Tiểu luận Thực trạng bảo vệ người tiêu dùng theo ngành

Mụclục:

Phần 1 Lời mở đầu.

Phần 2 Bộ luật bảo vệ người tiêu dùng.

2.1 Hệthống các chủthểcó chức năng bảo vệlợi ích của NTD. 4

2.1.1:Bảo vệquyền và lợi ích hợp pháp của NTD là trách nhiệm

chung của toàn xã hội. 4

2.1.3: Các tổchức chính trị, chính trị-xã hội, xã hội, xã hội-nghề

nghiệp. 4

2.1.2: Cơquan nhà nước. 4

2.2 Bộluật bảo vệquyền lợi ngườitiêu dùng (2010) . 5

2.2.1 Những nội dung cơbản của luật bảo vệquyền lợi người

tiêu dùng. 5

2.2.2 Một sốnội dung cơbản của Luật. 6

2.3 Một sốbộluật liên quan. 10

Phần 3 Thực trạng bảo vệngười tiêu dùng Việt Nam hiện nay. 10

3.1.Hoạt động của cơquan nhà nước, các tổchức chính trị,

chính trị-xã hội, xã hội, xã hội-nghềnghiệp. 11

3.2 Hoạt động của các doanh nghiệp. 13

Phần 4 Nguyên nhân –thực trạng BVNTD ngành sữa. 14

4.1 Thực trạng vấn đềbảo vệngười tiêu dùng trong ngành sữa. 14

4.1.1 Giá cả. 14

4.1.2 Chất lượng sản phẩm. 15

4.1.3 Thông tin sản phẩm và thông tin thương hiệu. 16

4.1.4 Chính sách hậu mãi. 17

4.1.5 Dịch vụtưvấn. 18

4.1.6 Quảng cáo. 18

4.1.7 Bồi thường, thu hồi khi sản phẩm có khuyết tật. 19

4.2 Quy định của pháp luật. 20

Phần 5 Giải pháp cho nghành sữa. 28

pdf31 trang | Chia sẻ: leddyking34 | Lượt xem: 2705 | Lượt tải: 5download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tiểu luận Thực trạng bảo vệ người tiêu dùng theo ngành, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
e ngại. Bởi chia nhỏ quyền lợi cho mỗi cá nhân, giá trị kinh tế thường không lớn, thiệt hại của người tiêu dùng chỉ thực sự “khổng lồ” khi nó được   12   mang tính cộng đồng. Ví dụ một chiếc nồi cơm điện bị lỗi rơ-le, thà rằng mang đi thay mất 40.000 đồng, còn hơn là vác đơn đi kiện nhà sản xuất, chưa biết đến bao giờ mới thắng? Nhưng bên cạnh những ưu điểm, các phương thức giải quyết tranh chấp bằng hoà giải, thương lượng còn có những hạn chế là quá trình giải quyết còn phải phụ thuộc vào thiện chí của các bên, quyết định chỉ mang tính đồng thuận, không có giá trị ràng buộc pháp lý; thời gian giải quyết kéo dài... Theo quy định của pháp luật, NTD khi mua sản phẩm không đảm bảo chất lượng, dịch vụ cung cấp không đạt, có quyền trực tiếp thương lượng với nhà sản xuất, nếu nhà sản xuất không giải quyết thì thông qua các văn phòng khiếu nại tư vấn tiêu dùng của VINASTAS tại các địa phương và thành phố trong cả nước. Họ cũng có thể khiếu nại đến các cơ quan quản lý Nhà nước như Tổng cục TCĐLCL, Cục ATVSTP, Cục Quản lý cạnh tranh..., ngoài ra họ còn có quyền kiện ra tòa.   Khi NTD đến văn phòng tư vấn khiếu nại hàng tiêu dùng của VINASTAS để khiếu nại, người có thẩm quyền sẽ mời nhà sản xuất đến trao đổi và tìm hiểu lý do tại sao chất lượng sản phẩm không đúng như công bố của nhà sản xuất. Đồng thời, hội cũng tìm hiểu xem phản ánh của NTD có đúng so với công bố chất lượng của nhà sản xuất hay không. Dựa trên ý kiến của hai bên sẽ đưa ra phương án hoà giải, giúp cho NTD cảm thấy quyền lợi của mình được bảo vệ và giúp cho nhà sản xuất có cơ hội để cải tiến sản phẩm đồng thời làm đúng trách nhiệm của mình. Thực tế, quyền lợi của NTD đang bị xâm phạm nghiêm trọng nhưng việc bảo vệ NTD hiện nay vẫn còn nhiều khó khăn.Luật pháp chỉ cho phép Hội được phép hòa giải. NTD Việt