Tiểu luận Thực trạng áp dụng luật thuế thu nhập cá nhân tại Việt Nam

 

MỤC LỤC

 

A. LỜI MỞ ĐẦU 1

B. NỘI DUNG 2

I. TỔNG QUAN VỀ LUẬT THUẾ THU NHẬP CÁ NHÂN 2

1. Khái niệm thuế thu nhập cá nhân 2

2. Sự cần thiết xây dựng luật thuế Thu nhập cá nhân 2

3. Vai trò của thuế Thu nhập cá nhân 3

3.1. Thuế thu nhập cá nhân là một công cụ phân phối đảm bảo công bằng xã hội 3

3.2. Thuế thu nhập cá nhân là một công cụ đảm bảo nguồn thu quan trọng cho Ngân sách nhà nước 4

3.3. Thuế thu nhập cá nhân góp phần điều tiết vĩ mô nền kinh tế 4

4. Nguyên tắc và phương pháp đánh thuế Thu nhập cá nhân 5

4.1. Nguyên tắc đánh thuế thu nhập cá nhân 5

a/ Đánh thuế trên cơ sở thu nhập chịu thuế hiện hữu 5

b/ Đánh thuế thu nhập cá nhân theo phương pháp lũy tiến 5

4.2. Phương pháp đánh thuế thu nhập cá nhân 6

a/ Đánh thuế theo từng nguồn hình thành thu nhập 6

b/ Đánh thuế trên tổng thu nhập 6

c/ Đánh thuế hỗn hợp 6

5. Cơ sở xây dựng luật thuế thu nhập cá nhân. 7

5.1. Xác định thu nhập chịu thuế 7

5.2. Xác định các khoản thu nhập miễn trừ 8

5.3. Thuế suất thuế thu nhập cá nhân 8

5.4. Phương pháp quản lý thu nộp thuế 9

II/ THỰC TRẠNG ÁP DỤNG LUẬT THUẾ THU NHẬP CÁ NHÂN TẠI VIỆT NAM 9

1. Những đặc trưng cơ bản của thuế thu nhập cá nhân (TNCN) hiện nay 9

2. Thực tiễn thi hành pháp luật thuế TNCN hiện nay 11

3. Những hạn chế của pháp luật thuế TNCN hiện hành 13

III. PHƯƠNG HƯỚNG HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT THUẾ THU NHẬP CÁ NHÂN Ở VIỆT NAM 15

1. Những yêu cầu có tính nguyên tắc trong việc xây dựng Luật thuế TNCN ở Việt Nam 15

2. Một số kiến nghị cụ thể đóng góp cho việc xây dựng dự thảo Luật thuế TNCN 18

C. KẾT LUẬN 22

 

 

