Tiểu luận Tình hình nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài ở Việt Nam hiện nay và hướng hoàn thiện

Thời gian qua trên phạm vi cả nước có 69 Văn phòng con nuôi nước ngoài được cấp phép hoạt động, trong đó 42 văn phòng của Hoa Kỳ. Do pháp luật các nước quy định khác nhau về quyền và nghĩa vụ của tổ chức con nuôi nước ngoài, nhất là về nguyên tắc hoạt động, nên các tổ chức con nuôi nước ngoài đến VN hoạt động cũng với các phương thức khác nhau,

Việc cho phép tổ chức con nuôi vào VN hoạt động là do Cơ quan trung ương nước ngoài hữu quan cấp phép. Nhưng nhiều tổ chức con nuôi sang VN mang tính tự phát, không có sự kiểm soát và giới thiệu của một cơ quan trung ương ở cấp liên bang. Và dẫn đến, số đông các tổ chức con nuôi vào VN hoạt động, tạo ra sự cạnh tranh với các tổ chức con nuôi của các nước khác và làm cho tình hình giải quyết việc NCN ngày càng trở nên phức tạp hơn, khó kiểm soát.

 

doc11 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 5114 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tiểu luận Tình hình nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài ở Việt Nam hiện nay và hướng hoàn thiện, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Quốc năm 1986 về các nguyên tắc xã hội và pháp lí liên quan đến việc bảo vệ và phúc lợi trẻ em, đặc biệt là việc thu xếp NCN ở trong và ngoài nước. Tiếp đến là Công Ước của Liên Hợp quốc về quyền trẻ em 1989, và Công ước Lahay số 33 về bảo vệ trẻ em và hợp tác trong lĩnh vực nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài. 3. Nguyên tắc giải quyết việc NCN có yếu tố nước ngoài Với chế độ chính trị, kinh tế, xã hội, phong tục, tập quán khác nhau thì pháp luật của mỗi nước là khác nhau. Cho nên, cùng điều chỉnh một vấn đề thì pháp luật áp dụng của mỗi nước khác nhau dẫn đến vấn đề XĐPL giữa các nước Theo pháp luật của các nước để giải quyết XĐPL NCN có yếu tố nước ngoài thì đa số các nước thường áp dụng nguyên tắc luật nhân thân của người NCN và người được nhận làm con nuôi Theo pháp luật VN, vấn đề giải quyết NCN có yếu tố nước ngoài đã quy định khá cụ thể ở trong NĐ 68/2002 NĐ- CP và ở NĐ 69/2006, thông tư 08/2006 và một số các văn bản hướng dẫn có liên quan khác. Ở đó đã quy định về các điều kiện để cho và nhận NCN có yếu tố nước ngoài ( điều 35 NĐ 69), bao gồm các điều kiện trẻ em được nhận làm con nuôi, điều kiện đối với người xin nhận con nuôi, trình tự, thủ tục giải quyết vấn đề cho nhận con nuôi quốc tế… II. Tình hình NCN có yếu tố nước ngoài hiện nay của Việt Nam NCN có yếu tố nước ngoài là hiện tượng phổ biến ở nước ta trong những năm gần đây và chúng ta đã đạt được những thành tựu đáng kể, bên cạnh đó còn có những hạn chế nhất định. Cụ thể như sau: 1, Những thành tựu đạt được. 1.1. Về khung pháp luật quốc gia: Chúng ta đã tạo được khung pháp lí khá dầy đủ quy định về vấn đề về NCN có yếu tố nước ngoài. Đối với nước ta, hệ thống các quy phạm về NCN có yếu tố nước ngoài được ban hành mới hoặc sửa đổi bổ sung đã hình thành nên một chế định pháp lí tương đối đầy đủ và chi tiết. NĐ 68/2002/NĐ-CP là VBPL quan trọng đánh dấu sự thay đổi lớn về cơ chế giải quyết vấn đề NCN có yếu tố nước ngoài là bước phát triển quan trọng so với NĐ 184/1994 trong việc cải cách cơ chế, quy trình, thủ tục, hồ sơ giấy tờ giải quyết cho trẻ em làm con nuôi người nước ngoài theo hướng minh bạch hơn, rõ ràng và cụ thể hơn, Trình tự, thủ tục giải quyết cho trẻ em VN làm con nuôi người nước ngoài theo Nghị định 68 bước đầu đã tiếp cận với cơ chế quốc tế trong lĩnh vực này, góp phần để các cơ quan nhà nước