Tiểu luận Thực trạng pháp luật về kiểm soát ô nhiễm và suy thoái tài nguyên nước ở Việt Nam

MỤC LỤC

LỜI MỞ ĐẦU 1

NỘI DUNG 2

I_Thực trạng ô nhiễm và suy thoái tài nguyên nước: 2

1.Thực trạng ô nhiễm và suy thoái tài nguyên nước 2

2.Nguyên nhân của sự ô nhiễm và suy thoái tài nguyên nước ở Việt Nam 2

II_Thực trạng pháp luật về kiểm soát ô nhiễm và suy thoái tài nguyên nước. 3

2.1. Thực trạng pháp luật về kiểm soát ô nhiễm và suy thoái tài nguyên nước

2.2. Đánh giá 5

2.2.1. Ưu điểm 5

2.2.1. Nhược điểm 6

3. Đánh giá thực tiễn áp dụng pháp luật về việc kiểm soát ô nhiễm và suy thoái tài nguyên nước tại Việt Nam 8

3.1. Về phía các cơ quan nhà nước 8

3.2. Về phía các tổ chức, cá nhân 10

IV_ Một số kiến nghị góp phần hoàn thiện hệ thống pháp luật về bảo vệ tài nguyên nước: 10

KẾT LUẬN 12

TÀI LIỆU THAM KHẢO 13

 

 

