Tiểu luận Tìm hiểu quy định của hệ thống pháp luật Việt Nam về hủy việc kết hôn trái pháp luật

Ba bộ Dân luật thời kỳ Pháp thuộc đã chia hôn nhân vô hiệu ra làm hai loại: vô hiệu tương đối và vô hiệu tuyệt đối. Vô hiệu tương đối chỉ do một số người nhất định mà luật quy định cụ thể mới có quyền yêu cầu tiêu huỷ hôn nhân đó và sự vô hiệu ấy có thể bị mất đi do một sự kiện nào đó xuất hiện. Vô hiệu tuyệt đối thì có thể bất kì người nào cũng có quyền yêu cầu tiêu huỷ và sự vô hiệu ấy không bị mất đi do một thời hiệu hoặc một sự kiện nào. Hôn nhân vô hiệu sẽ bị Toà án tiêu huỷ. Hậu quả của việc tiêu huỷ có sự quy định khác nhau trong ba bộ Dân luật thời kì này. Bộ Dân luật Bắc kỳ và Bộ Hoàng Việt Trung kỳ hộ luật đã dựa trên nguyên tắc giảm bớt những hậu quả quá nặng nề đối với vợ chồng, đối với các con nên đã tìm ra những biện pháp nhằm giảm bớt những quy định quá nghiêm ngặt, như quy định khi hôn nhân bị tiêu huỷ thì việc tiêu huỷ đó chỉ có hiệu lực trong tương lai, có nghĩa là trước khi bị tiêu huỷ hôn nhân, giữa các bên vẫn tồn tại quan hệ vợ chồng, con sinh ra vẫn là con trong giá thú, các bên chỉ phải chấm dứt quan hệ vợ chồng kể từ khi hôn nhân bị tiêu huỷ mà thôi. Nói cách khác về hậu quả pháp lý, trường hợp tiêu huỷ hôn nhân cũng giống như trường hợp ly hôn. Giải pháp trên đây được thừa nhận trong Điều 89 của bộ Dân luật Bắc kỳ. Điều 89 bộ Dân luật Bắc kỳ quy định: “Phàm có giá thú mà sinh con, dẫu sau có sự tiêu hôn, không cứ vì duyên cớ gì, những đứa con ấy vẫn là con chính thức. Thuộc về quyền lợi, nghĩa vụ của cha mẹ, những đứa con ấy thì cũng theo cùng một lệ định như khi ly hôn. Việc thanh toán các tài sản của vợ chồng đã tiêu hôn thì cũng làm theo như khi ly hôn”.

doc15 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 2412 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tiểu luận Tìm hiểu quy định của hệ thống pháp luật Việt Nam về hủy việc kết hôn trái pháp luật, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
tại và việc xóa bỏ nó cũng như chế độ hôn nhân gia đình phong kiến lạc hậu không hề dễ dàng. Vì thế, nước ta vẫn chưa ban hành đạo luật cụ thể nào trong việc quy định vấn đề hôn nhân gia đình ở Việt Nam, mà chỉ áp dụng những quy định trong pháp luật cũ có chọn lọc. Vì thế, vấn đề hôn nhân cũng như hủy kết hôn trái pháp luật không có nhiều điểm mới. Năm 1950, nước ta có ban hành 2 sắc lệnh số 97-SL và sắc lệnh số 159-SL có điều chỉnh về các quan hệ hôn nhân, gia đình, tuy nhiên cũng không đề cập đến vấn đề hủy kết hôn trái pháp luật. 2.2 Giai đoạn 1954 – 1975: Đây là giai đoạn mà đất nước ta bị chia cắt, miền Bắc tiếp tục xây dựng chế độ XHCN, trong khi miền Nam tiếp tục cuộc cách mạng dân tộc, dân chủ, đấu tranh chống đế quốc Mỹ, thống nhất đất nước. Trước tình hình đó, nước ta đã ban hành luật hôn nhân gia đình năm 1959 nhằm đáp ứng sự nghiệp giải phóng phụ nữ, xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc. Bộ luật hôn nhân gia đình năm 1959 với 6 chương chính thức có hiệu lực với miền Bắc từ ngày 1/1/1960. Trong đó, nhà nước đã đảm bảo nguyên tắc hôn nhân tự do và tiến bộ, bình đẳng, một vợ một chồng, xóa bỏ hoàn toàn chế độ hôn nhân phong kiến lạc hậu. Tuy nhiên, luật hôn nhân gia đình năm 1959 chỉ đề cập đến các trường hợp bị cấm kết hôn (Chương II) mà không nói về việc huỷ kết hôn trái pháp luật. 2.3.Giai đoạn 1975 – hiện nay: Sau cuộc kháng chiến chống đế quốc Mỹ thắng lợi, đất