Tiểu luận Tìm hiểu pháp luật đảm bảo an toàn trong hoạt động huy động vốn của các tổ chức tín dụng và thực tiễn áp dụng

MỤC LỤC

I. Khái niệm về tổ chức tín dụng . 2

II. Pháp luật đảm bảo an toàn trong hoạt động huy động vốn

của các tổ chức tín dụng và thực tiễn áp dụng . 4

1. Đảm bảo an toàn cho hoạt động nhận tiền gửi . 5

2. Bảo đảm an toàn cho hoạt động phát hành giấy tờ có giá 13

3. Bảo đảm an toàn cho hình thức huy động vốn bằng việc

vay vốn của tổ chức tín dụng khác 14

4. Bảo đảm an toàn cho hình thức huy động vốn bằng việc

vay vốn của Ngân hàng nhà nước . 15

III. Một số đề xuất pháp lý nhằm hoàn thiện các quy định

về đảm bảo an toàn cho hoạt động huy động vốn của các tổ

chức tín dụng. 16

 

doc20 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 3673 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tiểu luận Tìm hiểu pháp luật đảm bảo an toàn trong hoạt động huy động vốn của các tổ chức tín dụng và thực tiễn áp dụng, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
đất” hoạt động rất sôi động với quyền chủ động thuộc về các tổ chức tín dụng. Tuy nhiên, những lợi thế trong các hoạt động huy động vốn của các tổ chức tín dụng vẫn nằm trong sự quản lý của nhà nước. Quyền huy động vốn dưới nhiều hình thức của các tổ chức tín dụng bị hạn chế bởi những quy định về bảo đảm an toàn. Pháp luật Việt Nam đã quy định bốn hình thức huy động vốn của tổ chức tín dụng là nhận tiền gửi, phát hành giấy tờ có giá, vay vốn giữa các tổ chức tín dụng, và vay vốn của Ngân hàng nhà nước. Với các hình thức khá đa dạng như vậy, phần nào đã tạo được sự ổn định, chất lượng về vốn và đáp ứng kịp thời khả năng chi trả. Trong mỗi hình thức đó, pháp luật cũng đặt ra những yêu cầu, điều kiện riêng thích ứng nhằm bảo toàn tốt nhất cho các nguồn huy động vốn. 1. Đảm bảo an toàn cho hoạt động nhận tiền gửi Trong các hình thức huy động vốn thì nhận tiền gửi là hình thức chủ yếu và quan trọng nhất bởi nguồn vốn kinh doanh của các tổ chức tín dụng tập trung phần lớn ở đây. Tuy nhiên nghiệp vụ này lại chứa đựng những rủi ro nhất định do các tổ chức tín dụng dễ lâm vào tình trạng không thanh toán, hoàn trả được tiền gửi của khách hàng, không bảo vệ được quyền lợi của người gửi tiền, người đầu tư. Do vậy, luật các tổ chức tín dụng cũng như các văn bản hướng dẫn đã rất chú trọng tới loại quy phạm an toàn này trong các quy định cụ thể của mình. a. Quy định về hình thức các loại tiền gửi được nhận của các loại hình tổ chức tín dụng Với các tổ chức tín dụng là ngân hàng. Nếu như tại pháp lệnh ngân hàng trước kia, các hình thức nhận tiền gửi không được quy định rõ thì tại Luật các tổ chức tín dụng đã quy định khách hàng được gửi tiền vào ngân hàng dưới hình thức không kỳ hạn, có kỳ hạn, tiền gửi tiết kiệm và các hình thức khác. Quy định này một mặt đáp ứng nhu cầu của khách hàng, mặt khác đảm bảo cho ngân hàng tập trung thu hút được mọi khoản tiền nhàn rỗi trong dân cư, dù là nhỏ nhất. Bên cạnh ý nghĩa đó, quy định này còn có vai trò rất quan trọng và cần thiết cho sự an toàn tiền gửi của khách hàng. Việc phân ra các hình thức tiền gửi giúp cho ngân hàng có kế hoạch sử dụng vốn phù hợp, thích ứng với tính chất từng loại tiền gửi. Điều này thể hiện rõ nhất trong quy định về tỉ lệ tối đa của nguồn vốn ngắn hạn được sử dụng để cho vay trung và dài