doc14 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 7265 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tiểu luận Thực trạng pháp luật về kiểm soát ô nhiễm và suy thoái tài nguyên nước ở Việt Nam, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
đến tài nguyên nước, như: làm giảm tổng lượng dòng chảy, làm băng tan khiến cho nước biển dâng cao, mặn sẽ xâm nhập sâu hơn ở những vùng đồng bằng thấp khiến nguồn nước ngọt phân bổ trên các sông chảy ra biển sẽ bị đẩy lùi dần. Tất cả những điều này sẽ làm suy thoái thêm nguồn nước, khiến không còn đủ nguồn nước ngọt để phục vụ sản xuất đời sống. - Do những nguyên nhân về quản lý: Trên thế giới khi đánh giá về nguyên nhân suy thoái tài nguyên nước đã nhận định là quản lý có vai trò chi phối và có tác động rất lớn. Ở Việt Nam, tuy mới công nghiệp hóa và mở rộng các đô thị nhưng ô nhiễm nước và suy thoái nước đã phát triển rất nhanh, thậm chí đến mức báo động cũng là do chúng ta còn những tồn tại lớn trong quản lý về mặt tổ chức, về quy hoạch, chính sách... II. Đánh giá thực trạng pháp luật về kiểm soát ô nhiễm và suy thoái tài nguyên nước ở Việt Nam 1. Thực trạng pháp luật về kiểm soát ô nhiễm và suy thoái tài nguyên nước Nhìn chung, Bộ tài nguyên và môi trường, Bộ nông nghiệp và phát triển nông thôn và các Bộ, ngành liên quan đã xây dựng được nhiều văn bản pháp luật quy định về kiểm soát ô nhiễm và suy thoái tài nguyên nước. Năm 1998, Quốc hội đã thông qua Luật tài nguyên nước để quản lý và sử dụng tiết kiệm, hiệu quả tài nguyên nước và góp phần làm giảm thiểu thách thức do tài nguyên nước gây ra. Đây là văn bản có giá trị pháp lý cao nhất trong các văn bản quy định về kiểm soát ô nhiễm và suy thoái tài nguyên nước. Trong văn bản này đã có một số quy định cụ thể về bảo vệ tài nguyên nước (chương II Luật tài nguyên nước 1998) và các quy định về quản lý Nhà nước về tài nguyên nước (chương VII Luật tài nguyên nước 1998). Ngoài ra, còn có các quy định trong Luật bảo vệ môi trường (2005) Luật đất đai (1993) Luật khoáng sản (1996), Tiêu chuẩn Vệ sinh nước ăn uống(2002), Tiêu chuẩn nước sạch(2005). Bên cạnh đó, còn có một số tiêu chuẩn ngành quy định đối với một số chỉ tiêu chất lượng nước ăn uống bề mặt, nước thải …như tiêu chuẩn của Bộ Xây dựng , Bộ Khoa Học và Công nghệ. Bộ Tài nguyên và môi trường cho biết từ đầu năm 2007 đến nay, Bộ đã thẩm định và cấp 23 giấy phép hoạt động tài nguyên nước; trong đó, thẩm định và cấp 18 đơn xin cấp phép và gia hạn giấy phép về nước dưới đất, 3 giầy phép khai thác nước mặt và 2 giấy phép xả nước thải vào nguồn nước. Sau đây là một số những văn bản quan trọng quy định về kiểm soát ô nhiễm và suy thoái tài nguyên nước của Bộ và các cơ quan liên quan: STT Ký hiệu Tên văn bản Ngày ký 1 106/2007/BTC-BTNMT Sửa đổi bổ sung thông tư liên tịch số 125/2003/TTLT-BTC-BTNMT ban hành ngày 18/12/2003. Hướng dẫn thực hiện nghị định số 67/2003/NĐ-CP ngày 13062003 về việc bảo vệ tài nguyên môi trường đối với nước thải 06.09.2007 2 13/2007/QĐ-BTNMT Ban hành quy định về việc điều tra đánh giá tài nguyên nước dưới dất 04.09.2007 3 14/2007/BTNMT Ban hành quy định về viẹc xử lý, trám lấp giếng không sử dụng. 04.09.2007 4 88/2007/NĐ-CP Thoát nước đô thị 28.05.2007 5 04/2007/NĐ-CP Quy định về việc sửa đổi bổ sung một số điều của nghị định số 67/2003/NĐ-CP ngày 13/06/2003 của Chính phủ về phí bảo vệ môi trường đối với nước thải 6 01/2007/TTLT/BTNMT-BTC-BKHĐT Hướng dẫn quản lý, sử dụng kinh phí ngân sách Nhà nước khi thực hiện các dự án thuộc “Đè án tổng thể về điều tra cơ bản và quản lý tài nguyên môi trường biển đến năm 2010và tầm nhìn đến năm 2020 26.01.2007 7 137/2007/QĐ-TTg