nước ta hoàn toàn thống nhất. Nhiệm vụ duy nhất được đặt ra cho toàn thể đất nước hiện giờ chính là việc xây dựng chủ nghĩa xã hội vững mạnh. Đất nước thống nhất đòi hỏi hệ thống pháp luật xã hội chủ nghĩa cũng phải thống nhất trên cả hai miền Nam Bắc. Đồng thời, nhà nước cũng phải sửa đổi hiến pháp nhằm phù hợp với tình hình của đất nước. Hiến pháp năm 1980 ra đời đã đề ra phương hướng cho cách mạng xã hội chủ nghĩa, quy định về chế độ chính trị, kinh tế, xã hội của đất nước. Đối với chế độ hôn nhân và gia đình, hiến pháp 1980 cũng trở thành nền tảng cho sự phát triển của hôn nhân và gia đình Việt Nam. Về cơ bản, tình hình nước ta có nhiều thay đổi so với năm 1959, do vậy việc áp dụng luật hôn nhân gia đình năm 1959 không còn phù hợp. Chính vì thế, luật hôn nhân gia đình năm 1986 được xây dựng và hoàn thiện. Gồm 10 chương và 57 điều, luật hôn nhân gia đình năm 1986 vẫn được xây dựng và thực hiện trên các nguyên tắc hôn nhân tự nguyện, tiến bộ, nguyên tắc hôn nhân một vợ một chồng, nguyên tắc vợ chồng bình đẳng, bảo vệ quyền lợi của cha mẹ và con, bảo vệ bà mẹ và trẻ em. Tuy nhiên, điểm mới trong luật hôn nhân năm 1986 đó chính là những quy định về việc huỷ kết hôn trái pháp luật. Trong khi luật hôn nhân gia đình năm 1959 không quy định về vấn đề này, thì việc hủy kết hôn trái pháp luật được quy định và ghi nhận rõ trong luật hôn nhân gia đình năm 1986 (Điều 9 chương II: “Việc kết hôn vi phạm một trong các Điều 5, 6, 7 của Luật này là trái pháp luật. Một hoặc hai bên đã kết hôn trái pháp luật, vợ, chồng hoặc con của người đang có vợ, có chồng mà kết hôn với người khác, Viện kiểm sát nhân dân, Hội liên hiệp phụ nữa Việt Nam, Đoàn thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh, Công đoàn Việt Nam có quyền yêu cầu Toà án nhân dân huỷ việc kết hôn trái pháp luật”). Luật hôn nhân gia đình năm 1986 được Nhà nước ta ban hành trong những năm đầu thời kỳ đổi mới. Quá trình công nghiệp hóa hiện đại hóa đất nước đã tác động không nhỏ tới tình hình thực tế của các quan hệ hôn nhân gia đình. Thêm vào đó, sau 10 năm thực hiện, luật hôn nhân gia đình năm 1986 đã cho thấy việc áp dụng giải quyết các tranh chấp trong hôn nhân gia đình còn gặp nhiều vướng mắc, thiếu sót. Trước tình hình đó, nhà nước phải thay đổi một cách toàn diện các bộ luật điều chỉnh về quan hệ hôn nhân gia đình. Năm 1992, Nhà nước ta đã ban hành bản hiến pháp mới, làm cơ sở để xây dựng bộ luật hôn nhân gia đình. Sau quá trình soạn thảo và hoàn thiện, luật hôn nhân gia đình năm 2000 chính thức được công bố và có hiệu lực. Không chỉ kế thừa những tiến bộ của luật hôn nhân gia đình năm 1986, luật hôn nhân gia đình năm 2000 còn khắc phục được tính định khung và thiếu cụ thể trong các quy định của luật hôn nhân gia đình năm 1986. Trong đó, việc hủy kết hôn trái pháp luật được quy định cụ thể, đầy đủ trong điều 15, 16, 17. III. Quy định của hệ thống pháp luật Việt Nam về huỷ việc kết hôn trái pháp luật. 1. Huỷ việc kết hôn trái pháp luật theo quy định trong hệ thống pháp luật nước ta trước Cách mạng tháng Tám. 1.1 Trước thời kỳ Pháp thuộc. Việt Nam tồn tại chế độ quân chủ, tất cả quyền hành tập trung trong tay vua. Các đạo luật đều do vua ban hành. Tiêu biểu cho pháp luật thời kỳ phong kiến là Bộ luật Hồng Đức được ban hành dưới triều Lê và Bộ luật Gia Long được ban hành dưới triều Nguyễn. Theo quy định tại các Bộ luật này thì về nguyên tắc, giấy chứng nhận kết hôn được