Tiểu luận Tìm hiểu tình hình sản xuất và nhập khẩu phân bón của Việt Nam

Phân đạm có thể sản xuất từ hai nguồn nguyên liệu là than đá và khí thiên nhiên. Việt Nam đang có thế mạnh ở cả hai nguồn nguyên liệu này nhờ đó phân urê sản xuất trong nước thường rẻ hơn giá thế giới. Tuy nhiên, nếu so sánh hai nguồn nguyên liệu cho sản xuất phân đạm hiện nay, khí thiên nhiên đang có ưu thế hơn than đá về cả chi phí cũng như nguồn cung.

Do chi phí khai thác than đang có xu hướng tăng mạnh nên giá nguyên liệu than vì thế cũng tăng theo. Hơn nữa than đá cũng là nguồn nguyên liệu đầu vào cho sản xuất của ngành điện, xi măng và giấy nên sẽ dẫn đến tình hình cạnh tranh nguyên liệu với những ngành trên cộng thêm thách thức về an ninh năng lượng quốc gia cũng làm hạn chế nguồn cung loại năng lượng này.

Phân lân, hai yếu tố đầu vào quan trọng cho sản xuất phân lân trong nước hiện nay là quặng apatit (nguyên liệu) và than cốc (nhiên liệu). Mỏ Apatit Lào Cai là mỏ có trữ lượng quặng Apatit rất lớn và duy nhất tại Việt Nam, cung cấp gần như toàn bộ quặng apatit làm nguyên liệu cho sản xuất phân lân. Trữ lượng lớn tuy nhiên các Công ty sản xuất phân lân thường bị thiếu nguyên liệu do công suất tuyển quặng của đơn vị khai thác cũng như khả năng vận chuyển quặng đến các nhà máy quá yếu. Còn nguồn nhiên liệu than cốc cho sản xuất phân bón trước đây đều phải nhập khẩu nhưng nay đã được thay thế bằng than antraxit nội địa. Nhìn chung, các yếu tố đầu vào cho sản xuất phân lân Việt Nam đều có khả năng cung cấp đủ cho nhu cầu sản xuất.

 

doc26 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 7171 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tiểu luận Tìm hiểu tình hình sản xuất và nhập khẩu phân bón của Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Trung lượng: là nhóm các dinh dưỡng khoáng thiết yếu mà cây trồng cần ở mức trung bình bao gồm Can xi (Ca), Ma giê (Mg) và Lưu huỳnh (S). Vi lượng: là nhóm dinh dưỡng khoáng thiết yếu cây trồng cần với lượng ít như Sắt (Fe), Kẽm (Zn), Đồng (Cu)…. Tùy theo từng loại cây trồng cũng như từng loại đất sẽ có những sản phẩm phân bón phù hợp. Theo nguồn gốc, phân bón được chia thành hai loại: - Phân bón hữu cơ: loại phân chứa những chất dinh dưỡng ở dạng những hợp chất hữu cơ như phân chuồng, phân xanh, phân vi sinh, phân rác. Ưu điểm của loại phân này là có thể tận dụng nguồn rác thải từ động vật hay cây trồng để sản xuất phân bón và ít gây ô nhiễm môi trường trong quá trình sử dụng. Tuy nhiên khuyết điểm của nó là giá thành cao và khi sử dụng phân hữu cơ cây không thể sử dụng ngay dưỡng chất từ phân mà phải trải qua một quá trình chuyển hóa nhờ vào các vi sinh vật vì vậy cây chỉ có thể lớn từ từ. Hơn nữa mức độ hiệu quả của phân hữu cơ phụ thuộc khá nhiều vào sự có mặt và mật độ của các vi sinh vật có ích trong môi trường. - Phân bón vô cơ (phân hóa học): là loại phân chứa các yếu tố dinh dưỡng dưới dạng muối khoáng (vô cơ) thu được nhờ các quá trình vật lý, hóa học. Nguồn nguyên liệu sản xuất được lấy từ khí thiên nhiên hay các mỏ khoáng sản. Ưu điểm của loại phân này là có tác dụng nhanh trong việc tăng năng suất cho cây và giá thành rẻ. Khuyết điểm lớn nhất của phân hóa học là gây ô nhiễm môi trường. Các loại phân vô cơ phổ biến hiện nay: - Các loại phân đơn: + Phân đạm: phân ure, phân sunphat đạm, phân amon nitrat… + Phân lân: supe lân, phân