Phê duyệt đề án tổ chức thông tin phục vụ công tá phòng, chống thiên tai trên biển 21.08.2007 8 67/2003/NĐ-CP Phí bảo vệ môi trường đối với nước thải 13.06.2003 9 17/2006/QĐ-BTNMT Quy định về việc cấp phép hành nghề khoan đất dưới nước 12.10.2006 10 05/2005/TT-BTNMT Hướng dẫn thi hành nghị định số 34/2005/NĐ-CP ngày 17.03.2005 của Chính phủ quy định về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực tài nguyên nước 22.07.2005 11 02/2005/TT-BTNMT Hướng dẫn thực hiện nghị định số 149/2004/NĐ-CP ngày 27.07.2004 của Chính phủ quy định việc cấp phép thăm dò, khai thác, sử dụng tài nguyên nước, xả nước thải vào nguồn nước 24.06.2005 12 02/2004/CT-BTNMT Về việc tăng cường công tác quản lý tài nguyên nước dưới đất 02.06.2004 13 57/2002/QĐ-BKHCNMT Về việc ban hành quy chế tổ chức và hoạt động của cơ quan đầu mối Quốc gia, Ban chỉ đạo, cơ quan điều phối Quốc gia và cơ quan thực hiện hợp phần của dự án Quốc gia thuộc dự án “Ngăn chặn xu hướng suy thoái môi trường ở biển Đông va Vịnh Thái Lan” 05.08.2002 14 17/2006/QĐ-BTNMT Quy định về việc cấp phép hành nghê khoan nước dưới đát 12.10.2006 15 969/QĐ-BTNMT Về việc uỷ quyền cho cục trưởng cục quản lý tài nguyên nước cấp phép thăm dò, khai thác, sử dụng tài nguyên nước và hành nghề khoan nước dưới đất 24.07.2006 16 05/2003/QĐ-BTNMT Quy điịnh cấp phép thăm dò, khai thác hành nghề khoan nước dưới đất 04.09.2003 17 59/2006/QĐ-BTC Về việc quy định mức thu, chế đọ thu, nộp, quản lý và sử dụngphí thẩm định, lệ phí cấp phép thăm dò, khai thác, sử dụng tài nguyên nước, xả nước thải vào nguồn nước và hành nghề khoan nước dưới đát 25.10.2006 18 81/2006/QĐ-TTg Phê duyệt chiến lược Quốc gia về tài nguyên nước đến năm 2010 14.04.2006 19 05/2006/TT-BTC Hướng dẫn thuế tài nguyên đối với nước thiên nhiên dùng để sản xuất thuỷ điện 19.01.2006 20 8/1998/QH Luật tài nguyên nước 01.06.1998 21 427/1997/QĐ-BCN Về việc thành lập ban quan lý dự án nước ngầm đồng bằng sông Cửu Long. 18.03.1997 2. Đánh giá a. Ưu điểm: Trong những năm qua hệ thống pháp luật về bảo vệ tài nguyên nước ngày càng được bổ sung và hoàn thiện, đã phát huy vai trò tích cực trong việc huy động mọi nguồn lực của toàn xã hội và bảo vệ tài nguyên nước. Vai trò tích cực của hệ thống pháp luật về bảo vệ tài nguyên nước được thể hiện ở những khía cạnh sau đây: Thứ nhất: Hệ thống pháp luật về bảo vệ tài nguyên nước ra đời thể hiện sự quan tâm của Đảng và Nhà nước ta trong việc tạo lập một khung pháp lý khả thi nhằm quản lý chặt chẽ các nguồn tài nguyên nước. Với việc ban hành Luật Tài nguyên nước đã từng bước đưa công tác quản lý và sử dụng nước ở nước ta đi dần vảo nề nếp; nâng cao ý thức của người dân trong việc sử dụng hợp lý, tiết kiệm nước đi đôi với bảo vệ chống gây ô nhiễm, nhiễm bẩn và làm cạn kiệt nguồn nước. - Thứ hai: Pháp luật vể bảo vệ tài nguyên nước ra đời cùng với các văn bản pháp luật khác về bảo vệ đất, tài nguyên rừng; bảo vệ khoáng sản; bảo vệ nguồn lợi thủy sản... đã góp phần hoàn thiện hệ thống pháp luật về bảo vệ môi trường ở nước ta trong điều kiện kinh tế thị trường. Điều này khẳng định Đảng và Nhà nước ta không chỉ quan tâm đến việc đầy mạnh tốc độ phát triển kinh tế, cải thiện và từng bước nâng cao mức sống của người dân mà còn rất chú trọng việc khai thác hợp lý và bảo vệ bền vững các nguồn tài nguyên thiên nhiên, đảm bảo cho con người quyền được sống trong môi trường trong lành. - Thứ ba: Pháp luật về bảo vệ Tài nguyên nước ở nước ta đã tiếp cận và “nội luật hóa” quan điểm phát triển và quản lý tổng hợp tài nguyên nước của Hội nghị thượng đỉnh Liên hợp quốc về Môi trường và phát triển họp tại Rio Janeiro (Braxin) năm 1992: “Quản lý