Nam bị xâm phạm về quyền lợi chủ yếu mang tính nhỏ lẻ, giá trị kinh tế không cao nên chủ yếu sẽ hòa giải. Nếu giá trị cao (trên 100 triệu đồng), Hội sẽ thay mặt NTD đứng ra khởi kiện. Các chế tài xử phạt của nước ta vẫn còn nhẹ, quy định của pháp luật về bảo vệ NTD còn lỏng lẻo, chưa sát với thực tế khiến nhiều khi NTD biết mình bị lừa dối, bị xâm hại mà không làm thế nào được. ở các nước EU, Nhật, Singapore…, việc đưa ra danh sách đen cảnh báo các thực phẩm, hàng hoá có vấn đề và kiểm tra nghiêm ngặt các sản phẩm là chuyện rất bình thường. Có thể nói, trong điều kiện xã hội ngày càng văn minh, thì vấn đề quyền lợi và sức khỏe của người tiêu dùng càng phải được chú trọng, tuy nhiên hiện tại cả hai vấn đề này đều bộc lộ những bất cập. Việc các nhà sản xuất, phân phối vi phạm về các quyền tiêu dùng quá phổ biến, có thể gặp bất cứ phân đoạn thị trường nào của thành phố. Ngày nay thủ đoạn của các đối tượng vi phạm ngày càng tinh vi xảo quyệt. Nhìn vào số liệu của Chi cục quản lý thị trường, tính từ đầu năm đến nay, Chi cục đã thực hiện kiểm tra 1.253 vụ, thì có tới 1.032 vụ vi phạm các quy định của nhà nước, một tỷ lệ rất cao mà điều đáng nói đây chỉ là một phần nhỏ trong sự tiếp diễn liên tục của thị trường. Cụ thể trên lĩnh vực chống buôn lậu, vận chuyển và buôn bán hàng cấm, Chi cục đã thực hiện kiểm tra 18 vụ, cả 18 vụ đều có dấu hiệu vi phạm. Trên lĩnh vực chống sản xuất và buôn bán hàng giả hàng kém chất lượng, tỷ lệ cũng là 100% giữa kiểm tra và xử lý với 27 vụ. Khái niệm quyền lợi người tiêu dùng đã được nhắc đến nhiều, nhưng trên thực tế người tiêu dùng chưa mặn mà lắm với vấn đề này. Trong khi đó, việc mua phải những sản phẩm kém chất lượng, việc bảo trì bảo hành không thực hiện đúng cam kết… đôi khi là thỏa   13   thuận có tính chủ quan, và đây chính là điểm yếu để các nhà sản xuất, phân phối lợi dụng. Ở chợ tự do việc nói thách cân điêu vốn dĩ đã thành nếp truyền thống, nhưng ngay tại các siêu thị, chẳng hạn ở Metro khi niêm yết giá, nhà phân phối in giá trước thuế thì to đùng, giá bán thực thì nhỏ xíu tinh mắt mới thấy. Có thể mức độ vi phạm không có hoặc khó xác định, nhưng dường như nó vẫn phảng phất những hành vi lập lờ thiếu minh bạch, thay cho cách mà người tiêu dùng được tiếp cận hàng hóa “đàng hoàng” hơn. Luật bảo vệ người tiêu dùng là cơ hội, thì chỉ khi các cơ quản thực thi quyền bảo vệ chủ động, nó mới thu hút được sự quan tâm của mọi người. 3.2 Hoạt động của các doanh nghiệp: Hiện nay, người tiêu dùng nói chung rất thiếu kiến thức để nhận biết hàng giả, hàng thật. Mua bất kỳ một sản phẩm nào, người tiêu dùng đều băn khoăn, lo lắng về chất lượng sản phẩm. Niềm tin ở người tiêu dùng đang giảm xuống trong quý 01 năm 2011. Gần 2/3 doanh nghiệp cho rằng nền kinh tế đang đi xuống và 48% mong rằng họ sẽ đạt được mục tiêu đã đề ra so với năm ngoái. Chỉ 1/3 nghĩ rằng điều kiện kinh doanh sẽ được cải thiện trong 12 tháng tới, đa số đều cho rằng tình trạng hiện tại vẫn tiếp tục duy trì. Lạm phát và tiền đồng mất giá là mối quan tâm hàng đầu của các nhà lãnh đạo, tuy nhiên họ nói rằng họ vẫn có khả năng xoay sở để đạt được mục tiêu kinh doanh 5 mối quan tâm hàng đầu của doanh nghiệp 5 mối quan tâm hàng đầu của người tiêu dùng 1) Lạm phát 1) Sức khỏe 2) Tiền đồng mất giá 