lân nung chảy… + Phân kali: kali clorua, sunphat kali… - Các loại phân hỗn hợp: chứa từ 2 nguyên tố trở lên như phân SA, phân NPK, phân DAP… 2.2 Cơ sở thực tiễn 2.2.1 Vai trò của phân hoá học đối với năng suất cây trồng ở Việt Nam và một số nước trên thế giới Cây trồng cũng như con gia súc, tôm, cá... muốn sinh trưởng tốt, khoẻ mạnh tăng trọng nhanh và cho năng suất cao cần phải được nuôi dưỡng trong điều kiện đầy đủ thức ăn, có đủ các chất bổ dưỡng theo thành phần và tỷ lệ phù hợp. Trẻ con tuy lúc mới sinh có cơ thể to, nặng cân nhưng nếu sữa mẹ kém chất, nuôi nấng thiếu khoa học thì cũng có thể trở nên còi cọc. Đối với cây trồng, nguồn dinh dưỡng đó chính là các chất khoáng có chứa trong đất, trong phân hoá học (còn gọi là phân khoáng) và các loại phân khác. Trong các loại phân thì phân hoá học có chứa nồng độ các chất khoáng cao hơn cả. Từ ngày có kỹ nghệ phân hoá học ra đời, năng suất cây trồng trên thế giới cũng như ở nước ta ngày càng được tăng lên rõ rệt. Ví dụ chỉ tính từ năm 1960 đến 1997, năng suất và sản lượng lúa trên thế giới đã thay đổi theo tỷ lệ thuận với số lượng phân hoá học đã được sử dụng (NPK, trung, vi lượng ) bón cho lúa. Trong những thập kỷ cuối thế kỷ 20 (từ 1960-1997), diện tích trồng lúa toàn thế giới chỉ tăng có 23,6% nhưng năng suất lúa đã tăng 108% và sản lượng lúa tăng lên 164,4%, tương ứng với mức sử dụng phân hoá học tăng lên là 242%. Nhờ vậy đã góp phần vào việc ổn định lương thực trên thế giới. Ở nước ta, do chiến tranh kéo dài, công nghiệp sản xuất phân hoá học phát triển rất chậm và thiết bị còn rất lạc hậu. Chỉ đến sau ngày đất nước được hoàn toàn giải phóng, nông dân mới có điều kiện sử dụng phân hoá học bón cho cây trồng ngày một nhiều hơn. Ví dụ năm 1974/1976 bình quân lượng phân hoá học (NPK) bón cho 1 ha canh tác mới chỉ có 43,3 kg/ha. Năm 1993-1994 sau khi cánh cửa sản xuất nông nghiệp được mở rộng, lượng phân hoá học do nông dân sử dụng đã tăng lên đến 279 kg/ha canh tác. Số lượng phân hoá học bón vào đã trở thành nhân tố quyết định làm tăng năng suất và sản lượng cây trồng lên rất rõ, đặc biệt là cây lúa. Rõ ràng năng suất cây trồng phụ thuộc rất chặt chẽ với lượng phân hoá học bón vào. Tuy nhiên không phải cứ bón nhiều phân hoá học thì năng suất cây trồng cứ tăng lên mãi. Cây cối cũng như con người phải được nuôi đủ chất, đúng cách và cân bằng dinh dưỡng thì cây mới tốt, năng suất mới cao và ổn định được. Vì vậy phân chuyên dùng ra đời là để giúp người trồng cây sử dụng phân bón được tiện lợi hơn. 2.2.2. Tình hình sử dụng phân bón của một số nước trên thế giới và khu vực Đông Nam Á Từ lâu nông dân ta đã có câu "người đẹp nhờ lụa, lúa tốt nhờ phân". Phân bón đã là một trong những nhân tố chính làm tăng năng suất cây trồng để nuôi sống nhân loại trên thế giới. Tuy nhiên, nhiều nước không có công nghệ sản xuất phân bón, nhưng ngoại tệ lại có hạn nên việc sử dụng phân khoáng ở các nước có sự chênh lệch khá lớn. Sự chênh lệch này không phải do tính chất đất đai khác nhau quyết định mà chủ yếu là do điều kiện tài chánh cũng như trình độ hiểu biết về khoa học dinh dưỡng cho cây trồng quyết định. Còn trong các nước phát triển mức độ sử dụng phân khoáng khác nhau là do họ sử dụng cây trồng khác nhau, điều kiện khí hậu khác nhau, cơ cấu cây trồng khác nhau và họ cũng sử dụng các chủng loại phân khác nhau để bón bổ sung. Các số liệu khảo sát