coi là một văn bằng pháp lý đặc biệt quan trọng làm gắn bó vợ chồng trong các quyền và nghĩa vụ nhất định. Nếu việc ký kết văn bằng đó đã phạm vào các điều cấm của luật thì nó sẽ bị coi là vô hiệu (không có giá trị pháp lý) và có thể bị tiêu huỷ. Vì vậy, khi xác lập quan hệ hôn nhân, nếu các bên vi phạm vào các điều kiện về cấm kết hôn thì dù có giấy chứng nhận do cơ quan có thẩm quyền cấp thì hôn nhân đó cũng bị coi là trái pháp luật và sẽ bị tiêu huỷ. Pháp luật thời kỳ này đã quy định các trường hợp cấm kết hôn, đó là: - Cấm kết hôn khi đang có tang cha mẹ hoặc tang chồng. (Điều 317 Bộ luật Hồng Đức). - Cấm kết hôn khi cha mẹ bị giam cầm tù tội. (Điều 99 Luật Gia Long). - Cấm kết hôn giữa những người thân thích. (Điều 319 Luật Hồng Đức). Riêng Bộ luật Hồng Đức còn quy định cấm kết hôn trong một số trường hợp khác như: - Cấm quan lại không được lấy con hát làm vợ. (Điều 323) - Cấm học trò lấy vợ của thầy học đã chết, anh, em lấy vợ của em, anh đã chết. (Điều 324). - Cấm quan lại ở biên trấn kết thông gia với tù trưởng vùng đó. (Điều 33). - Cấm quan ty lấy con gái trong hạt mình. (Điều 316). Cổ luật đã quy định các trường hợp cấm kết hôn, vì vậy nếu việc kết hôn phạm vào một trong những điều cấm đó thì hôn nhân bị coi là vô hiệu và về nguyên tắc thì hôn nhân đó có thể bị tiêu huỷ. Tuy nhiên, hôn nhân là một quan hệ có tầm quan trọng đặc biệt đối với vợ chồng, đối với các con, đối với gia đình và đối với xã hội, do vậy mà trong cổ luật Việt Nam đã có những quy định nhằm giới hạn những trường hợp có thể xin tiêu huỷ hôn nhân. Ví dụ: Điều 316 Luật Hồng Đức đã quy định: đối với những trường hợp khi các bên kết hôn đã vi phạm nghiêm trọng vào các điều cấm của luật tức là đã vi phạm vào các điều kiện thiết yếu thì pháp luật không công nhận tính hợp pháp của hôn nhân đó và cần phải tiêu huỷ hôn nhân. Tại Điều 317 và Điều 323 Luật Hồng Đức có quy định các bên sẽ phải chia lìa hoặc phải ly dị khi vi phạm vào các điều kiện quan trọng của việc xác lập hôn nhân. Sự tiêu huỷ hôn nhân trái pháp luật trong cổ luật có sự khác biệt so với việc tiêu huỷ hôn nhân trong pháp luật hiện hành. Tiêu huỷ hôn nhân trong cổ luật không có hiệu lực trở về trước mà chỉ có hiệu lực trong tương lai. Có nghĩa là, hôn nhân vẫn có hiệu lực trong quá khứ. Trước khi bị tiêu huỷ hôn nhân thì hôn nhân đó vẫn được coi là có giá trị pháp lý, các bên tham gia quan hệ hôn nhân đó vẫn là vợ chồng, họ chỉ bị “chia lìa” hay “ly dị” (kể từ khi hôn nhân của họ bị tuyên bố tiêu huỷ mà thôi. Như vậy, sự tiêu huỷ hôn nhân trong cổ luật hoàn toàn giống với trường hợp ly hôn theo pháp luật hiện hành). Thông qua các quy định trong các Bộ luật Hồng Đức và Luật Gia Long đã cho phép chúng ta kết luận rằng, trong cổ luật hôn nhân bị coi là vô hiệu khi phạm vào một trong các điều cấm kết hôn. Tuy nhiên, không phải tất cả các trường hợp hôn nhân vô hiệu đều bị xử lý mà pháp luật quy định chỉ những trường hợp vi phạm nghiêm trọng các điều kiện về cấm kết hôn thì mới tiêu huỷ hôn nhân. Hậu quả của việc tiêu huỷ hôn nhân là buộc các bên phải ly dị và có thể phải chịu những hình phạt nhất định tuỳ từng trường hợp cụ thể. 1.2 Trong thời kì Pháp thuộc. Pháp luật nước ta vừa chịu ảnh hưởng tư tưởng của pháp luật phong kiến, vừa chịu ảnh hưởng tư tưởng của pháp luật phương Tây, nên hôn nhân trái pháp luật được hiểu là các trường hợp khi kêt hôn các bên đã vi phạm vào điều cấm kết hôn hoặc vi