hạn. Với tổ chức tín dụng phi ngân hàng. Khác với loại hình ngân hàng, pháp luật cho phép nhận mọi loại tiền gửi, với tổ chức tín dụng phi ngân hàng, pháp luật quy định chỉ được nhân tiền gửi có kỳ hạn từ một năm trở lên của tổ chức, cá nhân. Sở dĩ như vậy bởi loại chủ thể này kinh doanh dài hạn, nên việc nhận tiền gửi không kỳ hạn hoặc kỳ hạn nhỏ hơn 12 tháng để cấp tín dụng thì rủi ro mất khả năng chi trả là rất lớn. Pháp luật một số nước trên thế giới cũng quy định giới hạn về nhận tiền gửi đối với loại tổ chức tín dụng chuyên đầu tư dài hạn này. Chẳng hạn như Đạo luật 372- luật về các tổ chức tài chính và ngân hàng Malaysia 1989 tại Điều 33 quy định: một công ty tài chính, ngân hàng đầu tư hay trung tâm triết khấu sẽ không được nhận tiền gửi không kỳ hạn do người gửi tiền tại các tổ chức đó được hoàn trả bằng séc, hối phiếu, lệnh phiếu hay các loại công cụ thanh toán khác. Ngoài ra, theo pháp luật Việt Nam, tổ chức tín dụng phi ngân hàng không được nhận tiền gửi của các tổ chức tín dụng khác bởi vì tính chất kinh doanh kéo dài của nó dễ gây ra rủi ro lan truyền cũng như làm ảnh hưởng tới hoạt động bình thường của các tổ chức tín dụng khác do việc tập trung vốn quá lâu ở một nơi. Với các tổ chức tín dụng có đặc điểm riêng biệt như tổ chức tín dụng nước ngoài hay hợp tác xã tín dụng thì cũng có những hạn chế nhất định trong các hình thức huy động tiền gửi của mình. Ngân hàng nước ngoài thì không được nhận tiền gửi tiết kiệm có kỳ hạn của dân cư nhằm đảm bảo an toàn cho số tiền tiết kiệm này bởi yếu tố nước ngoài gây khó khăn cho việc quản lý hơn là các ngân hàng trong nước. Còn hợp tác xã tín dụng chỉ được huy động vốn của xã viên mà không được huy động vốn rộng rãi trong dân chúng. Điều này là hợp lý khi mà mục tiêu hoạt động của nó chủ yếu là tương trợ nhau phát triển sản xuất, kinh doanh và đời sống. Việc vay vốn rộng rãi từ dân chúng để phục vụ lợi ích cho bản thân nhóm người này sẽ dẫn đến những tiêu cực ảnh hưởng đến quyền lợi của những người gửi tiền khác. Như vậy, các quy định về hình thức nhận tiền gửi của các tổ chức tín dụng đã bước đầu tạo ra sự an toàn tối thiểu cho hoạt động huy động vốn. b. Quy định về các tỷ lệ bảo đảm an toàn Vì là chủ thể cầm giữ tiền của rất nhiều cá nhân, tổ chức trong xã hội nên các tổ chức tín dụng sẽ gặp nguy hiểm khi có thể do không chi trả được tiền gửi do một nguyên nhân nào đó. Do vậy, để đảm bảo an toàn thì pháp luật các nước cũng như pháp luật Việt Nam đều định ra các tỷ lệ bảo đảm an toàn nhất định mà việc duy trì nó sẽ đảm bảo được phần nào khả năng thanh toán, trả nợ của các tổ chức tín dụng. Trước hết, các tổ chức tín dụng khi thực hiện hoạt động nhận tiền gửi phải đảm bảo các quy định về khả năng chi trả. Theo quy định tại Điều 12 Quyết định 457/2005/QĐ-NHNN, tổ chức tín dụng phải thường xuyên đảm bảo tỷ lệ về khả năng chi trả: “1. Tỷ lệ tối thiểu 25% giữa giá trị các tài sản “có” có thể thanh toán ngay và các tài sản “nợ” sẽ đến hạn thanh toán trong thời gian 1 tháng tiếp theo. 2. Tỷ lệ tối thiểu bằng 1 giữa tổng tài sản “có” có thể thanh toán ngay trong khoảng thời gian 7 ngày làm việc tiếp theo và tổng tài sản nợ phải thanh toán trong khoảng thời gian 7 ngày tiếp theo.” Tài sản “có” được phân nhóm theo các mức độ rủi ro bao gồm nhóm tài sản “có” hệ số rủi ro 0%, 20%, 50% và 