2) Giá thực phẩm tăng 3) Khả năng tăng giá 3) Giá điện/ nước/ gas … tăng 4) Áp lực cạnh tranh/ hoạt động/ tăng trưởng 4) Đảm bảo công việc 5) GDP tăng chậm 5) Tương lai của con cái Bất chấp những nỗi lo trên, các doanh nghiệp lớn (90%) vẫn tin rằng việc kinh doanh của họ sẽ tăng trưởng gấp đôi. Như ta đã biết, DN có vai trò quyết định trong việc dẹp bỏ tận gốc các hành vi vi phạm quyền lợi NTD. DN chính là người thiết kế, sản xuất và đưa sản phẩn hàng hóa, dịch vụ ra thị trường. Nếu DN nào cũng thực hiện tốt các quy định của pháp luật về kinh doanh như: luật Thương   14   mại, luật Cạnh tranh, luật Chất lượng sản phẩm, luật Đo lường, luật ATVSTP, pháp lệnh quảng cáo… thì sẽ không có hàng hóa, dịch vụ kém chất lượng, không có quảng cáo, thông tin sai lệch, lừa dối NTD trên thị trường Khi có phát sinh về quyền lợi của NTD (hàng bị lỗi, kém chất lượng…) thì DN là người giải quyết thỏa đáng nhất những yêu cầu của NTD, giúp cho NTD có những thông tin, kiến thức đúng đắn về sản phẩm hàng hóa, dịch vụ của mình, đảm bảo quyền được khiếu nại, bảo hành hàng hóa của NTD. Thực tế hiện nay các DN vì lợi nhuận nên đã có những hành vi cố ý vi phạm pháp luật, xâm hại đến quyền lợi NTD. Điều đáng lo ngại là các hành vi vi phạm đang rất phổ biến, đa dạng và ngày càng tinh vi, phức tạp. Nhiều hành vi vi phạm mà bản thân NTD rất khó nhận biết được. Những hành vi này không những vi phạm nghiêm trọng đến quyền lợi NTD mà còn ảnh hưởng trực tiếp đến hoạt động kinh doanh của các DN chân chính, làm mất lòng tin của NTD đối với các DN.NTD là đối tượng dễ bị tổn thương và bị xâm hại quyền lợi. Do đó, để hướng tới một xã hội công bằng những thiệt thòi của NTD đòi hỏi phải được giải quyết thỏa đáng. DN còn “ngại” tố hàng giả Nhiệm vụ chống sản xuất và buôn bán hàng giả thuộc về 3 đối tượng: Nhà nước (các cấp, các ngành, cơ quan chức năng, báo đài…), các đoàn thể xã hội, NTD và bản thân các DN. Trong 3 đối tượng này, DN phải là chính, phải chủ động. Thực tế là nhiều DN ngại không muốn tố giác, đấu tranh khi sản phẩm hàng hóa của mình bị làm giả. Khi DN bảo vệ quyền lợi NTD cũng chính là cách mà DN nâng cao uy tín cho chính mình. Một thực tế đáng lo ngại là các loại hàng hóa, trong đó có cả mặt hàng nhu yếu phẩm đang bị thật giả lẫn lộn. Hàng giả có ở khắp mọi nơi, chủ yếu là các loại rượu, bia, thực phẩm… từ hàng cao cấp đến hàng bình dân đều có những sản phẩm làm nhái, làm giả. Điều dó chứng tỏ các DN chân chính vẫn chưa mạnh dạn đấu tranh, tố giác hàng giả. Chính vì vậy, uy tín của DN đã suy giảm và NTD mất lòng tin với chính DN làm ăn chân chính đó. Trong thời gian vừa qua, đã không có ít vụ vi phạm quyền lợi người tiêu dùng như 312.000 điện kế điện tử giả nguồn gốc xuất xứ phải thu hồi, tòa án đã xử hình sự; vụ độc chất 3-MCPD chứa trong nước tương có hàm lượng cao vượt quá tiêu chuẩn cho phép 5,27 lần; rồi hành vi cài đặt hệ thống chíp điện tử trong máy bơm xăng để bớt xén của khách hàng… Nạn nhân hứng chịu hậu quả, không ai khác chính là người tiêu dùng. Do đó, Luật Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng, ngoài những quy định chung, còn quy định các vấn đề cụ thể như: Trách nhiệm của tổ chức, cá nhân kinh doanh hàng hóa, dịch vụ đối với người tiêu dùng; trách nhiệm của tổ chức xã hội