phạm một số các điều kiện khác của hôn nhân hợp pháp. Tuy ba bộ Dân luật thời kì này có những quy định về điều kiện kết hôn khác nhau, song nhìn chung đều tập trung vào một số các vấn đề liên quan trực tiếp đến lợi ích của những người kết hôn, lợi ích của con cái, của gia đình và của cả xã hội. Nếu việc kêt hôn vi phạm các điều kiện kết hôn thì hôn nhân đó bị coi là trái pháp luật và có thể sẽ tiêu huỷ. Những vi phạm điển hình có thể kể đến là: - Vi phạm về độ tuổi kết hôn. - Vi phạm sự tự nguyện của những người kết hôn. - Việc kết hôn thiếu sự đồng ý của cha mẹ. - Việc kết hôn vi phạm vào các điều cấm. Ngoài ra, hôn nhân còn được coi là vô hiệu khi phạm vào một trong các trường hợp kết hôn không khai với hộ lại. (Điều 82 Dân luật Bắc kỳ) hoặc trong trường hợp người đàn bà trước đã có giá thú làm chính thất hoặc thứ thất mà chưa tiêu hôn. (Điều 84 Bộ Dân luật Bắc kỳ). Ba bộ Dân luật thời kỳ Pháp thuộc đã chia hôn nhân vô hiệu ra làm hai loại: vô hiệu tương đối và vô hiệu tuyệt đối. Vô hiệu tương đối chỉ do một số người nhất định mà luật quy định cụ thể mới có quyền yêu cầu tiêu huỷ hôn nhân đó và sự vô hiệu ấy có thể bị mất đi do một sự kiện nào đó xuất hiện. Vô hiệu tuyệt đối thì có thể bất kì người nào cũng có quyền yêu cầu tiêu huỷ và sự vô hiệu ấy không bị mất đi do một thời hiệu hoặc một sự kiện nào. Hôn nhân vô hiệu sẽ bị Toà án tiêu huỷ. Hậu quả của việc tiêu huỷ có sự quy định khác nhau trong ba bộ Dân luật thời kì này. Bộ Dân luật Bắc kỳ và Bộ Hoàng Việt Trung kỳ hộ luật đã dựa trên nguyên tắc giảm bớt những hậu quả quá nặng nề đối với vợ chồng, đối với các con nên đã tìm ra những biện pháp nhằm giảm bớt những quy định quá nghiêm ngặt, như quy định khi hôn nhân bị tiêu huỷ thì việc tiêu huỷ đó chỉ có hiệu lực trong tương lai, có nghĩa là trước khi bị tiêu huỷ hôn nhân, giữa các bên vẫn tồn tại quan hệ vợ chồng, con sinh ra vẫn là con trong giá thú, các bên chỉ phải chấm dứt quan hệ vợ chồng kể từ khi hôn nhân bị tiêu huỷ mà thôi. Nói cách khác về hậu quả pháp lý, trường hợp tiêu huỷ hôn nhân cũng giống như trường hợp ly hôn. Giải pháp trên đây được thừa nhận trong Điều 89 của bộ Dân luật Bắc kỳ. Điều 89 bộ Dân luật Bắc kỳ quy định: “Phàm có giá thú mà sinh con, dẫu sau có sự tiêu hôn, không cứ vì duyên cớ gì, những đứa con ấy vẫn là con chính thức. Thuộc về quyền lợi, nghĩa vụ của cha mẹ, những đứa con ấy thì cũng theo cùng một lệ định như khi ly hôn. Việc thanh toán các tài sản của vợ chồng đã tiêu hôn thì cũng làm theo như khi ly hôn”. Trái lại, trong Bộ Pháp quy Giản yếu lại có quy định rằng, khi hôn nhân bị tiêu huỷ thì nó không còn hiệu lực gì không những trong tương lai mà còn cả trong quá khứ nữa. Đối với hai vợ chồng thì kể từ ngày họ kết hôn cho đến khi hôn nhân bị tiêu huỷ họ không phải là vợ chồng của nhau, có nghĩa là hai bên chưa hề xác lập quan hệ hôn nhân với nhau. Vì vậy, nếu họ có tài sản chung thì tài sản đó được thanh toán như trong trường hợp hai người góp sức làm ra. Đối với các con thì bị coi như con ngoại hôn tức là con ngoài giá thú. Như vậy, Bộ Pháp quy Giản yếu đã quy định những hậu quả hết sức nặng nề đối với việc tiêu huỷ hôn nhân. So với Bộ Dân luật Bắc kỳ và Bộ Hoàng Việt Trung kỳ hộ luật thì Bộ Pháp quy Giản yếu đã nghiêm ngặt hơn rất nhiều. 