doc25 trang | Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 4105 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tiểu luận Thực trạng áp dụng luật thuế thu nhập cá nhân tại Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
của thuế thu nhập cá nhân là áp dụng biểu thuế lũy tiến, tức là mức thuế tăng lên một cách lũy tiến theo mức thu nhập tăng lên. Thuế suất lũy tiến được coi là phương pháp hiệu quả nhất để đánh thuế theo “khả năng nộp thuế” của cá nhân. Tuy nhiên trong thực tế để tính được mức lũy tiến đó là điều không đơn giản. Xung quanh vấn đề áp dụng nguyên tắc lũy tiến đối với thuế thu nhập cũng có nhiều ý kiến khác nhau. Có ý kiến cho rằng, tính lũy tiến của thuế thu nhập cũng cần có giới hạn và khi áp dụng nguyên tắc lũy tiến cũng cần phân biệt nguồn gốc của các loại thu nhập để phát huy vai trò điều chỉnh của thuế thu nhập. Nhưng cũng có quan điểm cho rằng làm như vậy sẽ gây phức tạp trong việc thiết kế thuế suất, vì không nên dùng các loại thuế khác nhau cho thu nhập phát sinh từ các nguồn thu nhập khác mà nên áp dụng các khoản miễn, giảm thuế để đảm bảo chức năng của thuế thu nhập hoặc áp dụng thuế lũy tiến từng phần. 4.2. Phương pháp đánh thuế thu nhập cá nhân Về lý thuyết, tồn tại ba mô hình đánh thuế thu nhập cá nhân: a/ Đánh thuế theo từng nguồn hình thành thu nhập Đánh thuế theo từng nguồn hình thành thu nhập là phương pháp áp dụng một thuế suất tương ứng cho từng nguồn thu nhập phát sinh. Tương ứng với mỗi nguồn thu nhập khác nhau, người ta tính các chi phí được trừ của từng loại thu nhập( nhiều trường hợp chi phí có thể được trừ hoặc không được trừ) và gán cho mỗi loại thu nhập đó các mức thuế suất phân biệt. Số thuế phải nộp là tổng hợp số thuế thu nhập mà người nộp thuế phải nộp theo từng nguồn. Các nhà kinh tế cho rằng, phương pháp này khó trốn thuế hơn, vì nó thu “theo sát từng nguồn thu nhập”. b/ Đánh thuế trên tổng thu nhập Phương pháp này tiến hành thuế trên tổng thu nhập, bao gồm tất cả các khoản thu nhập nhận được không phân biệt nguồn phát sinh thu nhập và chi phí tạo ra thu nhập. Tổng thu nhập và tổng chi phí sẽ được xem xét trên một tổng thể và đánh thuế trên phần chênh lệch giữa tổng thu nhập và tổng chi phí. Việt phân ra từng loại thu nhập không có ý nghĩa. Do đó ưu điểm là đơn giản và có thể áp dụng được biểu thuế lũy tiến khi đánh thuế nên phương pháp này đang được áp dụng rất rộng rãi ở các nước phát triển. c/ Đánh thuế hỗn hợp Thuế thu nhập cá nhân có thể được đánh theo cách kết hợp cả hai phương pháp kể trên. Ban đầu đánh thuế theo từng nguồn hình thành thu nhập, sau đó tổng hợp tất cả các nguồn lại và đánh trùm lên tổng thu nhập một mức thuế nữa. Phương pháp này cho phép áp dụng thuế suất lũy tiến ngoài thuế suất thông thường đánh trên từng loại thu nhập. Cách đánh thuế này đảm bảo sự chính xác nhưng lại phức tạp khi tính toán. 5. Cơ sở xây dựng luật thuế thu nhập cá nhân. Mặc dù ở mỗi nước, Luật thuế thu nhập cá nhân được xây dựng khác nhau tùy theo tính đặc thù của từng nước. Bởi vậy, giữa các nước sẽ có sự khác nhau trong xác định thu nhập chịu thuế, thuế suất, miễn, giảm thuế… Tuy nhiên, khi xây dựng chính sách, luật thuế thuế thu nhập cá nhân các quốc gia đều quan tâm giải quyết các vấn đề sau đây: 5.1. Xác định thu nhập chịu thuế Thu nhập chịu thuế của một cá nhân trong ký tính thuế là tổng thu nhập trừ đi tổng các khoản được giảm trừ. Tổng thu nhập của đối tượng nộp thuế là tổng thu nhập được xác định cơ sở để tính thu nhập chịu thuế mà đối tượng nộp thuế đó kiếm được trong kỳ tính thuế. Do đó, tổng thu nhập của một đối tượng sẽ không bao gồm những khoản miễn giảm thuế. Để xác định tổng thu nhập cần phải