trong việc tham gia bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng; giải quyết tranh chấp giữa người tiêu dùng và tổ chức, cá nhân kinh doanh hàng hóa, dịch vụ… Phần 4 Nguyên nhân – thực trạng BVNTD ngành sữa. 4.1 Thực trạng vấn đề bảo vệ người tiêu dùng trong ngành sữa. 4.1.1 Giá cả.   15   Việc giám sát giá sữa tại Việt Nam trong những năm gần đây dừng như vượt tầm kiểm soát của cơ quan chức năng. Tại hội thảo Sữa với sức khỏe người tiêu dùng Việt Nam, Hà Nội ngày 27-6-2011, Cục Quản lý Cạnh tranh (Bộ Công Thương) cho biết, thống kê cho thấy trong 3-4 năm qua, giá bán sữa nước ngoại nhập tại Việt Nam chỉ có tăng không giảm. Theo tài liệu của Dự án bò sữa Việt- Bỉ, một dự án do Bỉ tài trợ về phát triển ngành sữa Việt Nam, giá sữa bán lẻ tại Việt Nam là 1,4 đô la Mỹ/lít, ngang bằng với giá tại những nước phát triển như Mỹ, Canada, Hàn Quốc, là mức giá cao nhất thế giới.   Trong khi giá sữa bán lẻ tại Việt Nam thuộc loại cao nhất thế giới thì mức lợi nhuận của các doanh nghiệp sữa cũng ở mức cao nhất nhì thế giới. Cụ thể, lợi nhuận của các doanh nghiệp kinh doanh sữa bột 22-86%. Đối với sữa nước, mức lợi nhuận của các doanh nghiệp cũng lên tới 48%. Điều này cho thấy các doanh nghiệp hoạt động trng ngành sữa đang làm méo mó giá cả sản phẩm sữa gây thiệt hại to lớn cho người tiêu dùng, trong khi thu nhập người dân tăng rất ít thì giá cả sữa lại tăng mạnh, không tương xứng.   Một điển đáng lưu ý nữa trong khi giá sữa nguyên liệu nhập khẩu giảm mạnh, một số hãng sữa bất ngờ điều chỉnh giá bán với mức tăng 4-15%. 2011 tăng 20-25% giá. Hãng sữa Nestlé điều chỉnh tăng giá dòng sữa Lactogen từ 3-10%. Từ ngày 7-9-2010, Friesland Campina VietNam cũng điều chỉnh tăng giá 4-15% một số mặt hàng sữa bột như Friso, Dutch Lady. Các nhãn hàng sữa ngoại đang tại ra mức giá tăng bất hợp lý nhưng vẫn không bị các cơ quan chức năng về giám sát thị trường tiến hành thanh tra, rà soát việc tăng giá. Quyền lợi người tiêu dùng đang bị xâm hại nghiêm trọng. 4.1.2 Chất lượng sản phẩm. Chất lượng sản phẩm sữa trong giai đoạn gần đây đang nhận được sự quan tâm đặc biệt của dư luận. Thứ nhất về hàm lượng sữa trong các sản phẩm, theo thông tin từ Cục An toàn vệ sinh thực phẩm (Bộ Y tế), trong đợt kiểm tra 6 tháng vừa qua ( 2 quý đầu năm 2011), các địa phương đã phát hiện nhiều sản phẩm sữa kém chất lượng, như thiếu đạm, thiếu chất béo. Riêng tại Sở Y tế Hải Phòng, kiểm nghiệm 22 mẫu sữa đóng gói trong nước đã thấy có 6 mẫu không đạt tiêu chuẩn. Trong số các sản phẩm kém chất lượng trên là ba mẫu sản phẩm của hai công ty Cổ phần Sữa Việt Nam Vinamilk và Dutch lady Việt Nam, bị coi là có hàm lượng chất béo thấp hơn công bố. Theo đó, Vinamilk có 2 mẫu, sản xuất ở hai địa chỉ khác nhau, gồm: - Sữa đặc có đường hiệu Ông Thọ: mức chất béo công bố trên nhãn 9g%, thực kiểm: 6,32g% (ngày sản xuất: 11/1/2009, hạn sử dụng: 11/1/2010, hộp 380gr, sản phẩm của Cổ Quốc gia - vùng lãnh thổ   Giá sữa (USD/lít)   Việt Nam   1,4   Hà Lan   0,8   Đức   0,9   Trung Quốc   1,1   Ấn Độ   0,5     16   phần Sữa Việt Nam Vinamilk, địa chỉ: số 57/22, Bầu Cát 9, phường 14, quận Tân Bình, TP HCM). - Sữa bột Vinamilk dielac Star Step 1: mức công bố trên nhãn: 28g%, thực kiểm: 23,3g% ( ngày sản xuất: 12/6/2007; hạn sử dụng: 