của người chưa thành niên hơn. Nếu như trong quy định trước đây (Điều 278 BLTTHS năm 1988) áp dụng việc bắt, tạm giữ, tạm giam đối với người chưa thành niên “trong những trường hợp phạm tội nghiêm trọng” thì BLTTHS năm 2003 chia việc áp dụng thủ tục này cho hai đối tượng (từ đủ 14 tuổi đến 16 tuổi và từ 16 tuổi đến 18 tuổi) và mức thấp nhất để có thể áp dụng bieenj pháp ngăn chặn là người chưa thành niên từ 16 tuôi đến 18 tuổi trong “trường hợp phạm tội nghiêm trọng do cố ý”. Đồng thời BLTTHS năm 2003 có thêm quy định về căn cứ mà người chưa thành niên có thể bị bắt, tạm giữ, tạm giam là Điều 88 quy định về “Tạm giam”. Điều này thể hiện tính nghiêm minh của Đảng và nhà nước ta trong việc áp dụng các biện pháp ngăn chặn bắt, tạm giữ, tạm giam. Và một ý nghĩa vô cùng quan trọng là tránh cho người chưa thành niên bị ảnh hưởng tâm lý nặng nề từ sự quá nghiêm khắc của các biện pháp ngăn chặn này. Nếu xét thấy việc áp dụng các biện pháp ngăn chặn đối với người chưa thành niên là không cần thiết Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án có thể ra quyết định giao bị can, bị cáo chưa thành niên cho cha mẹ, người đỡ đầu của họ giám sát để đảm bảo sự có mặt của bị can, bị cáo khi có giấy triệu tập của cơ quan tiến hành tố tụng. 4. Quy định về các thủ tục tố tụng trong các giai đoạn tố tụng 4.1. Trong khởi tố, điều tra, truy tố Hoạt động khởi tố, điều tra, truy tố trong những vụ án mà bị can là người chưa thành niên cũng được tiến hành theo thủ tục chung mà BLTTHS đã quy định. Nhưng khi tiến hành các hoạt động tố tụng nói trên cần phải chú ý những điểm sau: Thứ nhất, chỉ ra quyết định khởi tố bị can khi người đó đủ tuổi chịu TNHS theo Điều 12 BLHS năm 1999; thứ hai, trong trường hợp đã có quyết định khởi tố bị can là người chưa thành niên thì áp dụng các biện pháp điều tra đối với họ nên có mặt đại diện gia đình bị can, thầy giáo, cô giáo, đại diện nhà trường, Đoàn thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh và các tổ chức xã hội khác… Trong quá trình điều tra, truy tố đối với người chưa thành niên cần phải đặc biệt chú ý năm vững nhân thân của họ. Muốn vậy phải lấy lời khai của những người làm chứng gần gũi với bị can, bị cáo nhất. Cha mẹ, thầy giáo, cô giáo…hơn ai hết là người hiểu rất rõ khía cạnh tâm lý và nhân thân bị can, bị cáo cho nên họ có quyền và phải được tham gia tố tụng theo quy định của pháp luật. Điều 306 BLTTHS năm 2003 nêu rõ: “Trong trường hợp người bị tạm giữ, bị can là người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi hoặc là người chưa thành niên có nhược điểm về tâm thần hoặc thể chất hoặc trong những trường hợp cần thiết khác, thì việc lấy lời khai, hỏi cung những người này phải có mặt đại diện của gia đình, trừ trường hợp đại diện gia đình cố ý vắng mặt mà không có lý do chính đáng. Đại diện gia đình có thể hỏi người bị tạm giữ, bị can nếu được điều tra viên đồng ý; được đưa ra tài liệu, đồ vật, yêu cầu, khiếu nại; đọc hồ sơ vụ án khi kết thúc điều tra”. 4.2. Trong việc xét xử Xét xử vụ án hình sự mà bị cáo là người chưa thành niên cũng được tiến hành theo thủ tục chung, nhưng khi xét xử cần phải tuân thủ những quy định sau: Thứ nhất, theo Khoản 1 Điều 307 BLTTHS năm 2003: “Thành phần của Hội dồng xét xử phải có một Hội thẩm là giáo viên hoặc là cán bộ Đoàn thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh”. Thực tiễn cho thấy thầy, cô giáo cũng như cán bộ Đoàn thanh niên vừa là người quản lý, giáo dục vừa là những nhà tâm lý nên họ hiểu biết nhất định về lứa tuổi này. Việc họ tham gia vào Hội đồng xét xử (HĐXX) giúp cho Tòa án đưa ra quyết định xử lý người chưa thành nên phạm tội đúng pháp luật và nâng cao tác dụng giáo dục đối với những đối tượng này. Bộ Tư pháp đã có Thông tư số 267/QĐTA hướng dẫn bầu Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân như sau: “chú ý cơ cấu Hội thẩm nhân dân là giáo viên, cán bộ Đoàn thanh niên…để phù hợp với đặc điểm tình hình địa phương và quy định của BLTTHS”. Thứ hai, trong những vụ án đối với người chưa thành niên thì việc tham gia của người bào chữa là bắt buộc. Trường hợp bị can, bị cáo hoặc người đại diện hợp pháp của họ không lựa chọn người bào chữa thì Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án yêu cầu Đoàn luật sư phân công văn phòng luật sư cử người bào chữa cho họ, hoặc đề nghị UBMTTQ Việt Nam, tổ chức thành viên của Mặt trận cử người bào chữa cho thành viên của tổ chức mình. Nếu thấy cơ quan tiến hành tố tụng đã yêu cầu Đoàn luật sư cử người bào chữa song bị can, bị cáo không đồng ý thì họ hoặc người đại diên hợp pháp của họ có thể lựa chọn người bào chữa khác, hoặc người đại diện hợp pháp của bị can, bị cáo tự mình bào chữa cho bị can, bị cáo. Theo quy định tài Khoản 1 Điều 57 BLTTHS năm 2003 và Nghị quyết 03/2004/NQ-HĐTP ngày 02/10//2004 của HĐTP TANDTC hướng dẫn thi hành một số quy định trong “Phần thứ nhất” BLTTHS năm 2003 thi người báo chữa do bị can, bị cáo hoặc người đại diện hợp pháp của họ lựa chọn. Cũng theo quy định tại Khoản 2 Điều 57 nếu bị can, bị cáo là người chưa thành niên hoặc người đại diện hợp pháp của họ không mời người bào chữa thì cơ quan tiến hành tố tụng phải có trách nhiệm mời người bào chữa cho họ theo quy định của pháp luật. Cũng theo tinh thần của Nghị quyết 03/2004/NQ-HĐTP trong trường hợp bị cáo là người chưa thành niên …mà cả bị cáo và người đại diện hợp pháp của bị có vẫn giữ nguyên ý kiến từ chối người bào chữa, thì cần phải ghi vào biên bản phiên tòa và tiến hành xét xử vụ án theo thủ tục chung mà không có sự tham gia của người bào chữa đã được cử. Nếu chỉ có bị cáo từ chối còn người đại diện hợp pháp của bị cáo không từ chối hoặc ngược lại thì tiến hành xét xử vụ án theo thủ tục chung có sự tham gia của người bào chữa đã được cử. Thứ ba, tại phiên tòa xét xử, sự tham gia của đại diện gia đình bị có, đại diên nhà trường, tổ chức xã hội là bắt buộc. Quy định này giúp Tòa án hiểu rõ hơn về nhân thân bị cáo và áp dụng biện pháp xử lý phù hợp nhằm giáo dục, cải tạo bị cáo. Theo quy định tại Thông tư 03/TTLN ngày 20/6/1992 của TANDTC – VKSNDTC – Bộ Nội Vụ, thì trong trường hợp không xác minh được lý lịch của bị cáo thì tại phiên tòa xét xử không nhất thiết phải có mặt đại diện gia đình, nhà trường, tổ chức xã hội. Thứ tư, việc xét xử vụ án hình sự nói chung được tiến hành công khai, mọi người đều có quyền tham dự phiên tòa. Trong trường hợp cần thiết Tòa án có thể xử kín (Điều 307 BLTTHS năm 2003) như trường hợp cần giữ bí mật đời tư của bị cáo hoặc của người bị hại… Trong trường hợp xét xử kín Tòa án vẫn phải tuyên án công khai. Thứ năm, khi xét xử tùy vào tính chất của từng vụ án cụ thể, nếu thấy không cần thiết phải áp dụng hình phạt đối với bị cáo thì Tòa án áp dụng biện pháp tư pháp nhằm giáo dục người phạm tội và phòng ngừa tội phạm. Biện pháp tư pháp áp dụng với người chưa thành niên bao gồm: + Giáo dục tại xã, phường, thị trấn; + Đưa vào trường giáo dưỡng. Ngoài ra khi áp dụng hình phạt đối với người chưa thành niên phạm tội cần chú ý xem xét các điều kiện áp dụng cụ thể của từng loại hình áp dụng, đó là: + Không áp dụng hình phạt tù chung thân, tử hình đối với người chưa thành niên phạm tội; + Chỉ áp dụng hình phạt tiền dối với người chưa thành niên từ đủ 16 tuổi trở lên có thu nhập; + Người chưa thành niên bị cải tạo không giam giữ thì không bị khấu trừ thu nhập; + Mức phạt tiền, cải tạo không giam giữ, phạt tù đối với bị cáo chưa thành niên được áp dụng thấp hơn so với bị cáo thành niên theo quy định của Điều 72, 73 và 74 BLHS năm 1999. 