xác định từng khoảng cấu thành tổng thu nhập theo từng loại thu nhập cụ thể, tức là xem xét tổng thu nhập được hình thành từ những nguồn nào. Tuy nhiên, không phải mọi khoản thu nhập của người nộp thuế đều đưa vào đối tượng tính thuế. Tùy theo mục đích đánh thuế mà có khoản thu nhập không đưa vào đối tượng đánh thuế. Trong thực tế, khi xây dựng các quy định tính thuế cần xác định rõ ràng những khoản nào nằm trong tổng thu nhập chịu thuế và những khoản nào nằm trong tổng thu nhập không chịu thuế. Muốn xác định thu nhập chịu thuế chính xác cần phải xem xét các khoản sau đây: - Nguồn gốc của thu nhập: + Thu nhập từ lao động + Phúc lợi của người làm công + Thu nhập từ hoạt động kinh doanh + Thu nhập từ vốn, tài sản hay gọi là thu nhập từ đầu tư + Các khoản thu nhập bất thường khác - Đánh thuế trên cơ sở cư trú hay nguồn phát sinh thu nhập 5.2. Xác định các khoản thu nhập miễn trừ Một trong những đặc điểm quan trọng của thuế thu nhập cá nhân là có tính tới hoàn cảnh của từng cá nhân cần phải được xem xét khi xác định thu nhập chịu thuế. Các khoản được giảm trừ có thể được thực hiện dưới hai dạng: miễn trừ cá nhân và miễn trừ tiêu chuẩn. Miễn trừ cá nhân được thực hiện theo phương pháp kê khai chi phí thực tế phát sinh đối với các khoản được phép giảm trừ. Đối với phương pháp này, một số khoản chi phí kê khai sẽ đòi hỏi phải có chứng từ chứng minh, một số khoản được thực hiện theo phương pháp định mức và một số khoản có thể được thực hiện theo phương pháp “giới hạn tối đa”. Thông thường, có hai loại giảm trừ cá nhân là: giảm trừ có tính chất kinh tế và giảm trừ có tính chất xã hội. Phương pháp giảm trừ tiêu chuẩn tuy không công bằng vì mức chi phí cần thiết được cân bằng giữa các đối tượng nộp thuế nhưng lại đảm bảo cho thuế thu nhập cá nhân dễ tính toán, đơn giản hơn trên cơ sở đó tiết kiệm chi phí hành thu và chi phí chấp hành, tuân thủ luật thuế. 5.3. Thuế suất thuế thu nhập cá nhân Đối với thuế thu nhập cá nhân, thông thường người ta áp dụng biểu thuế suất lũy tiến. Có hai loại thuế suất lũy tiến là lũy tiến toàn phần và lũy tiến từng phần (còn gọi là thuế suất đơn nhất kết hợp với ngưỡng tính thuế). Mỗi loại thuế suất lũy tiến có hiệu quả điều tiết khác nhau, trong đó biểu thuế lũy tiến từng phần được coi là đảm bảo công bằng hơn và không gây ra mâu thuẫn “mức tăng của thuế lớn hơn mức tăng của căn cứ tính thuế” tại điểm tiếp giáp giữa hai bậc thuế. 5.4. Phương pháp quản lý thu nộp thuế Thuế thu nhập có thể được thu theo phương pháp khấu trừ tại nguồn hoặc phương pháp thu trực tiếp. - Phương pháp khấu trừ tại nguồn được áp dụng cho các khoản thu nhập phát sinh có tính chấp ổn định như thu nhập từ lương, tiền công. Theo phương pháp này, người hoặc cơ quan chi trả thu nhập phải tiến hành khấu trừ trước số thuế phải nộp của cá nhân để nộp cho cơ quan thuế, sau đó mới tiến hành chi trả phần còn lại cho người được hưởng. Cơ quan hoặc người được ủy nhiệm khấu trừ thông thường được trích lại một tỷ lệ thù lao nhất định song phải chịu trách nhiệm trước pháp luật về nghĩa vụ khấu trừ thuế thu nhập trước khi chi trả thu nhập. - Phương pháp thu trực tiếp: Thuế thu nhập cá nhân là thuế đánh vào phần thu nhập của cá nhân, do đó để thuế thu được sát đúng với mức thu nhập của từng cá nhân thì cần để cho người nộp thuế tự khai thu nhập của mình. Đó là cơ sở ra đời phương pháp thu trực tiếp. Phương pháp thu trực tiếp được thực hiện trên cơ sở người nộp thuế tự kê khai thu nhập và gửi cho cơ quan thuế. Cơ quan thuế xác định số thuế phải nộp dự trên số liệu kê khai về thu nhập, về các khoản được phép khấu trừ, giảm trừ … kết hợp với sự thẩm tra, kiểm soát của cơ quan thuế. Phương