12/6/2009, hộp 400gr, sản phẩm của Công ty Cổ phần Sữa Việt Nam Vinamilk, địa chỉ 184-186-188 Nguyễn Đình Chiểu, phường 6, quận 3, TP HCM). Một mẫu khác là sữa đặc có đường Duchtlady: mức công bố trên nhãn 11g%, thực kiểm: 7,55g% (ngày sản xuất: 1/11/2008, hạn sử dụng: 1/11/2009, hộp 380gr, sản phẩm của Công ty TNHH và nước giải khát Ducht Lady VN, xã Bình Hoà, Thuận An, Bình dương). Thứ hai về vấn đề nhiễm melamine trong các sản phẩm sữa, theo thông tin từ Cục An toàn vệ sinh thực phẩm Bộ Y tế đến hết ngày 2/10/2008, đã phát hiện 18 sản phẩm có nhiễm melamine được bán tại Việt Nam. Chánh thanh tra Bộ Y tế Trần Quang Trung cho biết, ngày 2/10, Thanh tra Bộ Y tế đã có văn bản yêu cầu Hanoimilk tiêu huỷ ngay hai lô sữa 180 tấn nhiễm melamine. Hai lô sữa này có nhãn hiệu: Sữa bột nguyên kem Grate A của Công ty Long Com (Trung Quốc, hàm lượng melamine là 145mcg/kg với hạn sử dụng đến tháng 9/2008) và nhãn sữa bột nguyên kem Blue Cow (hàm lượng melamine 200mcg/kg có hạn sử dụng đến 26/11/2008). Vấn đề này nhận được sự quan tâm đặc biệt của người tiêu dùng, khảo sát sao là một ví dụ. Bảng thăm dò ý kiến của VnExpress. Trên đây chỉ là những nét cơ bản trong việc kiểm soát chất lượng sản phẩm cũng như trách nhiệm của doanh nghiệp trong việc quản lý chất lượng sản phẩm, điều này cho thấy quyền lợi người tiêu dùng chưa được doanh nghiệp quan tâm đúng mức và các cơ quan chức năng vẫn chưa giám sát tốt công tác bảo vệ người tiêu dùng trước việc chất lượng sản phẩm bị sai lệch.   4.1.3 Thông tin sản phẩm và thông tin thương hiệu. Từ 1/1/2012, các sản phẩm sữa lưu thông trên thị trường Việt Nam sẽ buộc phải ghi nhãn bằng tiếng Việt. Trong trường hợp thông tin trên ghi không rõ ràng, dẫn đến hiểu lầm của người tiêu dùng gây hậu quả nghiệm trọng, đơn vị chịu trách nhiệm có thể bị truy tố. “Hiện có nhiều doanh nghiệp sản xuất, kinh doanh chưa đáp ứng đủ các yêu cầu, dẫn đến sản phẩm sữa không bảo đảm chất lượng, ảnh hưởng tới sức khỏe người tiêu dùng…” - là khẳng định của ông Nguyễn Phương Nam - Phó Cục trưởng Cục Quản lý cạnh tranh (Bộ Công Thương) tại hội thảo "Sữa với sức khỏe người tiêu dùng Việt Nam" tổ chức ngày 27/6 tại Hà Nội.     17   Theo cục Quản lý cạnh tranh; trong “cơn bão” hàng nhập khẩu hiện nay, người tiêu dùng thường bị nhiễu thông tin, mua bán theo phong trào, dễ dẫn đến “tiền mất tật mang”, sức khỏe không được bảo đảm. Bên cạnh đó, người tiêu dùng vẫn chưa quan tâm sát sao tới các vấn đề về lựa chọn sản phẩm, chất lượng, cách bảo quản , cách thức sử dụng hoặc những yêu cầu bảo đảm ATVSTP của các doanh nghiệp… Ông Nguyễn Công Khẩn - Cục trưởng Cục ATVSTP (Bộ Y tế) - cho hay: Rất nhiều người tiêu dùng nhầm lẫn giữa quảng cáo và thông tin. Hiện nay, nhà nước đã có nhiều cải tiến để quản lý mặt hàng này bằng việc ban hành những bộ quy chuẩn chất lượng. Song, chất lượng sữa đo bằng vô vàn tiêu chuẩn. Mỗi dòng sữa, loại sữa lại có những tiêu chuẩn khác nhau. Nhà quản lý đưa ra quy chuẩn, còn nhà sản xuất phải đi tiên phong trong việc hướng dẫn một cách tỉ mỉ, chi tiết, đầy đủ và chính xác cho người tiêu dùng, không chỉ lựa chọn sữa mà còn là cách bảo quản, sử dụng như thế nào cho tốt nhất... Tuy nhiên, khi nào các nhà sản xuất làm được điều này vẫn là câu hỏi đang bỏ ngỏ. Thông tin tương