cho thấy, bình quân các nước châu Á sử dụng phân khoáng nhiều hơn bình quân thế giới. Tuy nhiên, Ấn Độ (nước có khí hậu nóng) lại dùng phân khoáng ít hơn bình quân toàn châu Á. Trong lúc đó Trung Quốc và Nhật lại sử dụng phân khoáng nhiều hơn bình quân toàn châu Á. Hà Lan là nước sử dụng phân khoáng nhiều nhất. Tuy nhiên lượng phân chủ yếu bón nhiều cho đồng cỏ, rau và hoa để thu sản lượng chất xanh cao. Việt Nam được coi là nước sử dụng nhiều phân khoáng trong số các nước ở Đông Nam Á, số liệu tham khảo năm 1999 như sau: - Việt Nam: bình quân 241,82 kg NPK/ha - Malaysia: bình quân 192,60 - Thái Lan: bình quân 95,83 - Philippin: bình quân 65,62 - Indonesia: bình quân 63,0 - Myanma: bình quân 14,93 - Lào: bình quân 4,50 - Campuchia: bình quân 1,49 Theo số liệu ghi nhận được ở trên cho thấy Campuchia, Lào và Myanma sử dụng phân khoáng ít nhất, đặc biệt là Campuchia. Có thể đó là thị trường xuất khẩu phân bón của Việt Nam khá thuận lợi, nếu Việt Nam góp phần nâng cao kiến thức sử dụng phân bón cho họ có kết quả 2.2.3. Nhu cầu phân bón đối với cây trồng của Việt Nam đến hết năm 2010 Tính nhu cầu phân bón cho cây trồng là dựa trên cơ sở đặc điểm của đất đai, đặc điểm của cây trồng để tính số lượng phân cần cung cấp làm cho cây trồng có thể đạt được năng suất tối ưu (năng suất cao nhưng hiệu quả kinh tế cũng cao). Cho đến năm 2010, ước tính tổng diện tích gieo trồng ở nước ta vào khoảng 12.285.500 ha, trong đó cây có thời gian sinh trưởng hàng năm là 9.855.500 ha và cây lâu năm khoảng 2.431.000 ha (Theo số liệu của Vũ Năng Dũng, Viện Quy hoạch và Thiết kế Nông nghiệp, 2002). Để thoả mãn nhu cầu phân bón cho các loại cây trồng trên các diện tích này, đến hết năm 2010 ta cần có 2.100.000 tấn phân Urê, 300.000 tấn phân DAP, 3.000.000 tấn phân NPK các loại, 1.400.000 tấn phân lân dạng super và nung chảy và 400.000 tấn phân Kali (Nguyễn Văn Bộ, 2002). Dự kiến cho đến thời gian ấy ta có thể sản xuất được khoảng 1.600.000 tấn phân Urê, 300.000 tấn phân DAP, 3.000.000 tấn phân NPK và 1.400.000 tấn phân lân các loại. Số phân đạm và DAP sản xuất được là nhờ vào kế hoạch nâng cấp nhà máy phân đạm Bắc Giang, xây dựng 2 cụm chế biến phân đạm ở Bà Rịa-Vũng Tàu và ở Cà Mau mà có. Nếu được như vậy lúc đó ta chỉ còn phải nhập thêm khoảng 500.000 tấn Urê và 300.000 tấn phân Kali nữa là tạm đủ. Năm 2010, tổng khối lượng phân các loại cần có là 7,1 triệu tấn, một khối lượng phân khá lớn, trong lúc đó, hiện nay (năm 2003) ta mới sản xuất được khoảng 1,5 triệu tấn phân đạm và lân. Còn số lượng 1,2 triệu tấn phân NPK có được là nhờ vào nguồn nguyên liệu ngoại nhập. Năm 2002, cả nước nhập khẩu 2.833.907 tấn phân các loại (Urê, DAP, Kali, sunphát đạm). Nếu tính cả số phân nhập bằng con đường tiểu ngạch thì năm 2002 số lượng phân nhập có khoảng 3 triệu tấn, nếu cộng thêm 1,5 triệu tấn sản xuất trong nước thì vẫn còn cần thêm 2,6 triệu tấn phân các loại nữa mới đáp ứng được yêu cầu sản xuất nông nghiệp. Công ty Phân bón Bình Điền đang chuẩn bị xây dựng thêm 1 nhà máy sản xuất phân bón ở tỉnh Long An với công suất 600.000 tấn phân NPK/năm, lúc đó Công ty có thể cung cấp được khoảng 1/3 lượng phân NPK theo yêu cầu đặt ra. Như vậy cho đến nay, số lượng phân hoá học dùng cho sản xuất nông nghiệp phần lớn là dựa vào nhập khẩu. Nếu việc nâng cấp nhà máy phân đạm Bắc Giang cũng như việc xây dựng 2 cụm chế biến phân đạm