pháp này tuy phức tạp nhưng đảm bảo tính chính xác vì khả năng tổng hợp nhiều nguồn thu nhập và gắn với hoàn cảnh cá nhân của người nộp thuế. II/ THỰC TRẠNG ÁP DỤNG LUẬT THUẾ THU NHẬP CÁ NHÂN TẠI VIỆT NAM 1. Những đặc trưng cơ bản của thuế thu nhập cá nhân (TNCN) hiện nay Thuế thu nhập là sắc thuế trực thu được ban hành nhằm phân phối một phần thu nhập của các cá nhân, doanh nghiệp cho nhà nước. Thuế thu nhập thường được phân chia thành hai loại là thuế thu nhập doanh nghiệp và thuế thu nhập cá nhân. Thuế thu nhập doanh nghiệp có đối tượng chịu thuế là thu nhập từ hoạt động kinh doanh, mà chủ yếu là các loại hình doanh nghiệp. Trong khi đó, thuế TNCN là loại thuế có đối tượng chịu thuế là thu nhập của các cá nhân. Cá biệt có một số quốc gia, thuế TNCN được xác định như là một loại thuế mà chủ thể nộp thuế là hộ gia đình, hoặc nhà nước ban hành thuế thu nhập áp dụng chung cho cả doanh nghiệp và cá nhân. Thuế TNCN ở Việt Nam hiện nay được quy định trong Pháp lệnh thuế thu nhập đối với người có thu nhập cao. Do mục đích ban hành là chỉ nhằm điều tiết thu nhập đối với những cá nhân được coi là có thu nhập cao, nên phạm vi điều chỉnh của loại thuế này ở Việt Nam về cơ bản là hẹp hơn thuế TNCN ở những quốc gia khác. Ngoài những đặc trưng chung của một sắc thuế, thuế thu nhập đối với người có thu nhập cao hiện hành có một số đặc trưng sau đây: 1.1. Thuế TNCN hiện nay hướng đến những cá nhân có thu nhập cao, với mục đích kiến tạo sự công bằng hơn là mục tiêu tăng thu ngân sách. Ngay trong phần mở đầu của Pháp lệnh thuế thu nhập đối với người có thu nhập cao năm 1991 đã nêu rõ, việc ban hành sắc thuế này là để: “góp phần thực hiện công bằng xã hội, động viên một phần thu nhập của cá nhân có thu nhập cao cho ngân sách nhà nước”. Có thể nhận thấy trong suốt thời gian qua, thuế TNCN mặc dù đã qua nhiều lần sửa đổi nhưng mục đích chỉ thu thuế đối với những người có thu nhập vượt hơn hẳn mức thu nhập bình quân của một cá nhân vẫn được duy trì. 1.2. Thuế TNCN hiện nay không áp dụng đối với thu nhập có nguồn gốc kinh doanh của cá nhân. Hiện nay, thu nhập từ hoạt động kinh doanh của cá nhân, hộ gia đình chịu sự điều chỉnh của pháp luật thuế thu nhập doanh nghiệp. Mặc dù các chủ thể trên đây không phải là doanh nghiệp nhưng việc quy định này có ý nghĩa như là sự khuyến khích đối với hoạt động kinh doanh của cá nhân vì thuế thu nhập doanh nghiệp không đánh thuế theo thuế suất luỹ tiến. 2. Thực tiễn thi hành pháp luật thuế TNCN hiện nay Thời gian qua, việc thực thi pháp luật thuế thu nhập đối với người có thu nhập cao đã đem lại những kết quả nhất định. Một là, thuế thu nhập đối với người có thu nhập cao góp phần tạo nguồn thu ngày càng đáng kể cho ngân sách nhà nước. Theo số liệu dự toán ngân sách năm 2007, số thu từ thuế thu nhập đối với người có thu nhập cao nhiều gấp 3 lần tổng số thu các loại thuế về đất. Hai là, thuế thu nhập đối với người có thu nhập cao góp phần đảm bảo công bằng xã hội. Quy định về ngưỡng chịu thuế suất dương (tức là mức thu nhập bắt đầu phải đóng thuế với mức thuế suất lớn hơn 0%) được đánh giá là phù hợp với sự gia tăng mức thu nhập bình quân, nên thuế thu nhập đối với người có thu nhập cao đã góp phần làm giảm khoảng cách giàu nghèo đang có xu hướng gia tăng, nhất là ở khu vực thành thị. Bên cạnh đó, những khoản thu từ thuế, trong đó có thuế thu nhập đối với người có thu nhập cao, sẽ đảm bảo cho Nhà nước có khả năng cung cấp ngày càng tốt hơn các khoản chi phúc lợi xã hội, giúp cho những người nghèo cơ hội có được mức sống cải thiện hơn. Ba là, thuế thu nhập đối với người có thu nhập cao là sự chuẩn bị cần thiết trước khi triển khai thuế TNCN một cách