2. Huỷ việc kết hôn trái pháp luật theo quy định trong Luật hôn nhân và gia đình năm 1959. Luật hôn nhân và gia đình năm 1959 ra đời đã khẳng định bản chất của pháp luật xã hội chủ nghĩa, là công cụ pháp lý của Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hoà, phục vụ lợi ích của nhân dân lao động và phù hợp với nguyện vọng của quần chúng nhân dân, nhằm xây dựng chế độ hôn nhân và gia đình mới xã hội chủ nghĩa. 2.1 Căn cứ để xử huỷ việc kết hôn trái pháp luật. - Con gái từ 18 tuổi trở lên, con trai từ 20 tuổi trở lên mới được kết hôn. (Điều 6) - Con trai và con gái, được hoàn toàn tự nguyện quyết định việc kết hôn của mình; không bên nào được ép buộc bên nào, không một ai được cưỡng ép hoặc cản trở. (Điều 4) - Cấm người đang có vợ, có chồng kết hôn với người khác. (Điều 5) - Cấm kết hôn giữa những người cùng dòng máu về trực hệ; giữa cha mẹ nuôi và con nuôi. Cấm kết hôn giữa anh chị em ruột, anh chị em cùng cha khác mẹ hoặc cùng mẹ khác cha. Đối với những người khác có họ trong phạm vi năm đời hoặc có quan hệ thích thuộc về trực hệ, thì việc kết hôn sẽ giải quyết theo phong tục tập quán. (Điều 9) - Những người sau đây không được kết hôn: bất lực hoàn toàn về sinh lý; mắc một trong các bệnh hủi, hoa liễu, loạn óc, mà chưa chữa khỏi. (Điều 10) - Việc kết hôn phải được Uỷ ban hành chính cơ sở nơi trú quán của bên người con trai hoặc bên người con gái công nhận và ghi vào sổ kết hôn. Mọi nghi thức kết hôn khác đều không có giá trị về mặt pháp luật. (Điều 11) Như vậy, Luật hôn nhân và gia đình năm 1959 đã quy định cụ thể những điều kiện trong đó cho phép nam, nữ kết hôn hoặc các trường hợp cấm kết hôn, đặc biệt là có quy định cả những trường hợp khôn được kết hôn. Vì vậy, những trường hợp vi phạm điều kiện kết hôn chính là vi phạm chế độ hôn nhân và gia đình mới xã hội chủ nghĩa nên cần phải được xử lý nghiêm khắc. Tuy nhiên, Luật hôn nhân và gia đình năm 1959 không quy định biện pháp chế tài đối với những trường hợp kết hôn vi phạm điều kiện kết hôn. Biện pháp xử lý đối với việc kết hôn vi phạm điều kiện kết hôn được ghi nhận trong các văn bản hướng dẫn thi hành Luật hôn nhân và gia đình năm 1959. Theo hướng dẫn tại Thông tư số 112-NCPL ngày 19/8/1972 thì đường lối chung khi xử lý về dân sự đối với những vi phạm điều kiện kết hôn xảy ra sau khi ban hành Luật hôn nhân và gia đình cần căn cứ vào tình hình thực tế mà có sự phân biệt như sau: - Cần xử tiêu hôn những vi phạm điều kiện kết hôn đang tiếp diễn và tính chất nghiêm trọng như: tảo hôn, đang có vợ, có chồng mà lấy vợ hoặc chồng khác, lấy người trong họ hàng mà Luật tuyệt đối cấm kết hôn; lấy người đang mắc một bệnh trong những bệnh tật mà Luật cấm kết hôn. - Những trường hợp kết hôn vi phạm các điều kiện kết hôn do Luật định thì hôn nhân đó cần phải xử tiêu hôn. “Xử tiêu hôn là quyết định chấm dứt những hôn nhân bất hợp pháp”. Điều đó có nghĩa là hôn nhân vi phạm điều kiện kết hôn là hôn nhân bất hợp pháp (hôn nhân trái pháp luật) cần phải xử lý tiêu hôn nhằm đấu tranh chống những việc vi phạm nghiêm trọng trong điều kiện kết hôn, đồng thời Nhà nước thông qua đó tỏ rõ thái độ nghiêm khắc là không thừa nhận quan hệ vợ chồng đối với những trường hợp nam, nữ kết hôn nhưng không tuân thủ đầy đủ điều kiện kết hôn. 2.2 Hậu quả pháp lý. 2.2.1 Quan hệ nhân thân. Về nguyên tắc, khi hôn nhân bị Toà án tiêu huỷ thì có hiệu lực cả trong quá khứ và tương lai. Vì vậy, kể từ khi hai bên kết hôn, quan hệ của họ chỉ là việc chung sống trái pháp luật chứ không phải là quan hệ vợ chồng. Khi Toà án huỷ hôn nhân, họ phải chấm dứt việc hôn nhân bất hợp pháp, chấm dứt mọi quyền và nghĩa vụ về nhân thân vợ chồng. 