100%. Thứ hai, các tổ chức tín dụng khi thực hiện hoạt động nhân tiền gửi phải đảm bảo các quy định về tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu. Tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu được xác định bằng tỷ lệ giữa vốn tự có so với tài sản “có”, kể cả các cam kết ngoại bảng được điều chỉnh theo mức độ rủi ro. Vốn tự có của các tổ chức tín dụng ngoài vốn điều lệ còn gồm quỹ dự đặc biệt, các tài sản cố định. Còn tài sản “có” thì ngoài vốn tự có còn gồm các khoản vốn huy động khác. Việc khống chế mức tối đa về huy động vốn so với vốn tự có là rất quan trọng, tránh huy động vốn một cách ồ ạt và tuỳ tiện, không theo đúng thực lực của ngân hàng. Sẽ rất phương hại đến người gửi bởi nó sẽ thiếu tiềm lực tài chính để bù đắp rủi ro và chi trả cho khách hàng. Theo quy định tại Khoản 1 Điều 4 Quyết định 457/2005/QĐ-NHNN thì các tổ chức tín dụng (trừ chi nhánh ngân hàng nước ngoài) phải duy trì tỷ lệ tối thiểu 8% giữa vốn tự có so với tổng tài sản “có” rủi ro. Nếu tổ chức tín dụng có tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu thấp hơn mức quy định thì phải tăng đủ 8% trong thời hạn tối đa là 3 năm. Tỷ lệ này càng lớn chứng tỏ vốn tự có lớn, tiền gửi huy động vừa phải, vì thế việc mất khả năng thanh toán giảm xuống. Tuy nhiên, với tỷ lệ 8% cũng đã tạo điều kiện và đảm bảo cho các tổ chức tín dụng mở rộng và phát triển kinh doanh. Tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu là một thước đo độ an toàn vốn của ngân hàng. Nó được tính theo tỷ lệ phần trăm của tổng vốn cấp I và vốn cấp II so với tổng tài sản đã điều chỉnh rủi ro của ngân hàng. Các nhà quản lý ngân hàng các nước luôn xác định rõ và giám sát các tổ chức tín dụng phải duy trì 1 tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu. Ở Việt Nam, tỷ lệ này hiện đang là 8%, phù hợp với chuẩn mực Basel mà các hệ thông ngân hàng trên thế giới áp dụng phổ biến. Thứ ba, tỷ lệ tối đa của nguồn vốn ngắn hạn được sử dụng để cho vay trung và dài hạn. Với tiền gửi không kỳ hạn thì người gửi có thể rút ra bất kỳ lúc nào, còn tiền gửi ngắn hạn thì được rút ra nhanh chóng. Trong khi đó, một nguyên tắc trong hoạt động của các tổ chức tín dụng là đi vay để cho vay, vì thế tất yếu số tiền huy động được nhận từ tiền gửi và cũng sẽ cho vay, có thể ngắn hạn, trung hạn và dài hạn. Từ đó phát sinh ra một nguy cơ rủi ro rất cao khi khách hàng đến rút tiền mà tổ chức tín dụng lại không thanh toán được bởi tiền đã tạo thành vốn trung hạn hoặc dài hạn cho nền kinh tế, tổ chức tín dụng không thể rút lại số tiền đã cho vay khi chưa đáo hạn. Do vậy, việc quy định tỷ lệ tối đa nguồn vốn ngắn hạn được sử dụng để cho vay trung hạn, dài hạn là hết sức cần thiết, việc cho vay tuỳ tiện dẫn đến mất khả năng thanh toán. Tỷ lệ này càng nhỏ thì càng an toàn cho các tổ chức tín dụng nhưng đồng thời nó vẫn phải tạo điều kiện cho các tổ chức tín dụng gia tăng tín dụng trung, dài hạn cho nền kinh tế. Theo Quyết định 457/2005/QĐ-NHNN, tỷ lệ này đối với Ngân hàng thương mại là 40% và đối với các tổ chức tín dụng khác là 30%. Thứ tư, tỷ lệ tối đa dư nợ cho vay so với số dư tiền gửi. Tổ chức tín dụng khi có được tiền gửi luôn mong muốn cho vay nhiều để thu lợi nhuận. Trong khi đó hoạt động cho vay luôn chứa nhiều bất trắc, việc không thu hồi được nợ hoặc thu hồi chậm trong