toàn diện. Việc áp dụng thuế thu nhập đối với người có thu nhập cao trong nhiều năm qua đã làm cho người dân “quen” dần với loại thuế này. Tâm lí quen thuộc cùng với những hiểu biết ngày càng nhiều hơn về thuế TNCN cũng như trách nhiệm công dân trong việc thực thi nghĩa vụ thuế sẽ góp phần đáng kể cho quá trình triển khai hiệu quả Luật thuế TNCN trong tương lai không xa. Bên cạnh đó, những kinh nghiệm quý trong việc thực thi thuế thu nhập đối với người có thu nhập cao sẽ giúp cho các cơ quan quản lí nhà nước trong việc quản lí thu nhập và quản lý quy trình thu nộp thuế, đảm bảo hạn chế phát sinh tiêu cực khi Luật thuế TNCN được triển khai thực hiện (khi đó, sẽ có số lượng chủ thể nộp thuế đông đảo hơn hiện nay, do vậy việc quản lý thuế sẽ phức tạp hơn). Bên cạnh những thành tựu đạt được, trong thời gian qua việc thực hiện pháp luật thuế thu nhập đối với người có thu nhập cao còn bộc lộ nhiều bất cập: - Thứ nhất, những quy định pháp luật hiện hành về thuế TNCN còn nhiều bất cập. Những bất cập này sẽ được đề cập trong phần sau của bài viết này. - Thứ hai, việc quản lí thu nhập của cá nhân hiện nay còn nhiều hạn chế, do đó cơ quan thuế không có khả năng kiểm soát tốt TNCN, dẫn đến có nhiều trường hợp trốn, lậu thuế. Một trong những nguyên nhân cơ bản là hiện nay nước ta chưa có hệ thống các quy định pháp lí cần thiết để minh bạch thu nhập. Với những cố gắng rất lớn của cơ quan lập pháp, Luật phòng, chống tham nhũng ngày 9/12/2005 đã ra đời và có hiệu lực ngày 01/6/2006, gần đây được cụ thể hoá bằng Nghị định số 37/2007/NĐ-CP ngày 9/3/2007. Những văn bản này đã tạo cơ sở pháp lí để một số chủ thể phải có nghĩa vụ kê khai tài sản, góp phần kiểm soát thu nhập. Tuy nhiên, cần nhấn mạnh rằng, các văn bản này nhằm kiểm soát và ngăn chặn những thu nhập không hợp pháp chứ không phải nhằm quản lí nguồn thu nhập hợp pháp để xác định nghĩa vụ nộp thuế. Do đó, những chủ thể có nghĩa vụ kê khai thu nhập rất hẹp, chỉ bao gồm những chức danh quan trọng trong bộ máy nhà nước. Từ đó có thể khẳng định, hệ thống những quy định nhằm quản lí thu nhập chịu thuế thu nhập hiện còn rất sơ sài. - Thứ ba, ý thức của nhân dân về thuế TNCN vẫn còn thấp. Ở những quốc gia phát triển, thuế TNCN đã có lịch sử hàng trăm năm và do đó người dân cảm thấy quen với nghĩa vụ đóng thuế. Ở Việt Nam, mặc dù thuế lợi tức cá nhân đã từng được chính quyền Bảo Đại và sau đó là chính quyền Việt Nam cộng hoà áp dụng (đối với khu vực phía nam) nhưng sau đó bị bãi bỏ nên hiện nay người dân chưa quen với tâm lí là người nộp thuế. Chính vì vậy, trừ những trường hợp khấu trừ thuế tại nguồn được các tổ chức chi trả thu nhập thực hiện đối với thu nhập của những người làm công ăn lương hoặc người cung cấp dịch vụ, còn lại những cá nhân hành nghề tự do thường không thực hiện nghĩa vụ kê khai và nộp thuế. Bên cạnh đó, thói quen sử dụng tiền mặt trong thanh toán của người Việt Nam được coi là một trở ngại đáng kể cho công tác hành thu thuế nói chung và đối với thuế TNCN nói riêng. Việc sử dụng tiền mặt phổ biến làm cho công tác giám sát thu nhập của cơ quan chức năng bị hạn chế, đồng thời tạo cơ hội cho các chủ thể che giấu nguồn thu nhập hoặc dịch chuyển tài sản, từ đó không khai báo để nộp thuế theo quy định. 3. Những hạn chế của pháp luật thuế TNCN hiện hành - Thứ nhất, pháp luật thuế thu nhập đối với người có thu nhập cao hiện nay có phạm vi điều chỉnh tương đối hẹp. Phạm vi điều chỉnh của thuế thu nhập đối với người có thu nhập cao là áp dụng cho những thu nhập phi kinh doanh của những người có thu nhập cao, do vậy số chủ thể thuộc diện chịu thuế không nhiều. Điều này không những ảnh hưởng đến hiệu quả thu ngân sách mà còn làm cho thuế TNCN mất cơ hội phổ biến rộng rãi đến nhân dân, tạo tiền đề cần thiết cho việc áp dụng Luật thuế thu nhập cá nhân sau này. Qua nhiều lần sửa đổi, quy định về ngưỡng chịu thuế suất dương, người viết nhận thấy tốc độ gia tăng mức khởi điểm chịu thuế suất dương trong những lần sửa đổi gần đây còn nhanh hơn mức độ gia tăng bình quân của thu nhập quốc dân.