ở Bà Rịa-Vũng Tàu và Cà Mau thực hiện đúng theo kế hoạch thì đến hết năm 2010 ta chỉ còn nhập khối lượng phân không nhiều lắm. Ngược lại, nếu kế hoạch trên có trở ngại thì việc tiếp tục nhập phân hoá học với khối lượng lớn là điều tất yếu. Tuy nhiên để việc sử dụng phân bón có hiệu quả, không có dư lượng đạm quá mức cho phép, không gây ô nhiễm môi trường thì ngay bây giờ ta phải trang bị cho người sản xuất những kiến thức khoa học cần thiết về tính chất 2 mặt của phân bón, biết được nhu cầu phân bón của từng loại cây, từng giai đoạn sinh trưởng của cây trên từng loại đất, từng mùa vụ để họ từ quản lý lấy nguồn tài nguyên quí giá của họ mới có hiệu quả được. 2.2.4 Quá trình sản xuất phân bón của Việt Nam. Trước những năm 1960, Nông nghiệp Việt Nam chỉ sử dụng phân hữu cơ và phân chuồng để bón cho cây trồng; sau những năm 60 mới có sự chuyển hưởng kết hợp dùng phân hóa học với phân hữu cơ trong sản xuất nông nghiệp. Trong thập kỷ 60, Nhà nước Việt Nam bắt đầu đầu tư xây dựng một số nhà máy sản xuất phân bón hóa học: Nhà máy Phân lân nung chảy Văn Điển Hà Nội, với công suất thiết kế ban đầu là 20.000 tấn/ năm; Xí nghiệp Liên hợp Supe Phốt phát Lâm Thao - Vĩnh Phú, công suất thiết kế ban đầu 100.000 tấn supephot-phát đơn/ năm; Xí nghiệp Liên hợp Phân bón và Hóa chất Hà Bắc, công suất 1 00.000 tấn urê/ năm. Về sau hai nhà máy phân lân chế biến khác đã được xây dựng thêm: Nhà máy Phân lân nung chảy Ninh Bình đi vào vận hành từ năm 1975 có công suất thiết kế là 100.000 tấn/năm và Nhà máy Supe Phốt phát Long Thành đi vào sản xuất từ tháng 12/1992 có công suất thiết kế 100.000 tấn/ năm. Từ những năm 1979-1980 ngành sản xuất phân hỗn hợp NPK bắt đầu được phát triển; đến những năm 1990- 1991 đã có năng lực sản xuất đạt trên 100.000 tấn/năm và từ đó đến nay ngành này đã phát triển không ngừng về số lượng, chất lượng cũng như về chủng loại các sản phẩm. Sản lượng NPK của các đơn vị ngoài VINACHEM chiếm khoảng 35-40% tổng sản lượng NPK tiêu thụ trên thị trường và chiếm khoảng 20% tổng sản lượng phân bón các loại trong toàn quốc. Ngoài những loại phân bón truyền thống trên, từ những năm 1990 trở lại đây tại Việt Nam, người ta bắt đầu sử dụng phân vi sinh và phân hữu cơ sinh học. Tổng lượng phân vi sinh và phân hữu cơ sinh học sử dụng trong các năm 1999 - 2000 vào khoảng 100.000 tấn/năm. Trong giai đoạn từ 2000 đến nay, chúng ta xây dựng 2 nhà máy đạm urê từ khí thiên nhiên ở miền Nam và 1 nhà máy đạm urê từ than cám ở miền Bắc. Ba nhà máy này có công suất 2,2 triệu tấn/năm. Ngoài ra, Nhà máy Phân đạm Bắc Giang mở rộng với công suất 150.000 tấn urê/năm được đưa vào sản xuất từ cuối năm 2002 đưa tổng năng lực sản xuất phân đạm urê trong cả nước lên 2,35 triệu tấn/năm, đạt xấp xỉ nhu cầu của toàn Ngành Nông nghiệp. Về phân supe photphat đơn, chúng ta tiếp tục duy trì công suất các nhà máy hiện tại ở mức 950.000 - 1.000.000 tấn/ năm và dần dần từng bước chuyển từ công nghệ tiếp xúc đơn sang tiếp xúc kép để tăng hiệu suất chuyển hóa SO2 nhằm đảm bảo vấn đề môi trường; tăng cường đầu tư chiều sâu để nâng cao khả năng điều khiển tự động hóa của các dây chuyền sản xuất, sử dụng các loại xúc tác chuyển hóa SO2 có độ bền, độ hoạt hóa cao của các công ty Monsanto hoặc Haldor Topsoe. Về phân lân nung chảy, công suất sản xuất của các nhà máy được nâng dần lên đạt mức 500.000 tấn/năm. Đây là sản phẩm theo