tổng hợp tài nguyên nước dựa trên nhận thức nước là bộ phận nội tại của hệ sinh thái, một nguồn tài nguyên thiên nhiên, và một loại hàng hóa kinh tế và xã hội, mà số lượng và chất lượng quyết định bản chất của việc sử dụng. Vì mục đích này, tài nguyên nước cần phải được bảo vệ, có tính đến chức năng của các hệ sinh thái nước và tính tồn tại mãi mãi của tài nguyên, để có thể thỏa mãn và dung hòa các nhu cầu về nước cho các hoạt động của con người”. Quan điểm quản lý tổng hợp tài nguyên nước ra đời khi con người nhận thức được rằng nước là một nguồn tài nguyên thiên nhiên có hạn trong khi nhu cầu khai thác, sử dụng nước cả về số lượng và chất lượng cho các mục đích khác nhau của con người ngày càng tăng. Việc quản lý tổng hợp tài nguyên nước được thể hiện trong Luật Tài nguyên nước thông qua các quy định đề cập những lĩnh vực cơ bản sau đây: *thành lập một hệ thống cơ quan quản lý thống nhất về tài nguyên nước * Quy định nội dung, thẩm quyền quản lý nhà nước về Tài nguyên nước * Quy định về bảo vệ chất lượng nguồn nước; phòng, chống, khắc phục hậu quả và tác hại do nước gây ra. * Quy định việc cấp phép khai thác sử dụng tài nguyên nước. * Xây dựng chính sách tài chính về tài nguyên nước. - Thứ tư, pháp luật về bảo vệ tài nguyên nước đã thể hiện sâu sắc quan điểm bảo vệ, khai thác, sử dụng tài nguyên nước; phòng, chống và khắc phục hậu quả, tác hại do nước gây ra phải tuân theo quy hoạch lưu vực sông, bảo đảm tính hệ thống của lưu vực, không chia cắt theo địa giới hành chính. Bởi lẽ, do đặc điểm của Tài nguyên nước là vận động theo lưu vực nên quản lý, phát triển và bảo vệ tài nguyên nước phải tôn trọng thuộc tính tự nhiên này. Các hoạt động khai thác, sử dụng tài nguyên nước thuộc các dự án phát triển cũng như các hoạt động phòng chống tác hại do nước gây ra trong phạm vi lưu vực đều phải phù hợp với quy hoạch lưu vực sông. Quản lý tổng hợp theo lưu vực sông được xác định là một quá trình quy hoạch, xây dựng và thực hiện việc khai thác các dạng tài nguyên trong một lưu vực, xem xét toàn diện và đầy các nhân tố có liên quan tới xã hội, kinh tế, môi trường trong mối tương tác về không gian (giữa các bộ phận trong lưu vực: thượng lưu, trung lưu và hạ lưu), tương tác giữa các nhân tố (chống xói mòn, rửa trôi, làm thoái hóa đất, giảm sức sinh sản của rừng và đất nông nghiệp, ngăn chặn bồi lắng và nhiễm bẩn nước, hạn chế lũ, bùn, đá...) Phương pháp quản lý theo lưu vực sông là thích hợp cho việc tính toán, đánh giá, liên kết các quá trình sinh học và vật lý của các hoạt động diễn ra trong lưu vực. Luật Tài nguyên nước đã đề cập tiếp cận nội dung quản lý quy hoạch lưu vực sông trong hoạt động quản lý nhà nước về nước với những nội dung quy định tại khoản 1 điều 64. - Thứ năm, pháp luật về bảo vệ Tài nguyên nước đã đề cập vấn đề quan hệ quốc tế về tài nguyên nước. Đây là vấn đề có ý nghĩa quan trọng đối với nước ta nhằm tranh thủ hợp tác, giúp đỡ của các tổ chức phi chính phủ, cộng đồng quốc tế nói chung và sự phối hợp của các nước có chung nguồn nước nói riêng trong việc khai thác và sử dụng hợp lý và bảo vệ bền vững nguồn tài nguyên nước. - Thứ sáu, nước ta đã xây dựng một chiến lược quốc gia dài hạn và một kế hoạch hành động quốc gia về quản lý, bảo vệ tài nguyên nước nhằm phục vụ các yêu cầu phát triển kinh tế, xã hội của đất nước. b) Nhược điểm - Hiện nay tuy đã có rất nhiều văn bản pháp luật quy định về kiểm soát ô nhiễm và suy thoái tài nguyên nước nhưng luật pháp và các quy định liên quan tới nguồn tài nguyên nữa vẫn còn được soạn thảo một cách riêng rẽ. Hệ thống văn bản pháp luật về tài nguyên nước chưa hoàn chỉnh. Luật tài nguyên chưa thực sự đi