([iv]) Chính vì vậy, số lượng cá nhân đóng thuế thu nhập có xu hướng giảm và tỉ trọng thuế thu nhập trên tổng thu ngân sách hầu như không tăng trong suốt những năm qua. Đây là một thực tế cần suy ngẫm bởi lẽ trong giai đoạn hiện nay, có nhiều lí do để ngân sách nhà nước phải kì vọng vào thuế TNCN hơn trước đây. - Thứ hai, thuế thu nhập đối với người có thu nhập cao hiện hành chưa thật sự công bằng. Công bằng là tiêu chuẩn, đồng thời là mục tiêu mà một hệ thống thuế phải đạt tới. Hiện nay, nhiều quy định của Pháp lệnh thuế thu nhập đối với người có thu nhập cao chưa thực sự công bằng, làm ảnh hưởng đến hiệu quả thu thuế và dễ tạo ra tâm lí “phản kháng” của chủ thể nộp thuế. + Một là, còn phân biệt biểu thuế áp dụng đối với công dân Việt Nam và người nước ngoài. Hiện nay, biểu thuế luỹ tiến từng phần áp dụng cho công dân Việt Nam có mức khởi điểm chịu thuế suất dương thấp hơn, đồng thời độ dốc luỹ tiến lại cao hơn so với người nước ngoài. Điều đó có nghĩa, với cùng một mức độ thu nhập, công dân Việt Nam phải nộp thuế nhiều hơn người nước ngoài. Quy định này đã từng được giải thích là nhằm khuyến khích người nước ngoài đến làm việc tại Việt Nam để mang theo kinh nghiệm quản lí, kĩ thuật tiên tiến, v.v.. Tuy nhiên, những lí do này không đủ thuyết phục vì nó làm mất đi sự công bằng đối với công dân Việt Nam, đồng thời cho thấy Nhà nước đã “làm thay” doanh nghiệp trong việc thu hút nguồn lực từ bên ngoài. Nhà nước đã chính thức xoá bỏ những quy định “hai giá” để phân biệt mức giá chi tiêu giữa người Việt Nam và người nước ngoài thì cũng đã đến lúc phải xoá bỏ sự phân biệt thuế suất giữa hai nhóm chủ thể này. + Hai là, không khấu trừ chi phí sinh hoạt, các chi phí khác để tạo ra thu nhập. Việc không khấu trừ chi phí tạo ra thu nhập là đặc điểm khác biệt rất quan trọng giữa việc xác định thu nhập chịu thuế thu nhập đối với người có thu nhập cao với thu nhập chịu thuế thu nhập doanh nghiệp. Mặc dù việc khấu trừ thu nhập đối với cá nhân là việc làm không đơn giản, nhưng rõ ràng, nếu không khấu trừ chi phí thì sẽ làm ảnh hưởng đến tính công bằng của thuế. Ví dụ: Hai người có mức thu nhập bình quân tháng bằng nhau nhưng một người phải nuôi người phụ thuộc sẽ có mức chi phí cao hơn trong khi vẫn phải nộp thuế giống như người sống độc thân. Mặc dù pháp luật hiện hành đã khấu trừ chi phí cho một số đối tượng nhưng như thế lại làm cho sự công bằng càng bị ảnh hưởng vì những chủ thể khác không được hưởng ưu đãi này. + Nhiều khoản thu nhập bị “bỏ qua”, không bị đánh thuế. Theo quy định của pháp luật hiện hành, rất nhiều khoản thu nhập của cá nhân đã bị bỏ qua, không đưa vào diện thu nhập chịu thuế thu nhập đối với người có thu nhập cao như: Các khoản thu nhập từ đầu tư vốn, chuyển nhượng tài sản, quà biếu, quà tặng, thừa kế… Về mặt lí luận, thuế TNCN phải được đánh trên toàn bộ thu nhập của cá nhân mới đảm bảo tính công bằng của thuế. Về thực tiễn, hiện nay có rất nhiều cá nhân có thu nhập cao từ những hoạt động kể trên mà không bị đánh thuế nên gây lãng phí nguồn thu cho ngân sách. - Thứ ba, việc quy định thu thuế tại nguồn đã gây ra những khó khăn trong việc xác định chính xác số thuế phải nộp. Để đảm bảo khả năng điều tiết thu nhập, thuế TNCN thường quy định thuế suất lũy tiến áp dụng cho tổng thu nhập chịu thuế. Bên