khi không còn dư một khoản tiền nào bù đắp cho việc thanh toán là hết sức nguy hiểm. Nếu không quy định tỷ lệ tối đa dư nợ cho vay so với số tiền gửi tức là đã không cho tổ chức tín dụng “một lối thoát” để đảm bảo an toàn. Vì thế với tư cách là trung gian tài chính, luôn có nghĩa vụ thanh toán đầy đủ cho khách hàng, không bao giờ các tổ chức tín dụng lại cho vay hết số tiền gửi mà mình nhận được. Thứ năm, các tỷ lệ bảo đảm an toàn khác. Hoạt động kinh doanh của các tổ chức tín dụng không chỉ dừng lại ở việc cấp tín dụng, làm dịch vụ thanh toán mà còn có các hoạt động khác như góp vốn, mua cổ phần, kinh doanh bất động sản… Đây là những hoạt động đòi hỏi đầu tư khá nhiều vốn, vì thế nếu không quy định một tỷ lệ nhất định trong việc đầu tư vào những hoạt động này sẽ dễ gây ảnh hưởng, rủi ro tới các hoạt động kinh doanh chính yếu của tổ chức tín dụng. c. Quy định về dự trữ bắt buộc Các tổ chức tín dụng có nhận tiền gửi phải mở tài khoản tiền gửi tại Ngân hàng nhà nước và duy trì tại đó số dư bình quân không thấp hơn mức dự trữ bắt buộc do Ngân hàng nhà nước quy định. (Theo Khoản 2 Điều 65 Luật các tổ chức tín dụng) Dự trữ bắt buộc, hay tỷ lệ dự trữ bắt buộc là một quy định của Ngân hàng trung ương về tỷ lệ giữa tiền mặt và tiền gửi các tổ chức tín dụng bắt buộc phải tuân thủ để đảm bảo tính thanh khoản. Các Ngân hàng có thể giữ tiền mặt cao hơn hoặc bằng tỷ lệ dự trữ bắt buộc nhưng không được phép giữ tiền mặt ít hơn tỷ lệ này. Nếu thiếu hụt tiền mặt các Ngân hàng thương mại phải vay thêm tiền mặt, thường là từ Ngân hàng trung ương để đảm bảo tỷ lệ dự trữ bắt buộc. Đây là một trong những công cụ của Ngân hàng trung ương nhằm thực hiện chính sách tiền tệ bằng cách làm thay đổi số nhân tiền tệ. Năm 2008, nền kinh tế nước ta được dự báo tiếp tục tăng trưởng ở mức cao, thu hút vốn đầu tư nước ngoài thuận lợi, nhưng việc kiểm soát tốc độ tăng chỉ số gia tăng tiêu dùng thấp hơn tăng trưởng kinh tế gặp khó khăn, do giá cả hàng hoá diễn biến phức tạp. Vốn đầu tư gián tiếp nước ngoài gia tăng, gây sức ép tăng giá Việt Nam đồng và kéo theo phương tiện thanh toán bằng ngoại tệ tăng lên. Thực hiện chỉ đạo của Chính phủ, Ngân hàng nhà nước điều hành các công cụ chính sách tiền tệ một cách chủ động theo nguyên tắc thị trường nhằm ổn định tiền tệ, kiềm chế lạm phát và thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Để chủ động kiểm soát tổng phương tiện thanh toán phù hợp với các mục tiêu chính sách tiền tệ, Thống đốc Ngân hàng nhà nước đã ban hành Quyết định số 187/2008/QĐ-NHNN ngày 16-1-2008 về việc điều chỉnh dự trữ bắt buộc đối với tổ chức tín dụng với nội dung chủ yếu như sau: Một là, hiện nay, áp dụng dự trữ bắt buộc đối với tiền gửi không kỳ hạn và có kỳ hạn từ 24 tháng trở xuống, tức là mở rộng diện các loại tiền gửi phải dự trữ bắt buộc bao gồm các loại tiền gửi không kỳ hạn và có kỳ hạn. Hai là, điều chỉnh tăng tỷ lệ dự trữ bắt buộc 1% đối với các loại tiền gửi so với tỷ lệ quy định hiện nay. Cụ thể là, đối với tiền Việt Nam đồng không kỳ hạn và có kỳ hạn dưới 12 tháng, tỉ lệ dự trữ bắt buộc được tăng từ 10% lên 11%, đối với tiền gửi có kỳ hạn 12 tháng trở lên, tỷ lệ dự trữ bắt buộc được tăng từ 4% lên 5%; Đối với tiền gửi bằng ngoại tệ không kỳ hạn và cón kỳ hạn dưới 12 tháng tăng từ 10% lên 11%, đối với tiền gửi có kỳ hạn trên 