vào cuộc sống và chưa phát huy được tác dụng điều chỉnh, chưa phù hợp với tình hình mới. Công tác quản lý tài nguyên nước còn phân tán, chồng chéo, đan xen giữa quản lý và khai thác, sử dụng. Bộ máy tổ chức chưa hoàn thiện, năng lực quản lý tài nguyên nước chưa đáp ứng yêu cầu, thiếu các cơ quan chuyên môn hỗ trợ kỹ thuật. Việc phân công, phân cấp trong quản lý nhà nước về tài nguyên nước vẫn còn chống chéo, trùng lặp trong khi có chỗ lại bỏ trống. Sự phối hợp giữa các ngành, giữa Trung ương và địa phương, giữa các tỉnh trong khai thác, sử dụng tài nguyên nước chỉ chú trọng đến lợi ích của ngành mà mình là chủ yếu, thiếu sự quan tâm đầy đủ đến lợi ích của ngành khác. - Luật Tài nguyên nước được ban hành năm 1998 nên một số quy định của nó không còn phù hợp với điều kiện hiện nay. Theo quy định của Luật Tài nguyên nước thì “Bộ Nông nghiệp và pháp trển nông thôn chịu trách nhiệm trước Chính phủ thực hiện chức năng quản lý nhà nước về tài nguyên nước theo sự phân công của Chính phủ” (khoản 2 Điều 58). Tuy nhiên, hiện nay chức năng quản lý nhà nước về tài nguyên nước được giao cho Bộ Tài nguyên và Môi trường thực hiện theo quy định Nghị quyết số 02/2002/QH11 ngày 05/08/2002 của Quốc hội khóa XI và Nghị định số 91/2002/NĐ-CP ngày 11/11/2002 của Chính phủ. Vì vậy, cần sửa đổi bổ sung các quy định của Luật Tài nguyên nước cho phù hợp với yêu cầu thực tế và tạo điều kiện thuận lợi cho Bộ tài nguyên và Môi trường thực hiện tốt nhiệm vụ quản lý nhà nước về Tài nguyên nước được giao. - Theo quy định tại khoản 1 Điều 2 Luật Tài nguyên nước 1998 thì: “Tài nguyên nước bao gồm các nguồn nước mặt, nước mưa, nước dưới đất, nước biển thuộc lãnh thổ CHXHCN Việt Nam. Nước biển, nước dưới đất thuộc vùng đặc quyền kinh tế, thềm lục địa được quy định tại các văn bản pháp luật khác. Nước khoáng, nước nóng thiên nhiên do luật khoáng sản quy định.”. Tuy nhiên, hiện nay pháp luật Việt Nam chưa đề cập đến việc quản lý, khai thác và sử dụng các nguồn nước khoáng, nước nóng thiên nhiên. - Việc thi hành một số Nghị định của ta đang đứng trước khó khăn: Nghị định phí nước thải: có thể chưa lường trước được hậu quả của tình hình ô nhiễm sẽ mở rộng nhanh và hậu quả ngày càng trầm trọng và sợ dân ta còn nghèo nên chưa mạnh dạn tiếp cận với quan điểm của thế giới về phí nước thải. Trước đây, Bộ xây dựng chỉ đưa vào giá nước mức phụ thu là 10% để phục vụ cho việc nạo vét của việc thoát nước. Khi xây dựng chính sách phí nước thải sinh hoạt, Bộ tài nguyên và môi trường cũng đưa vào một tỉ lệ rất thấp: Nghị định 67/2003/NĐ-CP về phí nước thải chỉ quy định thu phí nước thải với mức 10% của giá nước, trong khi thế giới thu bằng và lớn hơn cả giá nước, như Mỹ thu bằng 135% giá nước, Pháp thu bằng giá nước. Công hoà Pháp quản lý tài nguyên nước theo nguyên tắc người sử dụng nước và người gây ô nhiễm nguồn nước phải trả tiền. Nguyên tắc được đề ra là “mỗi giọt nước được cung cấp, mỗi giọt nước thải ra đều phải đóng tiền” để sử dụng vào việc cung cấp nước và xử lý ô nhiễm nguồn nước. Giá thành của một mét khối nước được tính chi tiết gồm: + Giá cơ bản để sản xuất một mét khối nước sạch, giá này do đơn vị sản xuất nước sạch quyết định trên cơ sở giá thành sản xuất; + Chi phí đầu tư cho việc thoát nước, xử lý nước thải sau khi sử dụng, giá này do đơn vị thoát nước quy định trên cơ sở chi phí đầu tư; + Thuế tài nguyên nước do Nhà nước (Bộ Tài chính) quy định; + Phí ô nhiễm nguồn nước do Uỷ ban từng lưu vực sông quyết định hàng năm căn cứ trên mức độ ô nhiễm tính trên cơ sở số lượng dân cư, mật độ khu công nghiêp, làng nghề… Giá nước ở Cộng hoà Pháp được tính đầy đủ nguồn kinh phí để xử lý ô