hiệu là một trong các yếu tố quan trọng giúp khách hàng ra quyết định mua hàng một cách chuẩn xác. Trong ngành sữa việt Nam hiện nay vẫn chưa tồn tại hệ thống định vị thương hiệu riêng cho sản phẩm sữa, các nhãn hiệu sữa ngoại tràn lan trên thị trường nhưng không rõ nguồn gốc và xuất xứ. nhãn hiệu thường được ghi giống với các thương hiệu nổi tiếng trong ngành sữa nhầm tạo ra sự nhầm lẫn cho người tiêu dùng khi mua hàng. Cơ quan chức năng vẫn chưa xây dượng hệ thống các nhãn hiệu, thương hiệu có uy tín trong ngành một cách chi tiết và công khai cho người tiêu dùng biết đến. Ví dụ điển hình là vụ việc nhãn hiệu sữa ”nhái“ AC Food của công ty Á Châu năm 2008. Trên vỏ hộp các loại sữa này đều có ghi nguyên liệu nhập khẩu từ Australia và có nhiều điểm tương tự với sữa Golden Food (một công ty sữa của Australia). Tuy nhiên, giám định của Cục C36 cho thấy trong thành phần của sữa AC Food có tới 32,97% sữa bột Trung Quốc, sữa bột Australia chỉ chiếm 2,4%, số còn lại xuất xứ từ Hàn Quốc, Thái Lan… việc không kiểm soát được thông tin sản phẩm cũng như uy tín thương hiệu đã gây ra nhiều tổn thất to lớn cho người tiêu dùng và nền kinh tế. 4.1.4 Chính sách hậu mãi. Trong thời gian gần đây việc tiến hành các chương trình hậu mãi khi mua sữa đang được các doanh nghiệp chú tâm thực hiện. ta có thể xét đến một số các chương trình cụ thể như Công ty CP Sữa Việt Nam - Vinamilk, nhãn hàng sữa bột Dielac Alpha có chương trình khuyến mãi “Tiết kiệm thông minh” nhằm chia sẻ khó khăn với các bà mẹ nuôi con nhỏ.   18   Theo đó, các sản phẩm Dielac Alpha hộp giấy 400g có dán tem khuyến mãi dành cho trẻ từ một đến ba và bốn đến sáu tuổi sẽ được tăng thêm 15% trọng lượng (tương đương tăng thêm 60g sữa/hộp), với giá không đổi. Dự kiến sẽ có hai triệu hộp Dielac Alpha trọng lượng tăng thêm 15%, tương đương giá trị tiết kiệm cho người tiêu dùng lên đến hơn 20 tỷ đồng. Chương trình khuyến mãi “Mua sữa bột Morinaga nhận quà Nhật Bản cho bé” từ ngày 01/06/2011 đến 30/07/2011, khách hàng khi mua sản phẩm sữa bột Morinaga sản xuất tại Nhật Bản… Các chương trình như thế này thường được doanh nghiệp tố chức thực hiện nhưng thiếu sự giám sát của cơ quan chức năng về chất lượng sản phẩm, tính trung thực của các chương trình cũng như tính lành mạnh trong cạnh tranh giữa các doanh nghiệp. 4.1.5 Dịch vụ tư vấn. Dịch vụ tư vấn cho quá trình mua hàng tại việt nam vẫn chưa thật sự được kiểm soát chặt chẽ bởi các cơ quan chức năng, chưa hình thành khung pháp lý điều tiết hoạt động tư vấn do đó các hoạt động này phụ thuộc chủ yếu vào đạo đức nghề nghiệp của người hành nghề. Thứ nhất, tư vấn trước và khi mua hàng: chưa xây dựng đội ngũ tư vấn chuyên nghiệp giúp khách hàng xác định đúng loại sản phầm cần mua. Hoạt động tư vấn chủ yếu thông qua quảng cáo đại trà qua các phương tiện truyền thông. Tuy nhiên sữa là thực phẩm dinh dưỡng nên nhu cầu giữa từng thể trạng khác nhau nên phương pháp đại trà như thế không đảm bảo lợi ích của người sử dụng. Theo AP,kết quả cuộc khảo sát năm 2009 các bà mẹ, bác sĩ, nhân viên y tế và nhân viên bán hàng đều cho kết quả: các công ty sữa bột đã trả tiền cho bác sĩ để quảng cáo sử dụng sản phẩm của họ, khuyến khích sử dụng sản phẩm này cho trẻ dưới 1 tuổi và gợi ý cho các bà mẹ cũng như nhân viên