cạnh đó, để đảm bảo việc thu thuế, pháp luật quy định tổ chức, cá nhân chi trả thu nhập có trách nhiệm khấu trừ thuế thu nhập đối với khoản thu nhập được chi trả để nộp cho cơ quan thuế. Riêng đối với những khoản chi phí mua ngoài như thù lao tư vấn, tiền công sửa chữa v.v., việc khấu trừ được xác định là 10% trên khoản thu nhập từ 500 ngàn đồng trở lên. Quy định như vậy có ưu điểm là đảm bảo thu được thuế, tránh việc trốn thuế, lậu thuế. Tuy nhiên, hiện nay việc thực hiện đăng kí, kê khai nộp thuế thu nhập đối với từng cá nhân chưa được áp dụng rộng rãi và triệt để, thì cách thu thuế như vậy sẽ không chính xác. III. PHƯƠNG HƯỚNG HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT THUẾ THU NHẬP CÁ NHÂN Ở VIỆT NAM 1. Những yêu cầu có tính nguyên tắc trong việc xây dựng Luật thuế TNCN ở Việt Nam - Thuế TNCN phải được quy định phù hợp với chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước. Nghị quyết Đại hội Đảng IX và X đã xác định: “Áp dụng thuế TNCN thống nhất và thuận lợi cho mọi đối tượng chịu thuế, bảo đảm công bằng xã hội và tạo động lực phát triển” và “Hoàn thiện hệ thống pháp luật về thuế theo nguyên tắc công bằng, thống nhất và đồng bộ… Điều chỉnh chính sách thuế theo hướng giảm và ổn định thuế suất, mở rộng đối tượng thu, điều tiết hợp lí thu nhập”. Như vậy, Luật thuế TNCN cần xác định phạm vi điều chỉnh rộng hơn nhằm đảm bảo thực hiện nguyên tắc công bằng, bình đẳng trong đánh thuế thu nhập theo hướng mọi cá nhân có thu nhập đều phải chịu thuế. Việc đánh thuế TNCN sẽ không phân biệt cá nhân kinh doanh hay không kinh doanh, cá nhân là người nước ngoài hay công dân Việt Nam. - Luật thuế TNCN phải là công cụ hữu hiệu để Nhà nước tăng thu ngân sách, đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế xã hội. Cụ thể hoá Nghị quyết Đại hội Đảng, Bộ Chính trị đã thông qua Chiến lược cải cách thuế đến năm 2010, trong đó đặt ra yêu cầu: “Cần sớm xác định các bước đi thích hợp để tăng tỉ trọng các nguồn thu trong nuớc cho phù hợp với tiến trình hội nhập. Mở rộng diện thuế trực thu và tăng tỉ lệ thu từ thuế trực thu”. Ở các quốc gia phát triển, tỉ trọng thuế TNCN trên tổng thu ngân sách là khá cao, trong khi đó tại Việt Nam số thu này là không đáng kể. So với các sắc thuế gián thu như thuế giá trị gia tăng, thuế tiêu thụ đặc biệt, thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu thì thuế TNCN đảm bảo công bằng tốt hơn, vì vậy, việc tăng nguồn thu từ thuế trực thu là yêu cầu hợp lí và cần thiết. Bên cạnh việc mở rộng đối tượng điều chỉnh, Luật thuế TNCN cần bao quát được các nguồn thu của cá nhân, đồng thời hạn chế hiện tượng tránh thuế, lậu thuế. Bên cạnh đó, cần xác định một mức thuế suất hợp lí để vừa đảm bảo nguồn thu cho ngân sách nhưng đồng thời cũng không gây áp lực lên chủ thể nộp thuế. - Luật thuế TNCN phải là công cụ để đảm bảo công bằng xã hội. Thực hiện công bằng xã hội là nhiệm vụ của bộ máy nhà nước nói chung và pháp luật luôn được coi là công cụ hữu hiệu. Luật thuế TNCN cần phải đảm bảo khả năng điều tiết thu nhập hợp lí đối với cá nhân có thu nhập. Về lí thuyết, pháp luật càng cá thể hoá nghĩa vụ nộp thuế bao nhiêu thì càng có thể đảm bảo công bằng bấy nhiêu. Tuy nhiên, vấn đề này cũng có tính hai mặt, bên cạnh việc đảm bảo công bằng tốt hơn, việc cá thể hoá nghĩa vụ nộp thuế cũng có thể làm sai lệch bản chất công bằng. Luật thuế TNCN còn phải đảm bảo việc khấu trừ những chi phí một cách hợp lí để duy trì cuộc sống có chất lượng của cá nhân nộp thuế và tiếp tục tạo ra thu nhập. Để thuận tiện cho việc áp dụng, những chi phí này khó có thể cá thể hoá đến từng cá nhân nộp thuế nên việc khấu trừ khống là cần thiết cho công