12 tháng tỷ lệ dự trữ bắt buộc tăng từ 4% lên 5% Ba là, không điều chỉnh tăng tỷ lệ dự trữ bắt buộc đối với các tổ chức tín dụng hoạt động trên địa bàn nông nghiệp nông thôn (Ngân hàng nông nghiệp, Ngân hàng thương mại cổ phần nông thôn, Quỹ tín dụng nhân dân trung ương, Ngân hàng hợp tác) nhằm hỗ trợ các tổ chức tín dụng này mở rộng tác dụng phục vụ phát triển kinh tế nông nghiệp- nông thôn. Bốn là, việc thay đổi cơ chế và tỷ lệ dự trữ bắt buộc chưa áp dụng ngay trong tháng 1 năm 2008 mà có hiệu lực thi hành kể từ tháng 2 năm 2008 để tạo điều kiện cho các tổ chức tín dụng chuẩn bị vốn để dự trữ bắt buộc. d. Quy định về bảo hiểm tiền gửi Tổ chức tín dụng có thực hiện hoạt động nhận tiền gửi phải tham gia tổ chức bảo toàn hoặc bảo hiểm tiền gửi (theo quy định tại Khoản 1 Điều 17 Luật các tổ chức tín dụng). Bảo hiểm tiền gửi là loại hình bảo hiểm phi thương mại, theo đó tổ chức tín dụng và các tổ chức có hoạt động nhận tiền gửi của các cá nhân bằng đồng Việt Nam thì bắt buộc phải tham gia đóng phí bảo hiểm tiền gửi cho tổ chức bảo hiểm tiền gửi tại Việt Nam. Khi có văn bản chấm dứt hoạt động đối với tổ chức tín dụng của cơ quan nhà nước có thẩm quyền và tổ chức tín dụng mất khả năng thanh toán thì tổ chức bảo hiểm tiền gửi Việt Nam sẽ có trách nhiệm thay tổ chức tín dụng trả khoản tiền gửi được bảo hiểm của các cá nhân gửi tiền ở tổ chức tín dụng tham gia bảo hiểm, bao gồm cả tiền gốc và tiền lãi tính đến thời điểm có sự kiện bảo hiểm, nhưng không vượt quá giới hạn tối đa số tiền bảo hiểm pháp luật quy định. Số tiền bảo hiểm được trả cho tất cả các khoản tiền gửi bao gồm cả gốc và lãi của một người gửi tiền (một cá nhân hoặc người đại diện hợp pháp) tại 1 tổ chức tham gia bảo hiểm tiề gửi tối đa là 50 triệu đồng (Theo Nghị định 109/2005/NĐ-CP) Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam không chỉ đơn thuần là một tổ chức thanh toán tiền bảo hiểm cho người gửi tiền mà còn là một tổ chức giám sát rủi ro trong hoạt động kinh doanh ngân hàng và hỗ trợ đối với các tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi mất khả năng chi trả. Nó có quyền xem xét các báo cáo tài chính, quyền yêu cầu được thực hiện các biện pháp chấn chỉnh khi tổ chức này vi phạm các quy định về an toàn trong hoạt động ngân hàng hoặc có nguy cơ dẫn đến mất khả năng chi trả, thất thoát lớn về tài sản… Ngoài ra, với các tổ chức tham gia bảo hiểm gặp khó khăn, tổ chức này cho vay hỗ trợ để chi trả tiền gửi được bảo hiểm; bảo lãnh các khoản vay đặc biệt để có nguồn vốn chi trả; mua lại nợ (khi nợ đó có tài sản bảo đảm). Điều đó thể hiện cơ chế này có tính độc lập và chủ động khá rõ, hơn nữa là cơ chế bảo toàn cho hoạt động ngân hàng một cách hiệu quả. Trước đây, Bộ tài chính ban hành Quyết định 101 ngày 14-10-1993 về chế độ bảo hiểm tiền gửi tự nguyện cho các quỹ tín dụng nhân dân tham gia qua tổng công ty bảo hiểm Việt Nam với những quy định rất thụ động: bảo hiểm chỉ chi trả tiền gửi khi quỹ tín dụng bị phá sản, giải thể mà không trợ giúp khi nó gặp khó khăn để đảm bảo khả năng thanh toán. Hơn nữa, nó không có bộ phận giám sát, kiểm tra giúp quỹ tín dụng nhân dân chấn chỉnh hoạt động, chỉ thu phí bảo hiểm mà không tiến hành biện pháp phòng ngừa. Vì thế các quỹ tín dụng nhân dân lúc đó không mặn mà tham gia loại hình bảo hiểm này. Đây là điểm khác