kiểm soát chặt chẽ hơn việc cho trẻ em làm con nuôi ở nước ngoài. Nghị định 69/2006 và thông tư 08/2006 hướng dẫn thực hiện các quy định về NCN có yếu tố nước ngoài nhằm mục đích cải thiện môi trường pháp lý theo hướng chặt chẽ và minh bạch, ngày càng gần hơn với những thông lệ quốc tế quy định tại công ước La Hay về bảo vệ trẻ em và hợp tác về NCN quốc tế. 1.2. Việt Nam đã kí kết nhiều hợp định hợp tác về NCN với các nước và tạo ra nhiều mái ấm gia đình cho các trẻ em, và cải thiện đời sống của nhiều trẻ em tại cơ sở nuôi dưỡng. * Các hiệp định hợp tác về NCN của nước ta với các nước: Đến nay VN đã kí được 16 hiệp định hợp tác con nuôi với các nước và vùng lãnh thổ bao gồm: Pháp ( 01/02/ 2000), Đan Mạch (26/5/2003), Italia (13/6/2003), Ailen ( 23/09/2003, hết hạn vào 01/05/2009), Cộng đồng nói tiếng Pháp Vương quốc Bỉ (2005), Cộng đồng nói tiếng Đức Vương quốc Bỉ (2005), Cộng đồng nói tiếng Hà Lan Vương quốc Bỉ (2005), 3 hiệp định với Bỉ chưa có hiệu lực vì phía Bỉ chưa phê chuẩn ), Mĩ (21/06/ 2005, hết hạn vào 01,09/2008), Canada (27/06/2005), Bang Quebec_Canada (15/09/2007), Thụy sĩ (20/12/2005), Ontario_Canada (03/04/2006), Bristish Columbia_Canada (15/9/2007), Alberta_Canada (09/06/2008). Các hiệp định này là cơ sở quan trọng trong việc giải quyết NCN giữa công dân các nước kí kết. Qua các hiệp định này đã cho thấy cơ chế phối hợp giữa các cơ quan có thẩm quyền của VN với các cơ quan tổ chức nước ngoài trong quá trình thực hiện Hiệp định hợp tác về NCN cũng được cải tiến đáng kể, đặc biệt là với các Đại sứ quán, lãnh sự quán và cơ quan quản lý nhập cư của các nước, đã tạo điều kiện để nước ta thực hiện được đầy đủ các cam kết theo Hiệp định. Định kỳ hàng năm hoặc 2 năm Nhóm hỗn hợp gồm chuyên gia của nước ta và các nước ký kết Hiệp định nhóm họp để kiểm điểm tình hình thực hiện Hiệp định, cùng nhau bàn bạc để tháo gỡ các khó khăn và vướng mắc, nhằm đảm bảo thực thi nghiêm chỉnh các Hiệp định, tăng cường hợp tác NCN với các nước. * Tìm được các mái ấm gia đình cho các trẻ em: Từ năm 2003 - 2008 chúng ta đã có trên 6.000 trẻ em tìm được mái ấm gia đình thay thế, theo cơ chế kiểm soát chặt chẽ giữa VN và nước nhận thông qua các Hiệp định hợp tác về NCN đã được ký kết. Đây là việc làm nhân đạo để tăng cường hơn nữa sự hợp tác hữu nghị giữa VN với các nước, thiết lập nên mối quan hệ thân thiện với các dân tộc trên thế giới và góp phần quan trọng thực hiện chính sách của Đảng về đại đoàn kết dân tộc đối với người VN định cư ở nước ngoài. Qua các báo cáo về tình hình phát triển của trẻ em được cho làm con nuôi ở nước ngoài và kết quả khảo sát nhiều nước nhận trẻ em VN làm con nuôi, con nuôi VN hội nhập nhanh với môi trường nước nhận, được chăm sóc chu đáo, nhiều em phát triển được tài năng của mình, các gia đình cha mẹ nuôi luôn ý thức hướng cho trẻ em tìm hiểu về cội nguồn quê hương đất nước, nơi trẻ em sinh ra như cho các em học tiếng Việt... Và trong thời gian qua cũng có nhiều trẻ em khuyết tật, tàn tật, bị bệnh hiểm nghèo, được các tổ chức con nuôi đưa ra nước ngoài chữa trị và sau đó được giải quyết cho làm con nuôi (thông qua thủ tục tại Đại sứ quán VN tại nước sở tại). Điều đó không những đã góp phần giảm bớt chi phí, thời gian cho đương sự, mà còn thể hiện sự cải cách đáng kể các thủ tục hành chính trong lĩnh vực này * Cải thiện đời sống của trẻ em tại nhiều cơ sở nuôi dưỡng. Theo thông báo của các địa phương, hiện cả nước có 91/378 cơ sở nuôi dưỡng có quyền cho trẻ em làm con nuôi ở nước ngoài. Đây là những cơ sở nuôi dưỡng được thành lập hợp pháp, chủ yếu do Sở LĐTBXH