Tiểu luận Tìm hiểu lý luận và thực tiễn về bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra

Chi phí hợp lý cho việc cứu chữa, bồi dưỡng, phục hồi sức khoẻ và chức năng bị mất, bị giảm sút của người bị thiệt hại bao gồm: tiền thuê phương tiện đưa người bị thiệt hại đi cấp cứu tại cơ sở y tế; tiền thuốc và tiền mua các thiết bị y tế, chi phí chiếu, chụp X quang, chụp cắt lớp, siêu âm, xét nghiệm, mổ, truyền máu, vật lý trị liệu. theo chỉ định của bác sỹ; tiền viện phí; tiền mua thuốc bổ, tiếp đạm, tiền bồi dưỡng phục hồi sức khoẻ cho người bị thiệt hại theo chỉ định của bác sỹ; các chi phí thực tế, cần thiết khác cho người bị thiệt hại (nếu có) và các chi phí cho việc lắp chân giả, tay giả, mắt giả, mua xe lăn, xe đẩy, nạng chống và khắc phục thẩm mỹ. để hỗ trợ hoặc thay thế một phần chức năng của cơ thể bị mất hoặc bị giảm sút của người bị thiệt hại (nếu có).

doc18 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 1900 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tiểu luận Tìm hiểu lý luận và thực tiễn về bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
2008 quy định “Phương tiện giao thông cơ giới đường bộ ( sau đây gọi là xe cơ giới) gồm xe ô tô, máy kéo; rơ mooc hoặc sơ mi rơ mooc được kéo bởi xe ô tô, máy kéo; xe mô tô hai bánh, xe mô tô ba bánh; xe gắn máy (kể cả xe máy điện) và các loại xe tương tự”. Luật giao thông đường bộ phân chia các loại phương tiện giao thông đường bộ ra thành “phương tiện cơ giới” và “phương tiện thô sơ”. Nếu áp dụng cách hiểu tương tự như vậy đối với các loại hình đường giao thông khác, ta có thể phân biệt được phương tiện giao thông nào là nguồn nguy hiểm cao độ. Đối với phương tiện giao thông trên mặt nước thì theo điều 11 Bộ luật hàng hải Việt Nam năm 2005:“ Tàu biển là tàu hoặc cấu trúc nổi di động khác chuyên dùng hoạt động trên biển” và khoản 7, điều 3 Luật giao thông đường thủy nội địa năm 2004 quy định: “Phương tiện thủy nội địa (sau đây gọi là phương tiện) là tàu, thuyền và các cấu trúc nổi khác, có động cơ hoặc không có động cơ, chuyên hoạt động trên đường thủy nội địa”. Hay đối với tàu bay là phương tiện trong hoạt động vận chuyển hàng không thì: “Tàu bay là thiết bị được nâng giữ trong khí quyển nhờ tác động tương hỗ với không khí, bao gồm máy bay, trực thăng, tàu lượn, khí cầu và các thiệt bị bay khác, trừ thiết bị được nâng giữ trong khí quyển nhờ tác động tương hỗ với không khí phản lại từ bề mặt Trái Đất” (Khoản 1, điều 13, Luật hàng không dân dụng Việt Nam 2006). Hoặc trong trường hợp phương tiện giao thông vận tải đường sắt, khoản 20 điều 3 Luật đường sắt năm 2005 quy định: “Phương tiện giao thông đường sắt là đầu máy, xe toa, xe toa động lực, phương tiện chuyên dùng di chuyển trên đường sắt”. Có thể hiểu phương tiện giao thông có kích cỡ lớn (ngang với các phương tiện giao thông đường bộ cơ giới trở lên) hay hoạt động bằng động cơ thì đều là nguồn nguy hiểm cao độ. - “Hệ thống tải điện” là hệ thống truyền điện bao lưới điện và các thiết bị đo đếm điện. Theo quy định tại Luật điện lực 2004 thì: “…3. Lưới điện là hệ thống đường dây tải điện, máy biến áp và trang thiết bị phụ trợ để truyền dẫn điện. Lưới điện, theo mục đích sự dụng và quản lý vận hành, được phân biệt thành lưới điện truyền tải và lưới điện phân phối… 4. Thiết bị đo đếm điện là thiết bị đo công suốt, điện