tác hành thu thuế. Tuy nhiên, khấu trừ những khoản chi phí nào, mức khấu trừ bao nhiêu, phương thức khấu trừ như thế nào là những vấn đề lớn cần được cân nhắc, tính toán kĩ trên cơ sở những số liệu điều tra cụ thể, chính xác, không nên thiết kế một cách áp đặt hoặc chung chung khó áp dụng. Về nguyên tắc, những khoản chi phí sau đây cần được khấu trừ: + Chi phí sinh hoạt bình quân của người nộp thuế; + Chi phí nuôi dưỡng người phụ thuộc; + Chi phí tạo ra thu nhập: Tiền đầu tư vốn, chi phí kinh doanh, v.v.. + Chi phí phục hồi sức lao động hoặc bồi thường: Tiền khám chữa bệnh không do bảo hiểm chi trả, tiền bồi thường thiệt hại… Để đảm bảo việc áp dụng được chính xác và thuận tiện, việc quy định các khoản chi phí được khấu trừ phải hết sức cụ thể, chính xác và minh bạch. - Luật thuế TNCN cần quy định phù hợp với thực tiễn nền kinh tế quốc dân. Hiện nay, mức thu nhập bình quân trên đầu người của Việt Nam còn thấp nên việc quy định mức thuế suất cần dựa trên nguyên tắc đảm bảo khuyến khích lao động sản xuất, tạo thu nhập ổn định và làm giàu chính đáng. Do đó, mức thuế suất phải được quy định dựa trên các nguyên tắc sau đây: + Mức thuế suất phải đảm bảo, sau khi nộp thuế, người nộp thuế vẫn phải có được mức thu nhập không thấp hơn mức thu nhập bình quân chung. + Khoảng cách giữa các mức thuế suất và khoảng cách về mức thu nhập chịu thuế của hai mức thuế suất cần xác định hợp lí, không quá xa nhằm đảm bảo công bằng và không gây xáo trộn về nghĩa vụ thuế. - Luật thuế TNCN phải đảm bảo nguyên tắc hội nhập quốc tế. Luật thuế TNCN phải thể hiện được tinh thần của các hiệp định tránh đánh thuế hai lần hoặc chí ít cũng cần quy định các nguyên tắc áp dụng những hiệp định này trong việc xác định nghĩa vụ thuế của người nước ngoài có thu nhập tại Việt Nam hoặc thu nhập của công dân Việt Nam ở nước ngoài. Nguyên tắc này cũng cho phép áp dụng biểu thuế thống nhất đối với tất cả các cá nhân, không kể đó là công dân Việt Nam hay người nước ngoài. 2. Một số kiến nghị cụ thể đóng góp cho việc xây dựng dự thảo Luật thuế TNCN - Nếu quy định đánh thuế đối với thu nhập từ thừa kế và quà tặng thì phải đánh vào tất cả các tài sản chứ không nên chỉ áp dụng đối với tài sản là cổ phiếu, trái phiếu, quyền sở hữu doanh nghiệp, bất động sản như theo quy định của dự thảo. Nếu không, việc chuyển đổi tài sản hoặc chuyển dịch tài sản ảo sẽ xảy ra nhằm tránh thuế. Việc đánh thuế thừa kế đối với bất động sản là tài sản thừa kế khi người được thừa kế đã có nhà ở sẽ gây nhiều tranh cãi, vì không có chuẩn mực thế nào là “nhà ở”. Mặt khác, có thể trước khi nhận thừa kế, người được thừa kế sẽ chuyển nhượng nhà ở của mình cho người khác. Do vậy, cần xác định việc đánh thuế đối với bất động sản thừa kế cũng giống như các tài sản thừa kế khác. Nếu đánh thuế vào tất cả các loại quà tặng thì thu nhập từ kiều hối cũng nên thuộc diện chịu thuế. Hiện nay, pháp luật chưa hề có định nghĩa nào về kiều hối, ngay cả trong Pháp lệnh ngoại hối 2005. Về bản chất, kiều hối là ngoại hối do người Việt Nam định cư, sinh sống ở nước ngoài gửi về cho thân nhân trong nước nên nó là một dạng quà tặng. Mặc dù chính sách của Nhà nước là khuyến khích người Việt Nam ở nước ngoài góp phần xây dựng quê hương nhưng sự bình đẳng trong nghĩa vụ thuế cũng rất cần được tôn trọng. - Việc dự thảo Luật thuế TNCN quy định đánh thuế vào lãi góp vốn, cổ tức được chia là không hợp lí. Những khoản thu nhập này là phần còn lại được chia sau khi doanh nghiệp đã chịu thuế thu nhập doanh nghiệp. Về bản chất

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docTiểu luận- Thực trạng áp dụng luật thuế thu nhập cá nhân tại Việt Nam.doc
Tài liệu liên quan