công nghệ và thiết bị hoàn toàn của Việt Nam. Chúng ta có đủ năng lực về thiết kế, chế tạo, lắp đặt các thiết bị và chuyển giao công nghệ sản xuất phân lân nung chảy. Về phân phức hợp, trong giai đoạn 2000 - 2005, chúng ta đầu tư xây dựng nhà máy sản xuất DAP tại Hải Phòng, công suất 330.000 tấn/năm. Nhà máy này được đi vào hoạt động từ 4/2009. Vào tháng 3/2009 nhà máy sản xuất phân bón cao cấp DAP số 2 được xây dựng tại khu công nghiệp Tằng Loỏng, có công suất 330.000 tấn/năm (bằng công suất Nhà máy DAP số 1 Ðình Vũ- Hải Phòng). Việc xây dựng nhà máy tại nơi cung cấp nguyên liệu quặng apatít Cam Ðường sẽ giảm chi phí vận tải, chủ động nguồn nguyên liệu, giải quyết việc làm cho khoảng 600 lao động địa phương. Dự kiến nhà máy sẽ đi vào hoạt động từ năm 2012. Hiện nay ở các nước phát triển lượng phân bón hóa học sử dung có xu hướng giảm xuống thay vào đó là các loại phân vi sinh để bảo vệ môi trường. Tuy nhiên thì ở các nước đang phát triển trong đó có Việt Nam, phân vô cơ vẫn được sử dụng khá nhiều nhờ vào ưu thế về chi phí và những hiệu quả nhanh chóng tác động lên cây trồng. Do lượng sử dụng nhiều nên các loại phân chứa các nguyên tố đa lượng chiếm hầu như toàn bộ lượng phân bón sử dụng và cũng được đề cập nhiều nhất khi nói về ngành phân bón. Trong nhóm phân đa lượng, phân đạm có lượng sử dụng cao nhất, kế đến là phân lân, cuối cùng là phân kali. Mặc dù xét về mức độ cần thiết, cây trồng cần nhiều kali hơn đạm hay lân nhưng do trong đât có tương đối nhiều K hơn N và P nên lượng nhu cầu phân kali thấp hơn hai loại còn lại. Tại Việt Nam, trong những năm gần đây, xu thế sử dụng phân bón cũng có khá nhiều thay đổi. Do yêu cầu cần bổ sung đồng bộ các chất dinh dưỡng cho cây nên người nông dân đang chuyển sang sử dụng phân tổng hợp thay cho phân đơn. Vì vậy, phân NPK, SA, DAP đang có xu hướng sử dụng tăng lên còn phân Ure đang có chiều hướng trong cơ cấu phân bón sử dụng của nước ta hằng năm. III. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN 3.1 Tình hình sản xuất phân bón của Việt Nam. 3.1.1 Tình hình sản xuất phân bón trong nước Hằng năm, Việt Nam cần nhập khẩu khoảng 50% nhu cầu, trong đó kali, SA phải nhập khẩu 100%. Sản xuất trong nước chỉ có khả năng đáp ứng các loại: - Phân đạm: do hai nhà máy Đạm Hà Bắc có công suất 180.000 tấn urê/năm. Nhà máy Đạm Phú Mỹ có công suất 740.000 tấn urê/năm. Hiện cả hai nhà máy này có khả năng đáp ứng được một nửa nhu cầu đạm trong nước - Phân Lân: supe lân do 2 đơn vị CTCP Supe Phosphat và hóa chất Lâm Thao công suất 880.000 tấn/năm và nhà máy Supe Phosphat Long Thành công suất 180.000 tấn/năm. Phân lân nung chảy do CTCP Phân lân Ninh Bình công suất 300.000 tấn/năm và CTCP Phân lân nung chảy Văn Điển công suất 300.000 tấn/năm. Năng lực sản xuất phân lân trong nước đã đáp ứng được phần lớn nhu cầu. - Phân NPK phối trộn: số lượng các nhà máy có cung cấp phân NPK trong nước khá nhiều có khả năng cung cấp 4,2 triệu tấn NPK. Về cơ bản, lượng cung trong nước đủ khả năng đáp ứng nhu cầu phân NPK. Hiện nay, một số doanh nghiệp đã xuất khẩu loại phân này sang các thị trường lân cận là Lào, Campuchia, Thái Lan. - Phân DAP: nhà máy sản xuất DAP số 1 ở Hải Phòng công suất 330.000 tấn/năm. Nhà máy sản xuất phân bón cao cấp DAP số 2 Tằng Lỏng-Lào Cai, có công suất 330.000 tấn/năm ( bằng công suất nhà máy DAP số 1 Đình Vũ- Hải Phòng), mới đưa vào hoạt động bảo đảm đáp ứng đủ nhu cầu phân bón DAP trong nước ( mỗi năm khoảng 700.000 tấn), không phải nhập khẩu từ bên ngoài. 