năng, dòng điện, điện áp, tần số, hệ thống công suốt, bao gồm các loại như công tơ, các loại đồng hồ đo điện và các thiết bị, phụ kiện kèm theo.” - “Nhà máy công nghiệp đang hoạt động” là tổ hợp công trình, cơ sở sản xuất của nền công nghiệp; thường sử dụng máy móc với quy mô lớn; đang vận hành, thực hiện các chức năng theo quy trình hoạt động thông thường. Cần phần biệt rằng nhà máy công nghiệp đang ở trạng thái không hoạt động thì không phải là nguồn nguy hiểm cao độ vì nó không tạo ra nguy hiểm cho môi trường xung quanh. - “Vũ khí” theo quy định tại “Quy chế quản lý vũ khí, vật liệu nổ và công cụ hỗ trợ” – ban hành kèm Nghị định số 47/CP của Chính phủ ngày 12/8/1996 bao gồm: vũ khí quân dụng, vũ khí thể thao, súng săn và các công cụ hễ trợ. - “Chất cháy, chất nổ”. Theo khoản 2, điều 3 Luật phòng cháy, chữa cháy thì nguy hiểm về cháy, nổ là chất lỏng, chất khí, chất rắn hoặc hàng hoá, vật tư dễ xảy ra cháy, nổ. Chất cháy có đặc tính tự bố cháy khi tiếp xúc với ôxy trong không khú, nước hoặc dưới tác động của các yếu tố khác ở nhiệt độ nhất định (diêm, phốt pho, xăng dầu .v.v.) Chất nổ có khả năng gây nổ mạnh, nhanh tỏa nhiệt và ánh sáng (thuốc nổ, thuốc pháo, thuốc súng.v.v.) - “Chất độc”: Theo quy định tại khoản 5 điều 4 Luật Hóa chất 2007 thì “Hóa chất độc là hóa chất nguy hiểm có ít nhất một trong những đặc tính quy định từ điểm a đến n khoản 4 điều này”. - “Chất phóng xạ” theo quy định tại khoản 3 điều 3 pháp lệnh an toànvà kiểm soát bức xạ 1996 là chất ở thể rắn, lỏng hoặc khí có hoạt độ phóng xạ riêng lớn hơn 70 kilo Beccơren trên kilogam (70 kBq/kg. Nó là nhân tố sát thương của vũ khí hạt nhân gồm những đồng vị không bền của các nguyên tố hóa học, có khả năng phát ra những chùm tia phóng xạ không nhìn thấy gây bệnh hoặc gây nhiễm xạ đối với người, động vật và môi trường sống. - “Thú dữ” theo từ điển tiếng Việt là động vật bậc cao, có lông mao, có tuyến vú, nuôi con bằng sữa, to lớn, rất dữ, có thể làm hại người. Ví dụ: hổ, báo, sư tử, gấu… Định nghĩa trên được sử dụng đối với những loại động vật thuộc Lớp thú theo phân loại sinh học. Tuy nhiên cũng cần phải thấy một số loài cá, bò sát .v.v. cũng có khả năng gây nguy hiểm cho người và tài như thú dữ nên chúng cũng được coi là nguồn nguy hiểm cao độ. - Ngoài ra, pháp luật còn dự liệu các nguồn nguy hiểm cao độ có thể xuất hiện trong tương lại nên đã đặt ra quy định về nguồn nguy hiểm cao độ khác do pháp luật quy định. 1.2. Đặc điểm. Về bản chất, nguồn nguy hiểm cao độ có những đặc điểm riêng giúp phân biệt nó với những vật khác. Điều này có ý nghĩa rất lớn trong việc giúp cơ quan có thẩm quyền giải quyết tranh chấp về bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng có thể áp dụng đúng quy định của pháp luật. Ta thấy, nguồn nguy hiểm cao độ có những tính chất như sau: - Tính tự nguy hiểm: Bản thân nguồn nguy hiểm cao độ đã có những yếu tố bên trong xác định tính nguy hiểm của mình, sự nguy hiểm đó có thể bùng phát ra môi trường xung quanh, gây thiệt hại. - Tính xác định bởi quy định của pháp luật. Nguồn nguy hiểm cao độ không phải là một khái niệm khoa học cụ thể mà là tập hợp các tài sản thuộc danh mục được pháp luật quy định. Khi xem xét một vật có phải nguồn nguy hiểm cao độ hay không phải căn cứ vào quy định của pháp luật, tránh nhầm lẫn với các trường hợp khác. Chẳng