biệt của bảo hiểm tiền gửi Việt Nam so với các loại hình bảo hiểm thương mại khác cũng như bảo hiểm tiền gửi của một số nước. Tuy bảo hiểm tiền gửi Việt Nam mới thành lập và đi vào hoạt động, còn cần nhiều thời gian để phát triển và hoàn thiện nhưng những quy định hiện hành của pháp luật về vấn đề này cũng tạo được sự yên tâm lớn đối với dân chúng, bảo vệ quyền lợi trực tiếp cho họ, hơn nữa, góp phần duy trì sự ổn định của tổ chức tín dụng. Tuy nhiên, một vấn đề đặt ra là liệu các quy định về bảo hiểm tiền gửi đó có phù hợp với mọi loại hình tổ chức tín dụng Việt Nam? Nói một cách cụ thể thì các quy định này khó có thể đáp ứng được an toàn cho hệ thống quỹ tín dụng nhân dân, một loại hình có nhiều đặc thù riêng vì: Thứ nhất, bảo hiểm tiền gửi chỉ cho vay hỗ trợ để chi trả tiền gửi của dân cư, trong khi đó nguồn vốn vay của quỹ tín dụng nhân dân chủ yếu là từ nguồn vốn điều hoà quỹ khả dụng…Thứ hai, sẽ rất khó khăn để bảo hiểm tiền gửi giám sát kiểm tra theo dõi trên dưới 1000 quỹ tín dụng nhân dân. Thứ ba, nó chỉ cho vay hỗ trợ các tổ chức tín dụng có vai trò quan trọng. Vì thế, để đáp ứng nhu cầu này quỹ an toàn hệ thống quỹ tín dụng nhân dân ở nước ta đã được thành lập. e. Quy chế kiểm soát đặc biệt Khi tổ chức tín dụng có nguy cơ mất khả năng chi trả, mất khả năng thanh toán thì cũng có nghĩa tổ chức tín dụng đó có nguy cơ phá sản. Trong trường hợp này, pháp luật đã đặt ra một biện pháp quản lý nhà nước gọi là kiểm soát đặc biệt, do Ngân hàng nhà nước áp dụng nhằm giúp các tổ chức tín dụng vượt qua khó khăn tài chính đó. Vì thế, Ban kiểm soát đặc biệt được thành lập sẽ thực hiện rất nhiều công việc như chỉ đạo, giám sát việc triển khai các giải pháp đã nêu trong phương án, đình chỉ các hoạt động ngân hàng có thể gây phương hại đến lợi ích người gửi tiền… Ngoài ra, Ban kiểm soát đặc biệt còn có quyền kiến nghị với Thống đốc Ngân hàng nhà nước về việc ra hạn hoặc chấm dứt thời hạn kiểm soát đặc biệt; về khoản cho vay đặc biệt đối với tổ chức tín dụng trong trường hợp cấp bách để bảo đảm khả năng chi trả tiền gửi của khách hàng. Như vậy, vai trò kiểm soát đặc biệt rất quan trọng. Nó giúp cho tỷ lệ thua lỗ, phá sản của hệ thống tổ chức tín dụng giảm đi bởi những biện pháp tích cực và thiết thực được đưa ra thực hiện. Với các quy định về hình thức các loại tiền gửi, các tỷ lệ bảo đảm an toàn, quỹ dự trữ bắt buộc, bảo hiểm tiền gửi cũng như chế độ kiểm soát đặc biệt mà trong hoạt động nhận tiền gửi đã được pháp luật bảo vệ an toàn, tránh nguy cơ mất khả năng chi trả, thanh toán. Đây là những biện pháp đổi mới hơn so với pháp lệnh ngân hàng trước kia, có tính toàn diện, bao quát hơn và phù hợp với thông lệ quốc tế. 2. Bảo đảm an toàn cho hoạt động phát hành giấy tờ có giá Ngoài nhận tiền gửi là chủ yếu thì phát hành các giấy tờ có giá cũng là một biện pháp huy động vốn của tổ chức tín dụng bởi các giấy tờ này thực chất là một công cụ vay nợ trên thị trường tiền tệ, thị trường vốn dưới hình thức chứng chỉ tiền gửi, trái phiếu và các giấy tờ khác. Qua việc phát hành các giấy tờ có giá, tổ chức tín dụng thu hút được vốn từ những người đầu tư chứng khoán, đồng thời tổ chức tín dụng trở thành người nợ, phải cam kết trả gốc, lãi cho người mua sau một thời gian nhất định. Theo Quyết định 02/2004/QĐ-NHNN ngày 4-1-2004 của Ngân hàng nhà nước