nhiễm, cung cấp nước sạch cho các nhu cầu sử dụng nước trên toàn lãnh thổ nước Pháp. Nếu tình trạng thu phí nước thải thấp như thế này thì không thể tạo ra nguồn tài chính để xử lý nước thải sinh hoạt trong khi ngân sách nhà nước của ta lại không thể có đủ để đầu tư cho xây dựng và vận hành cách trạm xử lý nước thải (33 trạm). Điều này sẽ khiến nguồn nước ngày càng trở nên suy thoái. Tất cả các nước phát triển trên thế giới đều phải thực hiện nguyên tắc PPP (Polluter Pay Principle) để đưa phí ô nhiễm nước lên cao hơn mới có đủ nguồn kinh phí để xử lý nước thải. - Nghị định về thủy lợi phí: Việc thực hiện ở Việt Nam đang đứng trước nguy cơ khó khăn lớn do chủ trương mở rộng miễn giảm và bỏ thủy lợi phí. Trong tình hình nông nghiệp Việt Nam hiện sử dụng trên 80% nhu cầu dùng nước của cả quốc gia và trước thực trạng nhiều công trình thủy nông đang bị xuống cấp và chưa hoàn chỉnh, chưa chuyển giao cho các tổ chức hợp tác xã trên diện rộng thì việc bỏ thủy lợi phí sẽ phải có những điều chỉnh về chính sách và tổ chức quản lý để sao sử dụng tiết kiệm nguồn nước tưới. - Bên cạnh đó, cần phải kể đến những nhược điểm là: cơ cấu tổ chức của bộ máy tài nguyên nước chưa được hoàn thiện, mạng lưới điều tra cơ bản về tài nguyên nước và môi trường chưa được hoàn chỉnh, chưa thiết lập được đầy đủ cơ sở dữ liệu, tài liệu cơ bản về tài nguyên nước, về sử dụng và ô nhiễm để phục vụ cho hoạt động lập pháp nhằm quản lý và bảo vệ nguồn tài nguyên này. - Hiện nay, chúng ta vẫn thực sự thiếu nhiều cán bộ để thực hiện nhiệm vụ quản lý và chống suy thoái tài nguyên nước. Và việc quản lý chưa được gắn bó cũng gây ra lãng phí cho ngân sách nhà nước. - Chính sách về tài nguyên nước chưa đầy đủ trong khi quản lý tài nguyên nước là nhiệm vụ rất quan trọng, đòi hỏi cần có sự phối kết hợp thực hiện hiệu quả giữa các ngành, các cấp và toàn thể xã hội. III. Đánh giá thực tiễn áp dụng pháp luật về việc kiểm soát ô nhiễm và suy thoái tài nguyên nước tại Việt Nam Qua nhiều năm thực hiện Luật Tài nguyên nước, công tác quản lý tài nguyên nước đã dần đi vào cuộc sống, phục vụ thiết thực cho sự nghiệp phát triển KT-XH, đời sống dân sinh của đất nước. Tuy nhiên thực trạng quản lý tài nguyên nước ở các địa phương còn rất nhiều vấn đề bất cập; đặc biệt trong công tác quản lý Nhà nước về tài nguyên nước, bên cạnh đó là sự thiếu ý thưc của các cá nhân cũng như tổ chức có liên quan. 1. Về phía các cơ quan nhà nước: Ưu điểm: Bộ Nông nghiệp &PTNT đã chỉ đạo các tỉnh xây dựng và phê duyệt dự án quy hoạch cấp nước sạch ở cấp tỉnh. Đến nay đã có 5/7 vùng kinh tế sinh thái, có 61/64 tỉnh hoàn thành qui hoạch tổng thể về nước sạch. Bên cạnh đó, các tỉnh cũng đã thực hiện nhiều biện pháp cần thiết để góp phần thực hiện mục tiêu chống cạn kiệt, chống ô nhiễm và bảo vệ nguồn nước như: - Điều tra, đánh giá trữ lượng, chất lượng, hiện trạng sử dụng và định hướng khai thác, bảo vệ tài nguyên nước trên địa bàn tỉnh; - Lồng ghép thực hiện các Chương trình có liên quan ngay từ khi lập kế hoạch để khai thác có hiệu quả nguồn nước, một số tỉnh đã kết hợp xây dựng các công trình thủy lợi với cấp nước sinh hoạt. - Tăng cường phát triển xây dựng các hệ thống cấp nước tập trung, giảm bớt việc khoan giếng nhỏ lẻ. Tốc độ tăng trưởng của các công trình cấp nước tập trung đã tăng lên đáng kể và đã đáp ứng được nhu cầu cấp nước cho khoảng 10% dân cư nông thôn, cao gấp 5 lần so với 2% năm 1998. - Ban hành quy định về khai thác các công trình cấp nước sinh hoạt trên địa bàn tỉnh và tăng cường quản lý việc khai thác nước ngầm. - Nghiên cứu và khuyến khích sử dụng phân vi sinh, sử dụng thuốc bảo vệ thực vật hợp lý, phát triển