2.2.2 Quan hệ tài sản. Phải thanh toán theo cách thanh toán tài sản của những người chung sức làm ăn với nhau, tài sản riêng của ai người đó lấy về, tài sản do hai người lao động tạo ra sẽ chia theo công sức mà mỗi bên đã đóng góp, những khoản chi tiêu riêng của ai người đó phải trả. 2.2.3 Quan hệ cấp dưỡng. Về cấp dưỡng giữa các bên thì về nguyên tắc không được đặt ra. Việc tiêu huỷ hôn nhân dẫn đến hậu quả nghiêm trọng như vậy nên Toà án nhân dân tối cao đã hướng dẫn cụ thể đối với một số trường hợp, mặc dù có vi phạm điều kiện kết hôn nhưng không nghiêm trọng thì không xử tiêu hôn mà chỉ xử theo thủ tục ly hôn nếu các đường sự yêu cầu nhằm bảo đảm quyền lợi chính đáng của các đường sự, nhất là quyền lợi của phụ nữ và con cái. 3. Huỷ việc kết hôn trái pháp luật theo quy định trong Luật hôn nhân và gia đình năm 1986. Khái niệm “ huỷ hôn nhân trái pháp luật” chỉ xuất hiện trong Luật hôn nhân và gia đình năm 1986. Các văn bản trước đó và trong Luật hôn nhân và gia đình năm 1959 có tồn tại một khái niệm tương tự là “tiêu hôn”. Ý nghĩa pháp lý của khái niệm “tiêu hôn” có phạm vi hẹp là chấm dứt quan hệ hôn nhân bất hợp pháp. Nhưng có thể nó sẽ bị hiểu theo một nghĩa rộng hơn – đó là sự chấm dứt mối quan hệ hôn nhân (có thể là chấm dứt hôn nhân bất hợp pháp; chấm dứt hôn nhân do một bên chết; do ly hôn…). Mặt khác, thuật ngữ này cũng chưa phản ánh được thái độ phủ định dứt khoát của Nhà nước cũng như tính cưỡng chế nghiêm khắc của chế tài nhằm huỷ bỏ quan hệ hôn nhân không được pháp luật thừa nhận. Đây có lẽ là một trong những lý do chính để các nhà lập pháp đã cân nhắc đến việc sử dụng khái niệm “huỷ hôn nhân trái pháp luật” khi xây dựng Luật hôn nhân và gia đình năm 1986 thay thế cho khái niệm “tiêu hôn”. 3.1 Căn cứ để xử huỷ việc kết hôn trái pháp luật. Về cơ bản Luật hôn nhân và gia đình năm 1986 quy định điều kiện kết hôn giống như Luật hôn nhân và gia đình năm 1959. Tuy nhiên, Luật hôn nhân và gia đình năm 1986 đã chỉ rõ những căn cứ để xác định hôn nhân trái pháp luật và hậu quả là hôn nhân trái pháp luật đó phải bị huỷ bỏ. “Việc kết hôn vi phạm một trong các điều 5,6,7 của Luật này là trái pháp luật. Một hoặc cả hai bên đã kết hôn trái pháp luật, vợ, chồng hoặc con của người đang có vợ, có chồng mà kết hôn với người khác, Viện kiểm sát nhân dân, Hội Liên hiệp phụ nữ Việt Nam, Đoàn thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh, Công đoàn Việt Nam có quyền yêu cầu Toà án nhân dân huỷ việc kết hôn trái pháp luật. Tài sản của những người mà hôn nhân bị huỷ được giải quyết theo nguyên tắc: tài sản riêng của ai thì vẫn thuộc quyền sở hữu của người ấy; tài sản chung được chia căn cứ vào công sức đóng góp của mỗi bên; quyền lợi chính đáng của bên bị lừa dối hoặc bị cưỡng ép kết hôn được bảo vệ. Quyền lợi của con được giải quyết như trong trường hợp cha mẹ ly hôn” (Điều 9). 3.2 Hậu quả pháp lý. 3.2.1 Quan hệ nhân thân. Trong hôn nhân trái pháp luật, Nhà nước không thừa nhận quan hệ giữa hai bên nam, nữ chung sống là quan hệ vợ chồng, nghĩa là Nhà nước không thừa nhận giữa họ đã phát sinh các quyền và nghĩa vụ vợ chồng. Thời điểm này được tính từ khi quan hệ hôn nhân bất hợp pháp chứ không phải từ thời điểm Toà án ra các phán quyết có hiệu lực pháp luật. Trong bản án huỷ hôn nhân trái pháp luật bao giờ Toà án cũng phải tuyên rõ việc huỷ hôn nhân trái pháp luật đó mà buộc họ phải chấm dứt hành vi chung sống bất hợp pháp. 3.2.2 Quan hệ tài sản. Do hôn nhân trái pháp luật không có quan hệ vợ chồng nên tài sản do họ tạo ra trong thời gian chung sống không phải là tài sản chung hợp nhất mà là tài sản chung theo phần. Việc thanh toán căn cứ vào Bộ luật dân sự. Những khoản chi tiêu riêng cho ai thì người đó phải trả. Khi chia ai có công sức đóng góp nhiều hơn vào việc xây dựng, duy trì, phát triển khối tài sản chung thì người đó được chia nhiều hơn, người nào có tài sản riêng muốn lấy về phải chứng minh được đó là tài sản riêng của mình, nếu không chứng minh được thì tài sản đó được coi là tài sản chung. Khi chia cần xem xét bảo vệ quyền lợi của bên bị cưỡng ép hoặc bị lừa dối. 3.2.3 Quan hệ cấp dưỡng. Cấp dưỡng là quy kết trong hôn nhân hợp pháp – là nghĩa vụ vợ chồng khi hôn nhân tồn tại hoặc ngay cả khi ly hôn. Trong hôn nhân bất hợp pháp chưa làm phát sinh quan hệ vợ chồng, nên về nguyên tắc vấn đề cấp dưỡng không được đặt ra. Tuy nhiên để đảm bảo quyền lợi cho đương sự trong trường hợp bị cưỡng ép hay bị lừa dối hoặc giữa họ đã có thời gian chung sống lâu dài. Nếu họ thực sự túng thiếu và có yêu cầu thì có thể yêu cầu bên có khả năng hơn về kinh tế cấp dưỡng một lần bằng một khoản tiền hay hiện vật nhằm giải quyết một phần khó khăn ngay sau khi huỷ hôn nhân trái pháp luật. Trường hợp hai bên chưa từng sống chung, hoặc thời gian sống chung chưa đáng kể hoặc bên túng thiếu lại có lỗi nặng (như đã ép buộc, lừa dối bên kia…) thì không giải quyết việc cấp dưỡng dù họ thực sự túng thiếu và có yêu cầu. 3.2.4 Quan hệ cha mẹ con cái. Quan hệ giữa cha mẹ và con cái phát sinh trên cơ sở của hiện tượng sinh đẻ. Nó không phụ thuộc vào quan hệ hôn nhân của cha mẹ là hợp pháp hay không hợp pháp, còn tồn tại hay đã chấm dứt. Vì vậy việc huỷ hôn nhân trái pháp luật cũng không làm thay đổi nghĩa vụ của cha mẹ đối với con chung. Do vậy, “quyền lợi của con được giải quyết như trong trường hợp cha mẹ ly hôn” (đoạn 4 Điều 9). Quan hệ giữa cha mẹ và con cái khi huỷ hôn nhân được xác định theo các Điều 19,20,32,44 Luật hôn nhân và gia đình năm 1986 nhằm mục đích bảo vệ quyền lợi cho đứa trẻ. Việc giao đứa trẻ cho ai nuôi là phụ thuộc vào các điều kiện để đảm bào sự phát triển bình thường của đứa trẻ. Về nguyên tắc trẻ còn bú phải giao cho người mẹ. Bên không nhận nuôi phải có nghĩa vụ đóng góp phí tổn cho bên nhận nuôi để nuôi con. 4. Huỷ việc kết hôn trái pháp luật theo quy định trong Luật hôn nhân và gia đình năm 2000. 4.1 Căn cứ để xử huỷ việc kết hôn trái pháp luật. Kế thừa Luật hôn nhân và gia đình năm 1959, 1986, Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 đã có thêm quy định sau: “Cấm kết hôn giữa những người cùng giới tính, người mất năng lực hành vi dân sự” (Điều 10). Huỷ việc kết hôn trái pháp luật đã được đưa vào một điều luật cụ thể: “Theo yêu cầu của cá nhân, cơ quan, tổ chức quy định tại Điều 15 của Luật này, Toà án xem xét và quyết định việc huỷ kết hôn trái pháp luật và gửi bản sao quyết định cho cơ quan đã thực hiện việc đăng kí kết hôn. Căn cứ vào quyết định của Toà án, cơ quan đăng kí kết hôn xoá đăng kí kết hôn trong Sổ đăng kí kết hôn” (Điều 16). 