3.1.2 Khả năng phát triển nguồn phân bón sản xuất trong nước Phân đạm có thể sản xuất từ hai nguồn nguyên liệu là than đá và khí thiên nhiên. Việt Nam đang có thế mạnh ở cả hai nguồn nguyên liệu này nhờ đó phân urê sản xuất trong nước thường rẻ hơn giá thế giới. Tuy nhiên, nếu so sánh hai nguồn nguyên liệu cho sản xuất phân đạm hiện nay, khí thiên nhiên đang có ưu thế hơn than đá về cả chi phí cũng như nguồn cung. Do chi phí khai thác than đang có xu hướng tăng mạnh nên giá nguyên liệu than vì thế cũng tăng theo. Hơn nữa than đá cũng là nguồn nguyên liệu đầu vào cho sản xuất của ngành điện, xi măng và giấy nên sẽ dẫn đến tình hình cạnh tranh nguyên liệu với những ngành trên cộng thêm thách thức về an ninh năng lượng quốc gia cũng làm hạn chế nguồn cung loại năng lượng này. Phân lân, hai yếu tố đầu vào quan trọng cho sản xuất phân lân trong nước hiện nay là quặng apatit (nguyên liệu) và than cốc (nhiên liệu). Mỏ Apatit Lào Cai là mỏ có trữ lượng quặng Apatit rất lớn và duy nhất tại Việt Nam, cung cấp gần như toàn bộ quặng apatit làm nguyên liệu cho sản xuất phân lân. Trữ lượng lớn tuy nhiên các Công ty sản xuất phân lân thường bị thiếu nguyên liệu do công suất tuyển quặng của đơn vị khai thác cũng như khả năng vận chuyển quặng đến các nhà máy quá yếu. Còn nguồn nhiên liệu than cốc cho sản xuất phân bón trước đây đều phải nhập khẩu nhưng nay đã được thay thế bằng than antraxit nội địa. Nhìn chung, các yếu tố đầu vào cho sản xuất phân lân Việt Nam đều có khả năng cung cấp đủ cho nhu cầu sản xuất. Phân Kali, hiện tại ở Việt Nam không có mỏ khai thác Kali nên nước ta phải nhập khẩu toàn bộ loại phân này. Phân DAP là một loại phân tổng hợp của phân lân và phân đạm. Phân DAP cũng được sản xuất từ quặng apatit. Từ trước đến nay, phân DAP vẫn được nhập khẩu 100%. Hiện nay nước ta đã xây dựng được 2 nhà máy sản xuất phân DAP ở Hải Phòng và Lào Cai bảo đảm đáp ứng đủ nhu cầu phân bón DAP trong nước ( mỗi năm khoảng 700.000 tấn), không phải nhập khẩu từ bên ngoài. Phân NPK cũng là một loại phân tổng hợp của ba loại phân đạm, kali và DAP, do đó sự thiếu hụt nguyên liệu để sản xuất phân NPK sẽ phụ thuộc vào nguồn cung của 3 loại phân trên. Đến nay, với việc xây dựng 2 nhà máy DAP (số 1 ở khu công nghiệp Đình Vũ- Hải Phòng và số 2 ở khu công nghiệp Tằng Loỏng, huyện Bảo Thắng, tỉnh Lào Cai) đã nâng sản lượng phân bón DAP sản xuất trong nước lên 660.000 tấn/năm, đáp ứng cơ bản nhu cầu thị trường về phân bón DAP, góp phần đảm bảo an ninh lương thực quốc gia và sử dụng hiệu quả nguồn tài nguyên có sẵn của Việt Nam. Các khó khăn tồn tại Đánh giá 3.2. Tình hình nhập khẩu phân bón của Việt Nam 3.2.1 Tình hình nhập khẩu phân bón năm 2008 Theo số liệu thống kê, năm 2008 Việt Nam nhập về khoảng 3 triệu tấn phân bón các loại với kim ngạch 1,46 tỷ USD, giảm 17,9% về lượng nhưng lại tăng 32,73% về trị giá so với năm 2007. So với năm 2007, lượng phân bón nhập về từ một số thị trường chính đều giảm như lượng phân bón nhập về từ thị trường Trung Quốc giảm 28,17%; Nhật Bản giảm 26,3%; Belarus giảm 37,37%; Đài Loan giảm 9,65% và Philippines giảm 42,08%. Ngược lại, lượng phân bón nhập về từ một số thị trường khác lại tăng như từ Nga tăng 28,46%, Hàn Quốc tăng 3,78% và Đài Loan tăng 23,52%. Đáng