hạn cần tránh nhầm giữa thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ là thú dữ gây ra với thiệt hại do súc vật gây ra, giữa nhà máy công nghiệp đang hoạt động với nhà cửa, công trình xây dựng khác gây ra .v.v. 2. Trách nhiệm bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra. 2.1. Điều kiện phát sinh. Bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra là một trường hợp cá biệt của bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng. Vì vậy, ngoài những điều kiện cơ bản, giống với điều kiện phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng nói chung; điều iện phá sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra còn có những điểm riêng biệt, đặc thù. Các điều kiện phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra bao gồm: 2.1.1. Có thiệt hại xảy ra. Thiệt hại là yếu tố quan trọng, mang tính tiền đề của trách nhiệm bồi thường thiệt hại nói chung và bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra nói riêng. Khi có thiệt hại xảy ra trong thực tế thì mới đặt ra vấn đề trách nhiệm bồi thường thiệt hại nhằm đảm bảo quyền lợi cho người bị xâm hại về lợi ích. Thiệt hại là tổn thất thực tế bị mất được tính thành tiền do việc xâm phạm đến tính mạng, sức khỏe, danh dự, uy tín, tài sản của cá nhân, tổ chức. Các dạng thiệt hại bao gồm: - Thiệt hại về tài sản (tài sản bị mất, giảm sút .v.v.) - Thiệt hại về tính mạng, sức khỏe (chi phí cứu chữa, bồi dưỡng; thu nhập thực tế bị giảm, bị mất .v.v.) - Tổn thất về tinh thần (bù đắp tổn thất của người bị hại và người thân của họ trong trường hợp họ chết hoặc bị tổn hại về sức khỏe) Ở đây ta thấy nguồn nguy hiểm cao độ không thể gây ra thiệt hại về danh dự, nhân phẩm, uy tín cho người khác nên không đặt vấn đề trách nhiệm bồi thường thiệt hại do danh dự, nhân phẩm, uy tín bị xâm hại. 2.1.2. Có sự kiện gây thiệt hại của chính nguồn nguy hiểm cao độ. Trong trường hợp bồi thường thiệt hại gây ra bởi nguồn nguy hiểm cao độ, pháp luật dân sự không đặt ra yếu tố hành vi gây thiệt hại. Vì bản chất, hành vi là sự hành động hoặc không hành động của con người, nguồn nguy hiểm cao độ không phải là con người nên không thể có hành vi gây thiệt hại mà phải gọi là “sự kiện gây thiệt hại”. Sự kiện gây thiệt hại phải do tự thân nguồn nguy hiểm cao độ gây ra mà không phải thông qua sự điều khiển có mục đích của ý thức con người. Chẳng hạn xe ô tô đang di chuyển bị đứt phanh và gây thiệt hại sẽ khác với người điều khiển biết xe bị đứt phanh nhưng vẫn cho xe hoạt động với mục đích gây thiệt hại cho người khác. Tuy không thể đánh giá một sự kiện gây thiệt hại của nguồn nguy hiểm cao độ là hợp pháp hay không, nhưng có thể đánh giá được việc sử dụng, bảo quản nguồn nguy hiểm cao độ của chủ sở hữu hay người được giao chiếm hữu, sử dụng là có hay không đúng theo pháp luật. Đó là cơ sở để xác định lỗi và trách nhiệm bồi thường. Chẳng hạn nếu một người cho người sử dụng xe ô tô khi chưa có bằng lái gây thiệt hại vì xe bị đứt phanh thì người đó bị coi là có lỗi trong việc sử dụng và người giao xe cho người đó sẽ có lỗi trong việc giao cho người khác chiếm hữu, sử dụng nguồn nguy hiểm cao độ trái pháp luật. 2.1.3. Có mối liên hệ nhân quả giữa thiệt hại và sự kiện gây thiệt hại. Trong quan hệ giữa thiệt hại và sự kiện gây thiệt hại thì thiệt hại là kết quả, sự kiện gây thiệt hại của