mạnh các loại hình hố xí sinh thái, hố xí tự hoại để hạn chế ô nhiễm môi trường và chống ô nhiễm nguồn nước. Hạn chế: - Sự phối hợp, lồng ghép giữa các cơ quan còn nhiều hạn chế. Giữa các Bộ, Ngành, Đoàn thể quần chúng chưa có sự phối hợp tổ chức thực hiện chặt chẽ. ở một số tỉnh chưa phân định cụ thể nhiệm vụ của Sở NN&PTNT, Sở Kế hoạch và Đầu tư, Sở Tài nguyên và Môi trường trong quá trình theo dõi thực hiện cũng như áp dụng pháp luật kiểm soát ô nhiễm môi trường. Cơ chế phân công và phối hợp giữa các cơ quan, các ngành và địa phương chưa đồng bộ, còn chồng chéo, chưa quy định trách nhiệm rõ ràng. - Các quy định về quản lý và bảo vệ môi trường nước còn thiếu (chẳng hạn như chưa có các quy định và quy trình kỹ thuật phục vụ cho công tác quản lý và bảo vệ nguồn nước). - Chưa có chiến lược, quy hoạch khai thác, sử dụng và bảo vệ tài nguyên nước theo lưu vực và các vùng lãnh thổ lớn. Chưa có các quy định hợp lý trong việc đóng góp tài chính để quản lý và bảo vệ môi trường nước, gây nên tình trạng thiếu hụt tài chính, thu không đủ chi cho bảo vệ môi trường nước.  Ngân sách đầu tư cho bảo vệ môi trường nước còn rất thấp (một số nước ASEAN đã đầu tư ngân sách cho bảo vệ môi trường là 1% GDP, còn ở Việt Nam mới chỉ đạt 0,1%). Các chương trình giáo dục cộng đồng về môi trường nói chung và môi trường nước nói riêng còn quá ít. - Đội ngũ cán bộ quản lý môi trường nước còn thiếu về số lượng, yếu về chất lượng (Hiện nay ở Việt Nam trung bình có khoảng 3 cán bộ quản lý môi trường/1 triệu dân, trong khi đó ở một số nước ASEAN trung bình là 70 người/1 triệu dân)... - Nhận thức của nhiều cấp chính quyền, cơ quan quản lý, tổ chức và cá nhân có trách nhiệm về nhiệm vụ bảo vệ môi trường nước chưa sâu sắc và đầy đủ; chưa thấy rõ ô nhiễm môi trường nước là loại ô nhiễm gây nguy hiểm trực tiếp, hàng ngày và khó khắc phục đối với đời sống con người cũng như sự phát triển bền vững của đất nước. Một số cơ quan quản lý ở các cấp, ngành vẫn chưa coi nước là một tài nguyên quan trọng; quan niệm “Nước là của trời cho, vô hạn” nên dùng vô tư, không cần xin phép, không cần tiết kiệm, không biết bảo vệ, phòng chống ô nhiễm, suy thoái, tàng kiệt nguồn nước. Công tác tuyên truyền, phổ biến pháp luật về tài nguyên nước ở địa phương chưa được các cấp, các ngành quan tâm đúng mức, càng làm cho việc quản lý tài nguyên nước kém hiệu quả. Một thực tế hiện nay, cán bộ tài nguyên các xã, phường, thị trấn, Phòng tài nguyên môi trường các huyện, thành, thị do ít người nhiều việc, phải trực tiếp giải quyết công việc bức xúc và nhạy cảm hàng ngày, trong lĩnh vực quản lý đất đai nên công tác quản lý về khoáng sản, tài nguyên nước, môi trường chưa được quan tâm đúng mức. Hầu hết các địa phương chưa thống kê đầy đủ các nguồn tài nguyên nước cả về số lượng và chất lượng; chưa quản lý chặt chẽ hoạt động của các tổ chức, cá nhân khai thác sử dụng nước cho các mục đích sản xuất nông, lâm, công nghiệp, nuôi trồng thủy sản, du lịch dịch vụ, sinh hoạt đời sống... Các hành vi vi phạm và thẩm quyền xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực tài nguyên nước đã được qui định chi tiết tại Nghị định số 34 của Chính phủ Qui định về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực tài nguyên nước và Thông tư số 05 của Bộ Tài nguyên và Môi trường hướng dẫn thi hành Nghị định số 34 của Chính phủ. Tuy nhiên, việc xử lý các hành vi vi phạm ở địa phương vẫn chưa được quan tâm, giải quyết triệt để. Sự phối hợp trong việc quản lý bảo vệ tài nguyên nước giữa các tỉnh trong lưu vực chưa được chặt chẽ, thống nhất. Trong quá trình phát triển kinh tế của mỗi tỉnh vì lợi ích riêng của mình dẫn đến