chú ý, lượng phân bón nhập về từ thị trường Indonesia tăng rất mạnh, từ 2,5 ngàn tấn năm 2007 lên 67 ngàn tấn trong năm 2008. Giá nhập khẩu trung bình phân bón năm 2008 đạt 469 USD/tấn, tăng 86,64% so với giá nhập trung bình năm 2007. Trong đó, giá nhập trung bình về từ thị trường Nga tăng tới 203,63% so với giá nhập khẩu trung bình năm 2007, đạt 450 USD/tấn; Hàn Quốc tăng 103%, đạt 518 USD/tấn; Canada tăng 116,82%, đạt 568 USD/tấn; Belarus tăng 135,92% đạt 578 USD/tấn; Trung Quốc tăng 72,95% so với giá nhập ihẩu năm 2007, đạt 474 USD/tấn… Thị trường nhập khẩu phân bón năm 2008 Thị trường Năm 2008 So với năm 2007 Lượng (tấn) Trị giá (USD) % lượng % trị giá Trung Quốc 1.517.100 719.621.549 -28,17 24,23 Nga 340.318 165.323.878 28,46 201,91 Nhật Bản 206.857 56.789.329 -26,30 36,53 Hàn Quốc 146.098 75.809.452 3,78 119,71 Canada 134.981 76.665.786 23,52 152,66 Đài Loan 112.340 35.452.058 -9,65 100,15 Belarus 135.247 71.539.477 -37,37 29,69 Ixraen 82.156 39.597.443 -49,93 -7,88 Philippine 87.500 50.180.324 -42,80 12,61 Indonesia 67.903 13.814.245 2.594,56 3929,27 Ấn Độ 56.452 17.446.508 546,64 679,89 Singapore 55.548 32.899.385 -29,16 50,41 Qata 45.908 24.464.278 818,16 1504,21 Nauy 22.176 17.323.837 563,75 1617,54 Tunisia 20.405 28.021.553 Malaysia 17.353 7.595.790 -57,18 -36,56 Anh 13.598 4.337.792 21146,95 97247,21 Thái Lan 9.412 3.625.952 -33,72 66,95 Mỹ 7.570 870.754 -42,99 -76,07 Bỉ 7.429 4.870.845 -58,57 5,66 Thuỵ Sỹ 7.068 3.290.526 16,38 255,30 Đức 5.555 3.246.545 247,40 528,58 … … … … …. (Nguồn tinthuongmai.vn) 3.2.2 Tình hình nhập khẩu phân bón năm 2009 Theo số liệu thống kê, năm 2009 Việt Nam nhập về trên 4,5 triệu tấn phân bón các loại với kim ngạch đạt 1,4 tỷ USD, so với cùng kỳ năm ngoái mặc dù tăng 48,9% về lượng song lại giảm 4% về trị giá so với năm 2008. Nguyên nhân khiến lượng phân bón nhập về tăng mạnh trong năm vừa qua là do các doanh nghiệp đã tranh thủ gia tăng nhập khẩu khi giá phân bón thế giới giảm mạnh. Theo ước tính, lượng phân bón cung cấp cho thị trường năm 2009 lên tới 9 triệu tấn (bao gồm: 2,38 triệu tấn sản xuất trong nước, 4,5 triệu tấn nhập khẩu và 2 triệu tấn tồn kho của năm 2008). Trong khi đó, nhu cầu tiêu thụ phân bón năm 2009 chỉ vào khoảng từ 8 – 8,5 triệu tấn. Do đó, có thể thấy nguồn cung phân bón cho sản xuất nông nghiệp năm 2009 và những tháng đầu năm 2010 là khá dồi dào. Chính vì nguồn cung dồi dào, nên đã dẫn tới chênh lệch cung cầu trong nước, ảnh hưởng tới giá và đặc biệt là hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp sản xuất trong nước. Vị vậy, ngày 30/10/09 Bộ công thương đã tạm thời bãi bỏ quota xuất khẩu đối với mặt hàng phân bón, cho phép các doanh nghiệp xuất khẩu mặt hàng này. Cơ cấu nhập khẩu: Năm 2009, cơ cấu nhập khẩu phân bón của nước ta đã có sự thay đổi rõ rệt so với năm 2008. Nhập khẩu một số chủng loại như: Urea, DAP, SA, NPK đều tăng mạnh, trong khi đó lượng Kali nhập về lại sụt giảm, cụ thể: Urea là chủng loại được nhập về nhiều nhất trong năm qua, với 1,4 triệu tấn, trị giá 416,7 triệu USD, tăng 2 lần về lượng và tăng 45,51% về trị giá so với năm ngoái. Trung Quốc là thị trường cung cấp Urea chính cho nước ta chiếm gần 50% tỷ trọng Urea nhập về của cả nước, đạt 700 ngàn tấn trị giá 198,6 triệu USD, giá nhập khẩu trung bình đạt 284 USD/tấn, giảm 28,82% so với mức giá nhập trong năm 2008. Đáng chú ý, lượng