ban hành quy chế phát hành giấy tờ có giá của các tổ chức tín dụng để huy động vốn trong nước, các quy định về bảo đảm an toàn trong hoạt động phát hành giấy tờ có giá cụ thể như sau: Về chủ thể phát hành giấy tờ có giá: Công ty cho thuê tài chính chỉ được phát hành giấy tờ có giá có thời hạn trên 1 năm (theo Khoản 2 Điều 2). Quy định này phù hợp với hoạt động kinh doanh trung, dài hạn của công ty cho thuê tài chính. Về thời hạn phát hành: Thời hạn phát hành của một đợt phát hành không quá 60 ngày, bao gồm cả những ngày nghỉ, ngày nghỉ lễ theo quy định của pháp luật. Tổ chức tín dụng chỉ được phát hành vượt thời gian trên khi được sự chấp thuận của Thống đốc ngân hàng (Theo Điều 9). Do đối tượng mua giấy tờ có giá của các tổ chức tín dụng có thể là các tổ chức, cá nhân với số lượng không hạn chế nên nguồn vốn huy động theo phương thức này bị phân tán, lẻ tẻ, không tập trung trong suốt quá trình phát hành giấy tờ có giá. Nếu kéo dài thời gian phát hành giấy tờ có giá, mục đích tập trung vốn trong một thời gian ngắn của tổ chức tín dụng khó đạt được. Do vậy, việc quy trì quy định này là cần thiết. Về điều kiện phát hành giấy tờ có giá: tổ chức tín dụng chỉ được phát hành giấy tờ có giá ngắn hạn tuân thủ đầy đủ các hạn chế để đảm bảo an toàn trong hoạt động. Đối với giấy tờ có giá dài hạn, ngoài các điều kiện quy định như đối với phát hành giấy tờ có giá ngắng hạn, các tổ chức tín dụng phải được Ngân hàng nhà nước cho phép và đảm bảo có tình hình tài chính lành mạnh theo đánh giá của thanh tra Ngân hàng nhà nước. Quy định này nhằm hạn chế việc các tổ chức tín dụng phát hành giấy tờ có giá một cách tràn lan để huy động vốn mà không có khả năng hoàn trả cho khách hàng. 3. Bảo đảm an toàn cho hình thức huy động vốn bằng việc vay vốn của tổ chức tín dụng khác Ngoài việc huy động vốn của dân cư và của các tổ chức kinh tế- xã hội, pháp luật còn cho phép tổ chức tín dụng được vay vốn của các tổ chức tín dụng trong nước và các tổ chức tín dụng nước ngoài. Nhu cầu vay lẫn nhau giữa các tổ chức tín dụng là tất yếu và cần thiết vì trong quỹ của chúng thường xuyên có tình trạng thừa hoặc thiếu tiền cho việc chi trả, thanh toán. Hai bên đều có nhu cầu gặp nhau để vay hoặc cho vay nhằm bù đắp thiếu hụt thanh toán tạm thời, tránh việc tập trung vào Ngân hàng nhà nước vì như thế sẽ đẩy vào lưu thông một lượng tiền mới là lượng tiền không phải thiếu thực sự (bởi các chủ thể khác đang nắm lượng tiền thừa). Xuất phát từ thực tế này mà một loại thị trường tiền tệ được ra đời gọi là thị trường liên ngân hàng mà thành viên tham gia chỉ là các ngân hàng với nội dung hoạt động là tiến hành mua bán các khoản vay ngắn hạn trên cơ sở các hợp đồng vay ngắn hạn. Việc vay vốn giữa các tổ chức tín dụng nhằm điều hoà, phân phối vốn để tăng cường khả năng thanh toán, đảm bảo an toàn, hiệu quả cho hoạt động của từng tổ chức tín dụng. Quan hệ vay vốn này được thực hiện trên cơ sở hợp đồng tín dụng. Khi tổ chức tín dụng thoả mãn các điều kiện mà pháp luật quy định thì có thể vay vốn của các tổ chức tín dụng nước ngoài. Hoạt động vay vốn của tổ chức tín dụng nước ngoài do tổ chức tín dụng thực hiện thuộc diện quản lý nhà nước của Ngân hàng nhà nước Việt Nam. 4. Bảo đảm an toàn cho hình thức huy động vốn bằng việc vay vốn của Ngân hàng nhà nước Để thực hiện chính sách