nguồn nguy hiểm cao độ là nguyên nhân. Việc xác định đúng, có hay không liên hệ nhân quả là tiền đề cho việc áp dụng trách nhiệm bồi thường thiệt hại. Theo nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác-Lênin về cặp phạm trù nguyên nhân kết quả, nguyên nhân là sự tác động qua lại giữa các mặt, các yêu tố bên trong một sự vật, hiện tượng hoặc giữa các sự vật, hiện tượng với nhau gây ra một sự biến đổi nhất định. Kết quả là sự biến đổi đó. Trong đó - Nguyên nhân luôn là cái có trước và kết quả là cái có sau. - Một sự vật, hiện tượng không chỉ là nguyên nhân của một kết quả này mà còn là kết quả của một nguyên nhân khác, có trước. Tương tự, kết quả của một nguyên nhân còn có thể là nguyên nhân của một kết quả khác. Do đó, khi xác định mối liên hệ nhân quả giữa sự kiện gây thiệt hại và thiệt hại, cần xem xét trong mối liên hệ trực tiếp, không xét đến nguyên nhân gián tiếp. Chẳng hạn, ô tô đứt phanh gây tai nạn giao thông, tai nạn gây ra tắc đường làm chậm trễ công việc của nhiều người. Khi đó không có mối liên hệ nhân quả trực tiếp giữa việc ô tô đứt phanh với hậu quả là nhiều người bị chậm trễ công việc. Nếu có thiệt hại do chậm công việc thì không có bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra. - Một nguyên nhân có thể gây ra nhiều kết quả và một kết quả có thể gây ra bởi nhiều nguyên nhân. Do đó khi xác định thiệt hại cần xác định rõ thiệt hại gây ra cho những ai, mức độ của từng người và gây ra bởi những ai, mức độ từng người ra sao. Từ đó ta mới xác định được có hay không liên đới quyền, nghĩa vụ bồi thường thiệt hại. 2.1.4. Lỗi. Khác với trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng nói chung, nguyên tắc đảm bảo yểu tố lỗi trong bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra đã được loại trừ. Theo khoản 3, điều 623 thì khi chủ sở hữu nguồn nguy hiểm cao độ không có lỗi vẫn phải bồi thường trừ trường hợp do pháp luật qui định. Cụ thể, theo quy định tại khoản 3 điều 623 BLDS và nghị quyết 03/2006 thì về nguyên tắc, chủ sở hữu, người được giao chiếm hữu, sử dụng hợp pháp nguồn nguy hiểm cao độ phải bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra cả khi không có lỗi, trừ những trường hợp sau: + Thiệt hại xảy ra hoàn toàn do lỗi có ý của người bị thiệt hại. Ta cần nhận rõ, lỗi trong trường hợp này là lỗi đối với hậu quả xảy ra. Bởi trên thực tiễn lỗi cố ý hoàn toàn của hành vi chưa hẳn là cố ý hoàn toàn đối với hậu quả. Ví dụ: Xe ô tô đang tham gia giao thông theo đúng quy định của pháp luật, thì bất ngờ có người lao vào xe để tự tử và hậu quả là người này bị thương nặng hoặc bị chết. Trong trường hợp này, chủ sở hữu, người được chủ sở hữu giao chiếm hữu, sử dụng hợp pháp xe ô tô đó không phải bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra. + Thiệt hại xảy ra trong trường hợp bất khả kháng hoặc tình thế cấp thiết, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác. Đây là quy định tại điểm b, khoản 3 điều 623 BLDS. 2.2. Năng lực chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại. Nhìn chung, năng lực chủ thể trong quan hệ trách nhiệm bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra giống với năng lực chủ thể trong quan hệ trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng nói chung. Cụ thể, các loại chủ thể có thể tham gia vào quan hệ bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra bao gồm: - Người từ đủ 18 tuổi trở lên có năng lực hành vi dân sự đầy đủ phải tự bồi thường thiệt hại khi họ là chủ sở hữu hoặc là người được giao chiếm hữu, sử dụng nguồn nguy hiểm cao độ gây thiệt hại. - Người từ đủ 15 tuổi đến dưới 18 tuổi phải dùng tài sản của mình đề bồi thường trước, cha mẹ chịu trách nhiệm bổ sung phần còn thiếu. - Người dưới 15 tuổi khi sử dụng nguồn nguy hiểm cao độ mà có thiệt hại gây ra bởi nguồn nguy hiểm cao độ đó thì cha mẹ phải lấy tài sản của mình để bồi thường, nếu không đủ sẽ lấy tài sản của con bù. 2.3. Xác định trách nhiệm bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra. 2.3.1. Xác định thiệt hại. Thiệt hại là điều kiện quan trọng làm phát sinh nghĩa vụ bồi thường. Do đó, vấn đề đầu tiên khi xác định trách nhiệm bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra là phải tính được một cách chính xác toàn bộ thiệt hại là bao nhiêu, từ đó làm cơ sở ấn định mức bồi thường. Những thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra chỉ có thể là bề tài sản, về sức khỏe, về tính mạng và tổn thất tinh thần do sức khỏe, tính mạng bị xâm phạm. 2.3.1.1 Thiệt hại về tài sản. Theo điều 608 BLDS thì thiệt hại về tài sản bao gồm tài sản bị mất, bị hủy hoại, bị hư hỏng, lợi ích gắn liền với việc sử dụng khai thác tài sản, chi phí hợp lý để ngăn chặn, hạn chế và khắc phục thiệt hại. Khi xác định và quy ra tiền cần chú ý: - Tài sản bị mất sẽ được đền bù theo thời giá thị trường tại thời điểm tài sản bị mất sau khi đã xem xét đến tình trạng (cũ, mới, hao mòn). - Tài sản bị hư hỏng là tài sản bị mất một số chức năng. Khoản tiền đền bù sẽ là chi phí hợp lý để phục hồi các chức năng đó. - Tài sản bị hủy hoại là tài sản không thể phục hồi chức năng ban đầu. Nếu tài sản bị hủy hoại là vật cùng loại, khoản đền bù có thể là chính vật cùng loại với tài sản đó hoặc số tiền tương ứng với giá trị của nó. Nếu là vật đặc định, hai bên sẽ thỏa thuận để bồi thường. - Lợi ích gắn liền với việc khai thác tài sản. - Hoa lợi, lợi tức chắc chắn thu được nếu không có thiệt hại xảy ra và những chi phí cần thiệt khác để khắc phục thiệt hại. 2.3.1.2. Thiệt hại về sức khỏe. a) Chi phí hợp lý cho việc cứu chữa, bồi dưỡng, phục hồi sức khoẻ và chức năng bị mất, bị giảm sút của người bị thiệt hại bao gồm: tiền thuê phương tiện đưa người bị thiệt hại đi cấp cứu tại cơ sở y tế; tiền thuốc và tiền mua các thiết bị y tế, chi phí chiếu, chụp X quang, chụp cắt lớp, siêu âm, xét nghiệm, mổ, truyền máu, vật lý trị liệu... theo chỉ định của bác sỹ; tiền viện phí; tiền mua thuốc bổ, tiếp đạm, tiền bồi dưỡng phục hồi sức khoẻ cho người bị thiệt hại theo chỉ định của bác sỹ; các chi phí thực tế, cần thiết khác cho người bị thiệt hại (nếu có) và các chi phí cho việc lắp chân giả, tay giả, mắt giả, mua xe lăn, xe đẩy, nạng chống và khắc phục thẩm mỹ... để hỗ trợ hoặc thay thế một phần chức năng của cơ thể bị mất hoặc bị giảm sút của người bị thiệt hại (nếu có). b) Thu nhập thực tế bị mất hoặc bị giảm sút của người bị thiệt hại: Nếu trước khi sức khoẻ bị xâm phạm người bị thiệt hại có thu nhập thực tế, nhưng do sức khoẻ bị xâm phạm họ phải đi điều trị và do đó khoản thu nhập thực tế của họ bị mất hoặc bị giảm sút, thì họ được bồi thường khoản thu nhập thực tế bị mất hoặc bị giảm sút đó. c) Chi phí hợp lý và