còn có những bất cập gây ảnh hưởng lẫn nhau như: các tỉnh nằm ở thượng và trung lưu như Phú Thọ, Thái Nguyên quá trình sử dụng nước cho công nghiệp đã thải các chất độc hại và nước thải thông qua xử lý làm ảnh hưởng tới chất lượng nước của các tỉnh nằm dưới hạ lưu. Các tỉnh miền núi đã không kiểm soát được việc triển khai rừng, khai thác khoáng sản bừa bãi đã gây ô nhiễm cạn kiệt nguồn nước và bồi lắng sông, hồ ở hạ lưu. Những vấn đề trên chưa được giải quyết triệt để vì chúng ta còn thiếu nhiều chế tài xử phạt hành chính, cấp phép sử dụng nước và xả nước thải để điều chỉnh có tính chất vĩ mô giải quyết mâu thuẫn trong việc quản lý nước theo ranh giới hành chính và ranh giới thuỷ văn của hệ thống nguồn nước. Sự phối hợp giữa các ngành vẫn còn có xảy ra những bất cập: Ví dụ như ngành điện và nông nghiệp: ngành điện muốn có sản lượng điện cao thì ngoài việc tích nhiều nước và xả qua tuabin yêu cầu lớn và đều nhưng nông nghiệp lại cần điều tiết để bảo đảm đủ nước lúc kiệt nhất và giữ lại nước khi phải tiêu úng, chống lũ...Đối với ngành thuỷ sản việc xây dựng các hồ chứa, đập ngăn nước lớn đã làm giảm hẳn đôi khi mất đi những loài cá quý (cá Anh Vũ trên sông Lô) hoặc làm cản trở các giống cá vùng nước lợ chuyên đẻ trứng ở vùng nước ngọt vì vậy làm giảm nguồn cung cấp cá con cho sông ngòi. Còn nữa, việc xây dựng các hồ chứa để tích nước điều tiết nước phục vụ cho mục đích phát triển các ngành kinh tế quốc dân, nhưng với những hồ có cảnh quan đẹp phù hợp với du lịch thì du lịch đề nghị chuyển đổi mục đích sử dụng đã xảy ra cạnh tranh gay gắt giữa du lịch và ban quản lý công trình thuỷ lợi như hồ Đại Lải, hồ Đồng Mô – Nga Sơn. 2. Về phía các tổ chức, cá nhân a)Ưu điểm: - Có chuyển biến mạnh mẽ về nhận thức và hành động của người dân và cộng đồng xã hội về nhiệm vụ bảo vệ môi trường. Người dân đã quan tâm, chú ý đến việc bảo vệ môi trường nước ở nơi sinh sống, trong việc tổ chức cuộc sống gia đình hằng ngày và những hoạt động sản xuất, kinh doanh, chăn nuôi, trồng trọt, đặc biệt là những vùng dân cư có đông đồng bào là tín đồ các tôn giáo, đồng bào dân tộc thiểu số. - Người dân đã tích cực, chủ động trong việc tham gia  thực hiện các chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước cũng như xây dựng các  quy ước, hương ước của cộng đồng dân cư trong lĩnh vực bảo vệ môi trường nước ; xây dựng ý thức trách nhiệm, tự giác trong bảo vệ môi trường và sống thân thiện, hài hoà với môi trường; sử dụng tiết kiệm ngườn nước và sử dụng có hiệu quả nguồn tài nguyên nước ở cộng đồng dân cư. b)Hạn chế: Bên cạnh những ưu điểm đạt được còn có những hạn chế: - Có hiện tượng các tổ chức cá nhân hành nghề khoan thăm dò nước, các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh xả nước thải vào nguồn nước. Vì vậy tình trạng khoan khai thác nước tùy tiện, xả nước thải vào nguồn nước, môi trường bừa bãi đã gây nên hậu quả sụt lún đất, ô nhiễm nguồn nước, ô nhiễm tầng chứa nước ngầm ngày càng gia tăng. Các tổ chức, cá nhân khai thác sử dụng nước, hành nghề khoan nước, xả nước thải vào nguồn nước trong quá trình hoạt động chưa thực hiện đầy đủ qui trình, qui phạm nhằm khai thác hợp lý, tiết kiệm, hiệu quả và bảo vệ tài nguyên nước theo định hướng phát triển bền vững; chưa thực hiện việc xin cấp giấy phép thăm dò, khai thác, sử dụng tài nguyên nước, xả nước thải vào nguồn nước theo qui định của Luật Tài nguyên nước. - Qua kết quả thanh, kiểm tra công tác BVMT tại các địa phương trong thời gian qua cho thấy, việc x

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docĐánh giá thực trạng pháp luật về kiểm soát ô nhiễm và suy thoái tài nguyên nước ở Việt Nam.doc