4.3. Trong thi hành án Với người bị kết án là người chưa thành niên, khi thi hành án ngoài tuân thủ những quy định chung của BLTTHS còn phải đảm bảo những thủ tục đặc biệt dành cho họ được thực hiện. Có như vậy việc thi hành án mới đạt hiệu quả, các quyền lợi của người chưa thành niên mới được bảo vệ và uy tín của của nhà nước mới được nâng cao. - Các hình phạt được áp dụng đối với bị cáo là người chưa thành niên bao gồm: cảnh cáo, cải tạo không giam giữ và tù có thời hạn. Án đã tuyên đối với người chưa thành niên phạm tội khi chưa đủ 16 tuổi, thì không tính để xác định tái phạm hoặc tái phạm nguy hiểm. Cảnh cáo được áp dụng đối với người phạm tội ít nghiêm trọng và có nhiều tình tiết giảm nhẹ quy định tại Điều 46 BLHS năm 1999 nhưng chưa đến mức miễn hình phạt. Nếu người chưa thành niên phải chấp hành hình phạt tù thì họ phải được giam giữ riêng theo chế độ do pháp luật quy định. Không được giam giữ chung người chưa thành niên với người thành niên. Trong thời gian đang chấp hành hình phạt tù, họ phải được học nghề, học văn hóa. Thực tiễn cho thấy người chưa thành niên sau khi mãn hạn tù mà không có một nghề nghiệp cố định nào đó, họ rất có thể lại phạm tội. Trong thời gian đang chấp hành hình phạt tù, nếu người chưa thành niên đã đủ 18 tuổi phải chuyển người đó sang chế độ giam giữ người đã thành niên. Sau khi đã chấp hành hình phạt tù, Ban giám thị trại giam phải phối hợp với chính quyền xã, phường và tổ chức xã hội ở địa phương giúp đỡ họ trở về với cuộc sống bình thường trong xã hội (Điều 308 BLTTHS năm 2003). Các cơ quan tổ chức nêu trên có thể tạo cho họ có công ăn, việc làm hoặc tham gia hoạt động xã hội, nhằm giúp đỡ họ trở thành người lương thiện đồng thời khắc phục nguyên nhân và điều kiện dẫn họ đến tình trạng phạm tội. Những quy định trên của BLTTHS Việt Nam hoàn toàn phù hợp với Quy tắc Bắc Kinh, đó là trong khi bị giam giữ trẻ em phải được chăm sóc và nhận tất cả sự giúp đỡ riêng cần thiết về mặt xã hội, giáo dục dạy nghề, tâm lý, y tế và vật chất. - Theo Điều 309 BLTTHS năm 2003, người chưa thành niên bị kết án có thể được chấm dứt việc chấp hành biện pháp tư pháp , được giảm hoặc miễn chấp hành hình phạt như sau: + Đối với người chưa thành niên phạm tội, Tòa án có thể áp dụng một trong các biện pháp tư pháp có tính chất giáo dục, phòng ngừa theo quy định tại Điều 70 BLTTHS năm 1999: Thứ nhất, giáo dục tại xã, phường, thị trấn. Biện pháp này tạo điều kiện cho người chưa thành niên học tập tại cộng dồng và chứng tỏ sự hối cải của mình ngay trong môi trường xã hội bình thường, dưới sự giám sát, giúp đỡ của Ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn, tổ chức xã hội và gia đình. Tòa án có thể áp dụng biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn từ một đến hai năm đối với người chưa thành niên phạm tội ít nghiêm trọng hoặc tội nghiêm trọng. Người được áp dụng biên pháp này phải chấp hành đầy đủ những nghĩa vụ về học tập, lao động, tuân theo pháp luật dưới sự giám sát, giáo dục của chính quyền xã, phường, thị trấn và tổ chức xã hội được Tòa án giao trách nhiệm. Thứ hai, đưa vào trường giáo dưỡng. Đây là biên pháp tư pháp do Tòa án áp dụng đối với người chưa thành niên nếu thấy không cần thiết phải áp dụng hình phạt đối với họ, nhưng do tính chất của hành vi phạm tội, do nhân thân và môi trường sống của người đó mà cần phải đưa người đó vào trường giáo dưỡng. Biện pháp này có thể được Tòa án áp dụng trong thời hạn từ một đến hai năm kể từ ngày người chấp hành biên pháp này được tiếp nhận vào trường giáo dưỡng. Để giúp người chưa thành niên học tập, rèn luyện tiến bộ, phát triển lành mạnh về thể chất, tinh thần, trí tuệ và trở thành người lương thiện, có ích cho xã hội , có khả năng hòa nhập cộn

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docBài tập học kỳ- Thủ tục tố tụng về những vụ án mà bị can, bị cáo là người chưa thành niên.doc
Tài liệu liên quan