phần thu nhập thực tế bị mất của người chăm sóc người bị thiệt hại trong thời gian điều trị bao gồm: - Chi phí hợp lý cho người chăm sóc người bị thiệt hại trong thời gian điều trị bao gồm: tiền tàu, xe đi lại, tiền thuê nhà trọ theo giá trung bình ở địa phương nơi thực hiện việc chi phí (nếu có) cho một trong những người chăm sóc cho người bị thiệt hại trong thời gian điều trị do cần thiết hoặc theo yêu cầu của cơ sở y tế. - Thu nhập thực tế bị mất của người chăm sóc người bị thiệt hại trong thời gian điều trị được xác định như sau: + Nếu người chăm sóc người bị thiệt hại có thu nhập thực tế ổn định từ tiền lương trong biên chế, tiền công từ hợp đồng lao động thì căn cứ vào mức lương, tiền công của tháng liền kề trước khi người đó phải đi chăm sóc người bị thiệt hại nhân với thời gian chăm sóc để xác định khoản thu nhập thực tế bị mất. + Nếu người chăm sóc người bị thiệt hại có làm việc và hàng tháng có thu nhập ổn định, nhưng có mức thu nhập khác nhau thì lấy mức thu nhập trung bình của 6 tháng liền kề (nếu chưa đủ 6 tháng thì của tất cả các tháng) trước khi người đó phải đi chăm sóc người bị thiệt hại nhân với thời gian chăm sóc để xác định khoản thu nhập thực tế bị mất. + Nếu người chăm sóc người bị thiệt hại không có việc làm hoặc có tháng làm việc, có tháng không và do đó không có thu nhập ổn định thì được hưởng tiền công chăm sóc bằng mức tiền công trung bình trả cho người chăm sóc người tàn tật tại địa phương nơi người bị thiệt hại cư trú. + Nếu trong thời gian chăm sóc người bị thiệt hại, người chăm sóc vẫn được cơ quan, người sử dụng lao động trả lương, trả tiền công lao động theo quy định của pháp luật lao động, bảo hiểm xã hội thì họ không bị mất thu nhập thực tế và do đó không được bồi thường. 2.3.1.3. Thiệt hại về tính mạng. - Chi phí hợp lý cho việc cứu chữa, bồi dưỡng chăm sóc người bị thiệt hại trước khi chết . - Chi phí hợp lý cho việc mai táng bao gồm: các khoản tiền mua quan tài, các vật dụng cần thiết cho việc khâm liệm, khăn tang, hương, nến, hoa, thuê xe tang và các khoản chi khác phục vụ cho việc chôn cất hoặc hoả táng nạn nhân theo thông lệ chung. Không chấp nhận yêu cầu bồi thường chi phí cúng tế, lễ bái, ăn uống, xây mộ, bốc mộ...          - Khoản tiền cấp dưỡng cho những người mà người bị thiệt hại có nghĩa vụ cấp dưỡng trước khi chết.  2.3.1.4. Tổn thất tinh thần khi người bị thiệt hại chết hoặc tổn hại sức khỏe. Trước hết, những tổn thất về mặt tinh thần sẽ được các bên tự thỏa thuận, nếu không thỏa thuận được sẽ áp dụng như sau: - Tổn thất tinh thần do người bị thiệt hại bị tổn hại sức khỏe: không quá 30 tháng lương cơ bản do nhà nước quy định. - Tổn thất tinh thần cho gia đình, người thân khi người bị thiệt hại chết: không quá 60 tháng lương cơ bản do nhà nước quy định. 2.3.2. Xác định chủ thể bồi thường thiệt hại. - Chủ sở hữu nguồn nguy hiểm cao độ đang chiếm hữu, sử dụng nguồn nguy hiểm cao độ phải bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra. Chủ sở hữu đang chiếm hữu, sử dụng nguồn nguy hiểm cao độ là đang thực hiện mọi hành vi theo ý chí của mình để nắm giữ, quản lý nguồn nguy hiểm cao độ, nhưng không được trái pháp luật, đạo đức xã hội; khai thác công dụng, hưởng hoa lợi, lợi tức từ nguồn nguy hiểm cao độ. - Người được chủ sở hữu nguồn nguy hiểm cao độ giao chiếm hữu, sử dụng nguồn nguy hiểm