y tế tại các cơ sở chăm sóc y tế - tất cả đều phạm luật bảo vệ người tiêu dùng và vi phạm đạo đức nghề nghiệp của dịch vụ tư vấn. Thứ 2, tư vấn sau khi mua hàng: mỗi loại sản phẩm sữa có phương pháp sử dụng khác nhau, các quy trình này chưa được hỗ trợ cụ thể, việc ghi nhãn mác và cách sử dụng bằng tiếng nước ngoài gây cản trở to lớn đến đa phần người tiêu dùng về ngôn ngữ, có thể gấy hiểu nhầm hoặc sử dụng sai phương pháp và mục đích. Cho đến thời điển hiện nay vẫn chưa có quy định cụ thể về dịch vụ tư vấn sử dụng sản phẩm. 4.1.6 Quảng cáo.   19   Những quảng cáo sữa hiện nay rất dễ gây hiểu lầm cho người tiêu dùng với những vi chất bổ không được ghi chú cụ thể về thành phần, công dụng cũng như xuất xứ. Mặt hàng sữa ngày càng phong phú, hiện có khoảng 300 nhãn mác khác nhau với các loại sữa bột, sữa nước… do đó việc quảng cáo gây nhầm lẫn hoặc cô tình che giấu thông tin thật đều tạo sự lựa chọn bất cân xứng trong quyết định mua hàng ảnh hưởng trược tiếp đến quyền lợi của người tiêu dùng. Quỹ Nhi đồng Liên Hợp Quốc (UNICEF) cho biết kết quả khảo sát khác cho thấy ngành công nghiệp sữa đã chi hơn 10 triệu USD cho riêng quảng cáo trong năm 2009, trở thành một trong 5 ngành quảng cáo nhiều nhất ở Việt Nam. Theo Trung tâm Tư liệu Luật pháp Quốc tế (tổ chức phi lợi nhuận hoạt động trong nỗ lực loại trừ tình trạng tiếp thị vô trách nhiệm các sản phẩm thực phẩm trẻ em, có trụ sở tại Malaysia), quảng cáo sữa vô tội vạ là tình trạng chung phổ biến khắp khu vực, từ Trung Quốc, Indonesia, đến Philippines, Việt Nam. Trung tâm này cho rằng các nước đang phát triển gặp nhiều khó khăn trong việc "đấu tranh" với các công ty quốc tế luôn có một ngân sách khổng lồ dành cho quảng cáo, lực lượng bán hàng đông đảo và cả một đội ngũ cố vấn pháp luật hộ tống. Luật pháp Việt Nam cấm quảng cáo các sản phẩm sữa bột cho trẻ dưới 1 tuổi, cấm bán sữa bột dành cho trẻ sơ sinh bên trong các bệnh viện tuy nhiên thực tế các hoạt động này vẫn diễn ra hằng ngày tại các bệnh viện trên cả nước. Những lối đi bên ngoài bệnh viện dành cho bà mẹ và trẻ sơ sinh lớn nhất Hà Nội lại trưng đầy những nhãn hiệu sữa của Mỹ và châu Âu. Các nhà trẻ khắp Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh thường được trang trí đầy những logo của các hãng sữa Mead Johnson và Abbott được quảng cáo là xuất xứ từ Mỹ, kèm theo bàn ghế, đồ chơi và những quà tặng khác. Những công ty này thường xuyên lên tiếng bảo đảm rằng trẻ sẽ thông minh hơn, khẻ mạnh hơn nếu chúng sử dụng các loại sữa bột với dãy dưỡng chất bổ sung của họ- một quảng cáo luôn bị các chuyên gia y tế độc lập phản đối. 4.1.7 Bồi thường, thu hồi khi sản phẩm có khuyết tật. Vụ nhiễm sữa melamine tại việt nam: Bộ Y tế vừa có văn bản số 1076/BC-BYT báo cáo Thủ tướng Chính phủ về các hoạt động đã triển khai nhằm ngăn chặn tình trạng sữa nhiễm melamine cũng như đề xuất biện pháp xử lý. Hiện tổng số sữa nhiễm malemine và không có nguồn gốc khoảng 700 tấn. Các đoàn kiểm tra, thanh tra liên ngành ở địa phương và trung ương đã phát hiện một loạt các tổ chức, cá nhân sản xuất, kinh doanh các sản phẩm sữa không rõ nguồn gốc. Tất cả đều bị cơ quan chức năng đình chỉ lưu hành để xem xét, xử lý theo quy định. Theo báo cáo của các đoàn thanh tra và các địa phương đã có 23 sản phẩm