tiền tệ quốc gia, Ngân hàng nhà nước sử dụng nhiều loại công cụ trong đó có công cụ tái cấp vốn. Việc tái cấp vốn chỉ được thực hiện sau khi các tổ chức tín dụng đã vay vốn lẫn nhau trên thị trường liên ngân hàng. Ngoài ra việc cho vay còn phải không vi phạm định mức tái cấp vốn được phép cung ứng trong năm mà chính phủ đã phê duyệt. Điều 48 Luật các tổ chức tín dụng quy định: Tổ chức tín dụng là ngân hàng được vay vốn ngắn hạn của Ngân hàng nhà nước dưới hình thức tái cấp vốn theo quy định của Luật Ngân hàng nhà nước (Điều 30). Theo quy định của pháo luật hiện hành, đối tượng được vay vốn của Ngân hàng nhà nước là tổ chức tín dụng là ngân hàng được vay ngắn hạn bằng việc tái cấp vốn của Ngân hàng nhà nước thông qua các hình thức: Cho vay lại theo hồ sơ tín dụng, chiết khấu, tái chiết khấu thương phiếu và các giấy tờ có giá ngắn hạn khác, cho vay có đảm bảo bằng cầm cố thương phiếu và các giấy tờ có giá ngắn hạn khác. Những hình thức trên chứng tỏ việc cho vay của Ngân hàng nhà nước luôn dựa trên những cơ sở nhất định, các khoản tín dụng luôn được đảm bảo bằng một công cụ, phương tiện an toàn để Ngân hàng nhà nước không gặp rủi ro, đồng thời cũng tạo cho việc huy động vốn của ngân hàng trung gian dưới hình thức này an toàn, hiệu quả và khoa học. Ngoài ra, tổ chức tín dụng trong trường hợp đặc biệt tạm thời mất khả năng chi trả, có nguy cơ gây mất an toàn cho hệ thống các tổ chức tín dụng thì có thể được Ngân hàng nhà nước cho vay khi được Thủ tướng Chính phủ chấp thuận. Như vậy, bằng những quy định phù hợp và linh hoạt của mình, pháp luật đã bảo vệ được cho hoạt động huy động vốn mà cụ thể gồm nhận tiền gửi, phát hành giấy tờ có giá, vay vốn của tổ chức tín dụng khác và vay vốn của Ngân hàng nhà nước. Điều này rất có ý nghĩa để tạo ra một lượng vốn an toàn và ổn định, đáp ứng nhu cầu kinh doanh và đảm bảo được khả năng chi trả, thanh toán của các tổ chức tín dụng. III. MỘT SỐ ĐỀ XUẤT PHÁP LÝ NHẰM HOÀN THIỆN CÁC QUY ĐỊNH VỀ ĐẢM BẢO AN TOÀN CHO HOẠT ĐỘNG HUY ĐỘNG VỐN CỦA CÁC TỔ CHỨC TÍN DỤNG Huy động vốn là một trong các hoạt động chủ yếu của tổ chức tín dụng, pháp luật hiện hành đã có những quy định nhằm đảm bảo an toàn cho hoạt động này, thế nhưng qua thực tiễn áp dụng pháp luật, các quy định đảm bảo an toàn cho hoạt động này đã bộc lộ những điểm bất cập, đó là sự quy định cứng nhắc, gây không ít khó khăn cho các tổ chức tín dụng khi tiến hành hoạt động kinh doanh của mình, cụ thể như: Đối với hoạt động nhận tiền gửi Thứ nhất, quy định về hình thức các loại tiền gửi được nhận của các loại hình tổ chức tín dụng như hiện nay là không hợp lý, nhất là đối với các tổ chức tín dụng là ngân hàng. Tại Khoản 3 Điều 20 Luật các tổ chức tín dụng thì tổ chức tín dụng phi ngân hàng không được nhận tiền gửi không kỳ hạn; theo Khoản 2 Điều 45 Luật các tổ chức tín dụng thì tổ chức tín dụng phi ngân hàng được nhận tiền gửi có kỳ hạn 1 năm trở lên. Tuy nhiên, trong thực tế, một khách hàng gửi tiền thường có nhu cầu gửi cả ngắn hạn lẫn trung, dài hạn, nếu tổ chức tín dụng chỉ thực hiện huy động một hình thức ngắn hạn hoặc trung hạn thì sẽ hạn chế rất nhiều về m

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docTìm hiểu pháp luật đảm bảo an toàn trong hoạt động huy động vốn của các tổ chức tín dụng và thực tiễn áp dụng.doc
Tài liệu liên quan