4.2 Người có quyền yêu cầu huỷ việc kết hôn trái pháp luật. Những người có quyền yêu cầu huỷ việc kết hôn trái pháp luật, trong khung cảnh của Luật hiện hành, được liệt kê tại Điều 15 của Luật hôn nhân và gia đình năm 2000. - Trong trường hợp kết hôn mà chưa đủ tuổi, kết hôn với người đang có vợ hoặc chồng, với người mất năng lực hành vi, kết hôn với người có cùng dòng máu về trực hệ hoặc có họ trong phạm vi ba đời, kết hôn với cha, mẹ nuôi với con nuôi, với người đã từng là con nuôi giữa bố chồng với con dâu, giữa mẹ vợ với con rể, bố dượng với con dâu của vợ, mẹ kế với con riêng của chồng thì những người sau đây có quyền yêu cầu toàn án hoặc đề nghị viện kiểm sát yêu cầu tòa án hủy việc kết hôn trái pháp luật: vợ, chồng, cha, mẹ, con của các bên kết hôn, Ủy ban bảo vệ và chăm sóc trẻ em, Hội liên hiệp phụ nữ.Viện kiểm sát cũng có thể tự mình yêu cầu Tòa án hủy việc kết hôn trái pháp luật ở các trường hợp ghi nhận tại nhóm thứ hai trên đây.Luật có quy định thêm rằng cá nhân, tổ chức, cơ quan khác có quyền đề nghị viện kiểm sát xem xét, yêu cầu tòa án hủy việc kết hôn trái pháp luật. Quy định trên có thể cho phép một người thứ ba nào đó bất kì chen vào cuộc sống riêng của người khác. Trong thực tiễn, nếu xét thấy người thứ ba không có lợi ích rõ ràng trong việc yêu cầu hủy hôn nhân trái pháp luật và bản thân việc yêu cầu cũng không xuất phát từ việc bảo vệ lợi ích chung thì viện kiểm sát hoặc tòa án sẽ bác đề nghị của người thứ ba, đặc biệt trong trường hợp yêu cầu hủy kết hôn trái pháp luật do có sự nhầm lẫn về lai lịch, lừa dối cưỡng ép hoặc do một người ở trong tình trạng không nhận thức được hành vi của mình. Có thể hình dung trường hợp người thứ ba xuất hiện từ lợi ích chung khi yêu cầu hủy kết hôn trái pháp luật do có sự cưỡng ép,bức xúc trước sự việc, người thứ ba lên tiếng yêu cầu viện kiểm sát can thiệp, trong khi người trong cuộc vẫn im lặng. Cũng có trường hợp người thứ ba lên tiếng, sau khi phát hiện có cuộc hôn nhân giữa một người tỉnh táo và một người mắc bệnh tâm thần. Trái lại, rất khó hình dung giả thiết theo đó, người thứ ba xuất phát từ lợi ích chung mà lên tiếng trong trường hợp hôn nhân được xác lập với sự lừa dối. Dẫu sao, ta không nghĩ rằng cá nhân, cơ quan, tổ chức khác khi can thiệp để yêu cầu hủy kết hôn trái pháp luật, lại có thể can thiệp một phạm vi rộng hơn so với những người thân của bên này hay bên kia, so với Hội liên hiệp phụ nữ, Ủy ban bảo vệ và chăm sóc trẻ em; các cá nhân, cơ quan, tổ chức sau này không có quyền yêu cầu hủy hôn nhân trái pháp luật do có sự cưỡng ép hoạc lừa dối. 4.3 Cơ quan có quyền hủy việc kết hôn trái pháp luật. Cơ quan có quyền giải quyết yêu cầu hủy kết hôn trái pháp luật là tòa án. Tuy nhiên, luật hiện hành quy định rất chung về việc xác định tòa án có thẩm quyền. Thực tiễn, về phần mình, có xu hướng thừa nhận rằng tòa án có thẩm quyền là tòa án quận, huyện, thành phố thuộc nơi đăng kí kết hôn hoặc nơi cư trú của vợ chồng. Thời hiệu khởi kiện: Luật hiện hành không quy định thời hiệu khởi kiện yêu cầu hủy việc kết hôn trái pháp luật. Dẫu sao, khó có thể hình dung khả năng một bên kết hôn trái pháp luật hoặc cơ quan nhà nước, tổ chức xã hội thuyết phục được tòa án ra quyết định hủy kết hôn trái pháp luật do có sự lừa dối hoặc cưỡng ép, một khi cuộc sống chung đã được duy trì trong một thời gian( 5 năm, 10 năm, …) hẳn việc kết hôn trong trường hợp này có thể coi như một giao dịch dân sự và chỉ có thể bị hủy trong thời hạn được quy định

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docTìm hiểu quy định của hệ thống pháp luật Việt Nam về hủy việc kết hôn trái pháp luật.doc
Tài liệu liên quan