bị phát hiện có nhiễm melamine, một sản phẩm đã có quyết định thu hồi và tiêu hủy (nhãn sữa tươi Yili nhập từ Trung Quốc), số còn lại đang được niêm phong chở phương án xử lý của các cơ quan chức năng. Bộ Y tế đã yêu cầu tất cả các Cty sữa tại Việt Nam tăng cường tự kiểm tra chất lượng VSATTP tại các công đoạn trong quy trình sản xuất sữa và các sản phẩm có nguyên liệu là sữa; phân tích chất melamine và một số chỉ tiêu an toàn. Doanh nghiệp phải hoàn toàn chịu trách nhiệm về chất lượng vệ sinh an toàn thực phẩm đối với các sản phẩm sữa của mình. Căn cứ vào ý kiến của các chuyên gia đầu ngành trong các lĩnh vực, được sự tham vấn của của WHO, FAO, cũng như tham khảo đối sách xử lý tình huống sản phẩm có nhiễm melamine của các nước, Bộ Y tế có kiến nghị Thủ tướng Chính phủ, đề nghị Thủ tướng chỉ đạo Bộ Tài nguyên và Môi trường, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Bộ Công Thương hướng dẫn các doanh nghiệp tiến hành thu hồi và tiêu hủy theo quy định.   20   Đồng thời, đề nghị Chính phủ hỗ trợ cho Ngành Y tế tăng cường năng lực hệ thống kiểm nghiệm VSATTP, hoạt động kiểm tra để đáp ứng được nhiệm vụ quản lý nhà nước về lĩnh vực này. Chỉ đạo Bộ Thông tin và Truyền thông có các thông tin chính xác, kịp thời, đầy đủ đến người tiêu dùng, góp phần khẩn trương khôi phục sản xuất, kinh doanh mặt hàng sữa và các sản phẩm sữa ở thị trường Việt Nam. 4.2 Quy định của pháp luật. Giá sữa 1. Các văn bản pháp luật được ban hành của cơ quan quản lý Thông tư 104/2008/TT-BTC được Bộ Tài chính ban hành năm 2008 hướng dẫn việc bình ổn giá sữa: trong thời gian tối thiểu 15 ngày liên tục, giá bản lẻ sữa tăng vượt 20% trở lên so với giá thị trường trước khi có biến động. Có ba biện pháp bình ổn giá sữa được hướng dẫn cụ thể ở Nghị định 75/2008/NĐ-CP 1.1 Hiệp thương giá - Hồ sơ hiệp thương giá gồm có: văn bản chỉ đạo bắt buộc hiệp thương giá của cơ quan quản lý cùng với biên bản yêu cầu hợp thương giá của bên mua hoặc bên bán (hoặc cả hai bên). - Phương án giá hiệp thương: Đối với bên bán cần thiết phải giải trình những vấn đề: - Tình hình sản xuất - tiêu thụ, cung - cầu của hàng hoá, dịch vụ; - Phân tích mức giá đề nghị hiệp thương: • Lập bảng tổng hợp cơ cấu tính giá theo các yếu tố hình thành giá, phân tích thuyết minh cơ cấu tính giá (có phân tích, so sánh với cơ cấu hình thành giá trước khi được yêu cầu hoặc đề nghị hiệp thương giá). • Phân tích tác động của mức giá mới đến hiệu quả sản xuất, kinh doanh đến hoạt động tài chính, đời sống người lao động trong doanh nghiệp và nghĩa vụ với ngân sách nhà nước. • Những vấn đề mà bên bán chưa thống nhất được với bên mua, lập luận của bên bán về những vấn đề chưa thống nhất. • Các kiến nghị (nếu có). Đối với bên mua cần thiết phải giải trình những vấn đề: • Lập bảng tổng hợp cơ cấu tính giá theo các yếu tố hình thành giá của hàng hóa, dịch vụ do mình sản xuất ra tính theo giá đầu vào mới mà bên bán dự kiến bán. Thuyết minh cơ cấu tính giá (có phân tích, so sánh với mức giá đầu vào trước khi được yêu cầu hoặc đề nghị hiệp thương giá). • Phân tích tác động của mức giá mới đến hiệu quả sản xuất, kinh doanh, đến hoạt động tài ch

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfThực trạng bảo vệ người tiêu dùng theo ngành.pdf
Tài liệu liên quan