cao độ theo đúng quy định của pháp luật phải bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra, trừ trường hợp giữa chủ sở hữu và người được giao chiếm hữu, sử dụng có thoả thuận khác không trái pháp luật, đạo đức xã hội hoặc không nhằm trốn tránh việc bồi thường. Đó có thể là thỏa thuận liên đới chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại. - Trong trường hợp chủ sở hữu nguồn nguy hiểm cao độ giao cho người khác chiếm hữu, sử dụng nguồn nguy hiểm cao độ không theo đúng quy định của pháp luật mà gây thiệt hại, thì chủ sở hữu phải bồi thường thiệt hại. - Người chiếm hữu, sử dụng trái pháp luật nguồn nguy hiểm cao độ phải bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra, nếu chủ sở hữu, người được chủ sở hữu giao chiếm hữu, sử dụng hợp pháp không có lỗi trong việc để nguồn nguy hiểm cao độ bị chiếm hữu, sử dụng trái pháp luật (đã tuân thủ các quy định về bảo quản, trông giữ, vận chuyển, sử dụng nguồn nguy hiểm cao độ theo đúng các quy định của pháp luật). Nếu chủ sở hữu, người được chủ sở hữu giao chiếm hữu, sử dụng hợp pháp có lỗi trong việc để nguồn nguy hiểm cao độ bị chiếm hữu, sử dụng trái pháp luật (không tuân thủ hoặc tuân thủ không đầy đủ các quy định về bảo quản, trông giữ, vận chuyển, sử dụng nguồn nguy hiểm cao độ theo quy định của pháp luật) thì phải liên đới cùng với người chiếm hữu, sử dụng trái pháp luật bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra. - Nếu chủ sở hữu nguồn nguy hiểm cao độ đã giao nguồn nguy hiểm cao độ cho người khác mà gây thiệt hại thì phải xác định trong trường hợp cụ thể đó người được giao nguồn nguy hiểm cao độ có phải là người chiếm hữu, sử dụng nguồn nguy hiểm cao độ hay không để xác định ai có trách nhiệm bồi thường thiệt hại. 2.3.3. Thời hạn được bồi thường. Trong luật dân sự Việt Nam, vấn đề thời hạn được bồi thường chỉ được đặt ra trong trường hợp bồi thường thiệt hại do tính mạng, sức khỏe bị xâm phạm. Do vậy, trong trường hợp nguồn nguy hiểm cao độ gây ra thiệt hại về tính mạng, sức khỏe thì việc tính thời hạn bồi thường sẽ được áp dụng theo quy định tại điều 612 BLDS. Cụ thể là : «1 . Trong trường hợp người bị thiệt hại mất hoàn toàn khả năng lao động thì người bị thiệt hại được hưởng bồi thường cho đến khi chết. 2. Trong trường hợp người bị thiệt hại chết thì những người mà người này có nghĩa vụ cấp dưỡng khi còn sống được hưởng tiền cấp dưỡng trong thời hạn sau đây: a) Người chưa thành niên hoặc người đã thành thai là con của người chết và còn sống sau khi sinh ra được hưởng tiền cấp dưỡng cho đến khi đủ mười tám tuổi, trừ trường hợp người từ đủ mười lăm tuổi đến chưa đủ mười tám tuổi đã tham gia lao động và có thu nhập đủ nuôi sống bản thân; b) Người đã thành niên nhưng không có khả năng lao động được hưởng tiền cấp dưỡng cho đến khi chết.»  3. Một số vấn đề thực tiễn liên quan đến trách nhiệm bồi thường do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra. - Trước hết là vấn đề xác định nguồn nguy hiểm cao độ. Đây là vấn đề rất quan trọng, liên quan trực tiếp đến việc có hay không áp dụng quy định của pháp luật về bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra. Điển hình trong tình huống có thật sau đây: Chị Hoàng Thị N (giấu tên, 16 tuổi) đi nạo hút thai tại một cơ sở y tế huyện Từ Liêm, Hà Nội. Sau khi y tá Chu Thị K (giấu tên) tiêm