nhập khẩu Urea từ một số thị trường mới như: Ukraina, Inđônêxia, Nga, UAE, đều đạt mức cao lần lượt là: 176,6 ngàn tấn, 139 ngàn tấn, và 108,4 ngàn tấn, 97,4 ngàn tấn. Nhập khẩu DAP cũng đạt mức tăng trưởng khá ấn tượng, khi tăng tới 2,2 lần về lượng, tuy nhiên do giá nhập khẩu của chủng loại này lại sụt giảm mạnh, tính ra chỉ bằng 43,68% so với giá nhập về năm ngoái (tức là chưa bằng một nửa), đạt trung bình 382 USD/tấn, nên mặc dù tăng mạnh về lượng nhưng kim ngạch nhập khẩu lại giảm nhẹ 1,17%. Chủng loại này được nhập về chủ yếu từ: Trung Quốc, Mỹ, Hàn Quốc… Trong khi lượng nhập khẩu các chủng loại khác đều tăng mạnh, thì nhập khẩu Kali lại sụt giảm đáng kể, cả năm đạt 466,8 ngàn tấn, trị giá 267,4 triệu USD giảm 23,87% về lượng và giảm 25,65% về trị giá so với năm 2008. Trong đó, nhập khẩu từ Ixraen đạt 119,5 ngàn tấn, giá nhập khẩu trung bình 564 USD/tấn; Bêlarút đạt 78,9 ngàn tấn với giá nhập khẩu trung bình 581 USD/tấn; Nga đạt 52 ngàn tấn, giá nhập khẩu trung bình 530 USD/tấn… Chủng loại phân bón nhập khẩu năm 2009 Thị trường Năm 2009 Năm 2009 so với năm 2008 Lượng (tấn) Trị giá (USD) % Lượng % Trị giá Tổng 4.518.932 1.414.920 48,91 -3,92 Phân U rê 1.425.565 416.782 101,67 45,51 Phân NPK 334.615 132.273 96,29 33,65 Phân DAP 980.622 374.332 126,07 -1,27 Phân SA 1.166.365 156.041 61,47 -15,33 Loại khác 481.772 278.824 -51,89 -46,77 (Nguồn tinthuongmai.vn) Về thị trường nhập khẩu: Trong năm 2009, có tất cả 15 thị trường cung cấp phân bón tới Việt Nam. Với lợi thế giá rẻ, lại thuận lợi về mặt địa lý nên Trung Quốc vẫn là nhà cung cấp phân bón hàng đầu của nước ta. Tỷ trọng nhập khẩu phân bón từ Trung Quốc chiếm 51% tổng lượng nhập, bỏ khá xa so với nhà cung cấp lớn thứ hai là Nga với tỷ trọng chiếm 10,26% tổng nhập. Trung Quốc hiện là nhà cung cấp duy nhất có lượng phân bón xuất khẩu tới Việt Nam đạt trên 1 triệu tấn mỗi năm. Trong năm 2009, lượng phân bón nhập khẩu từ Trung Quốc đạt 1, 95 triệu tấn, tăng 29,44% so với năm 2008. Sau Trung Quốc, nhập khẩu phân bón từ các thị trường khác như: Nga, Philippin, Ucraina, Đài Loan, Mỹ, Hàn Quốc…cũng tăng trưởng khá ấn tượng. Trong đó, nhập khẩu từ Hàn Quốc tăng tới 2,1 lần so với năm trước, đạt 355 ngàn tấn. Còn nhập khẩu từ Nga, thị trường cung cấp phân bón lớn thứ 2, trong năm qua cũng tăng khá, tăng 14,10% về lượng lên 394,8 ngàn tấn. Đáng chú ý, nhập khẩu phân bón từ Mỹ và Ucraina tăng rất mạnh, thị trường Mỹ từ 1,1 ngàn tấn của năm ngoái lên 154,7 ngàn tấn, Ucraina từ 1,5 ngàn tấn của năm ngoái lên 189 ngàn tấn. Tuy nhiên, do giá nhập khẩu đứng ở mức thấp nên mặc dù về lượng tăng mạnh, nhưng do giá phân bón giảm mạnh nên kim ngạch nhập khẩu từ hầu hết các thị trường đều giảm: Trung Quốc giảm 17,21%, Nga giảm 29,45%, Hàn Quốc: 7,76%… Nhập khẩu từ Philippin và Ấn Độ cũng có sự tăng trưởng đáng ghi nhận, trong đó, nhập khẩu từ Ấn Độ tăng từ 17,4 ngàn tấn lên 40,7 ngàn tấn tăng 2,3 lần, nhập khẩu từ Philippin từ mức 80,52 ngàn tấn trong năm 2008, tăng gấp 2,7 lần lên 294 ngàn tấn. Kim ngạch nhập khẩu từ Philippin và Ấn Độ cũng tăng khá lần lượt 152,6%, và 86,22 %. Trong khi đó, nhập khẩu phân bón từ một số thị trường lại giảm mạnh so với năm 2008, như: Nhật Bản, Canada, Nauy, Bỉ, Malaixia.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docTìm hiểu tình hình sản xuất và nhập khẩu phân bón của Việt Nam.doc
Tài liệu liên quan