thuốc atropin, chị N co giật và chết. Cô Cao Thị Thanh V đã làm đơn kiện đòi cơ sở ý tế đó bồi thường thiệt hại về tính mạng do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra. Sau đó, cơ quan pháp y giám định N chết vì nguyên nhân là sốc thuốc phản vệ không phục hồi được do atropin. Tòa án nhân dân huyện Từ Liêm đã ra quyết định cơ sở y tế đó không phải bồi thường vì thuốc atropin không phải nguồn nguy hiểm cao độ vì đó là thuốc tân dược, có công dụng điều trị bệnh nhân chứ không phải thuốc độc. - Một vấn đề nữa thuộc về chủ thể bồi thường thiệt hại. Trên nguyên tắc, nếu nguồn nguy hiểm cao độ gây thiệt hại sau khi đã được chủ sở hữu giao cho người khác chiếm hữu, sử dụng thì người được giao sẽ phải bồi thường thiệt hại. Tuy nhiên, trong trường hợp chủ sở hữu giao cho người khác sử dụng bằng một hợp đồng thuê thì vẫn phải liên đới chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại. Điển hình là vụ chiếc xe bị lũ cuốn ở Hà Tĩnh ngày 18/10. Trong vụ này, dù chủ xe đã giao xe cho tài xế Trần Văn Trường điều khiển nhưng vẫn được coi là đang sử dụng chiếc xe thông qua việc kinh doanh và thu tiền. Do đó, khi xe xảy ra tai nạn, chủ xe phải chịu trách nhiệm liên đới bồi thường thiệt hại. Và cụ thể, vì xe đã được mua bảo hiểm của công ti bảo hiểm Bảo Việt. Do đó, Công ty Bảo Việt phải cùng chịu trách nhiệm với chủ xe. Bước đầu, chi nhánh Bảo Việt tại Đắc Lăk đã chi trả 25 triệu cho gia đình mỗi người bị hại. Ngoài ra còn có một vụ việc khác: 21g15 ngày 16/6/2007, anh Trần Hữu Cường (26 tuổi, ở thôn Mỹ Hòa, xã Hòa Hiệp Bắc, huyện Đông Hòa) điều khiển xe máy chở vợ là Lương Thị Qui đi trên đường Nguyễn Văn Linh, phường Phú Lâm (TP Tuy Hòa). Do vừa chạy xe vừa mải mê nói chuyện với vợ, nên xe máy của anh Cường lấn sang phần đường bên trái, tông vào xe máy do anh Phạm Hồng Ngà (26 tuổi, ở thôn Phước Lộc, xã Hòa Thành, huyện Đông Hòa) đang lưu hành ngược chiều. Vụ tai nạn khiến cho anh Ngà bị thương tích nặng, mù hai mắt, tỉ lệ thương tật do Tổ chức Giám định pháp y tỉnh Phú Yên kết luận là 97%. Sau khi khám nghiệm điều tra tại hiện trường, Công an TP Tuy Hòa xác định nguyên nhân vụ tai nạn hoàn toàn do lỗi của anh Trần Hữu Cường. Do đó, anh Cường bị truy tố, xét xử về tội vi phạm các quy định về điều khiển phương tiện đường bộ. Do người bị hại trong vụ tai nạn giao thông này là công nhân hàn gò bậc 3/7, đang làm việc tại Công ty Công nghiệp tàu thủy Phú Yên với mức lương mỗi tháng 1.247.000 đồng, nên ngoài việc yêu cầu bồi thường chi phí điều trị thương tích cho nạn nhân tại các bệnh viện, vợ anh Ngà là chị Nguyễn Thị Tính còn yêu cầu bồi thường các khoản mất thu nhập của nạn nhân trong thời gian nằm viện, tiền công chăm sóc người bệnh, tiền tổn thất tinh thần, chi phí tái phẫu thuật tại TP Hồ Chí Minh với tổng cộng hơn 104 triệu đồng. Ngoài các khoản nêu trên, đại diện bị hại còn yêu cầu người gây tai nạn và người có trách nhiệm liên đới phải bồi thường theo mức thu nhập tiền lương mỗi tháng anh Ngà đang hưởng 1.247.000 đồng và tiền công người chăm sóc mỗi tháng 800.000 đồng cho đến khi nạn nhân qua đời. Trước khi cấp sơ thẩm đưa vụ án ra xét xử, luật sư bảo vệ quyền lợi hợp pháp cho người bị hại đã gử

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc{DS}- bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra.doc
Tài liệu liên quan