quản lý, là nơi tiếp nhận các dự án hỗ trợ nhân đạo từ các tổ chức con nuôi nước ngoài. Qua báo cáo của các địa phương và các Văn phòng con nuôi nước ngoài tại VN cho thấy, việc thực hiện các dự án hỗ trợ nhân đạo từ hoạt động hợp tác NCN quốc tế đã tạo điều kiện cho nhiều cơ sở nuôi dưỡng, sau một thời gian đã trở nên khang trang hơn; điều kiện chăm sóc trẻ em tốt hơn do nhận được nguồn hỗ trợ nhân đạo từ các tổ chức con nuôi nước ngoài hoạt động tại địa bàn. Mức hỗ trợ nuôi dưỡng trẻ em nhiều nơi đạt khoảng 1 triệu /1 trẻ/tháng. Ngoài ra, nhiều trẻ em tại các cơ sở nuôi dưỡng và ngoài cộng đồng còn được khám chữa bệnh miễn phí do có sự hỗ trợ từ các tổ chức con nuôi và các tổ chức nhân đạo nước ngoài khác, được cung cấp thuốc chữa bệnh. Nhiều trẻ tàn tật được cung cấp xe lăn, các dụng cụ thiết yếu cho trẻ tàn tật, trẻ bị bệnh tim được can thiệp kịp thời, chăm sóc tốt. Theo báo cáo chưa đầy đủ, từ 2003 - 6/2008, tổng số 69 Văn phòng con nuôi nước ngoài đã hỗ trợ nhân đạo (bằng tiền và vật chất) cho gần 100 cơ sở nuôi dưỡng khoảng 160 tỷ đồng, trong đó riêng năm 2007 đạt gần 60 tỷ đồng (1) 1.3. Trình tự, thủ tục giải quyết cho trẻ em làm con nuôi người nước ngoài được nhanh chóng và thuận tiện hơn. Theo NĐ 68/2002/ thì thủ tục trình tự giải quyết việc NCN quốc tế được cải tiến một bước đáng kể so với NĐ 184/1994. Thời hạn giải quyết việc NCN quốc tế được rút còn 4 tháng; thời gian xử lý ở từng khâu của các cơ quan liên quan được quy định rõ ràng, hợp lý hơn, ngắn hơn; các giấy tờ được thiết kế theo mẫu dễ dàng cho việc thực hiện. Trách nhiệm của các cơ quan nhà nước (Cục Con nuôi, STP, Công an tỉnh, Văn phòng UBNDT, Cơ sở nuôi dưỡng) được quy định cụ thể hơn, rõ ràng hơn ở từng khâu liên quan trong toàn bộ quá trình xử lý hồ sơ của người xin con nuôi và hồ sơ của trẻ em. * Về phía Cục Con nuôi, Cục đã phân công, theo dõi và đôn đốc việc thực hiện của các chuyên viên trong Cục, đồng thời cũng đôn đốc các cơ quan hữu quan khác ở trung ương và địa phương đảm bảo thời hạn giải quyết. Các giấy tờ trong hồ sơ của người xin con nuôi được kiểm tra, xem xét kỹ theo quy định pháp luật của nước nhận và Hiệp định. Các giấy tờ trong hồ sơ của trẻ em cũng được kiểm tra trên cơ sở quy định của PLVN. Bất kỳ một nghi vấn nào trong hồ sơ đều được xem xét và yêu cầu địa phương giải trình. * Ở địa phương, đại đa số các STP đã có bộ phận chuyên trách xử lý về hồ sơ con nuôi quốc tế, cán bộ tư pháp và cơ sở nuôi dưỡng trẻ em tại địa phương hàng năm đều được Cục Con nuôi tập huấn về nghiệp vụ. Việc cấp hộ chiếu cho trẻ em xuất cảnh VN đã được cải tiến một bước, trước đây việc giải quyết việc cấp hộ chiếu là trong thời hạn 20 ngày, thì giờ rút xuống còn 05 ngày. Cục Con nuôi đã phối hợp chặt chẽ với A.18 BCA để hướng dẫn cho đương sự về thủ tục xin cấp hộ chiếu cho trẻ em sau khi được giải quyết cho làm con nuôi, đảm bảo rút ngắn thời hạn cấp hộ chiếu để tạo thuận lợi cho trẻ em xuất cảnh. Kể cả việc cấp thị thực “nóng” tại cửa khẩu cho một số cha mẹ nuôi người nước ngoài vì lý do đột xuất cũng đã được quan tâm hơn. Thời hạn cha mẹ nuôi đến VN để làm lễ giao nhận con nuôi và làm các thủ tục khác để đưa con nuôi về nước cũng được rút ngắn đáng kể (khoảng trên dưới 03 tuần), phù hợp với thời gian nghỉ phép của họ. Đây là điều kiện thuận lợi để cha mẹ nuôi có thể thu xếp công việc đến VN mà không ảnh hưởng lớn đến công việc làm ăn ở nước ngoài. 1.4. Vấn đề NCN có yếu tố nước ngoài đã được tăng cường kiểm tra, thanh tra. Hàng năm, BTP đều phối hợp cùng các cơ quan khác ở trung ương như BCA, Bộ LĐTBXH, tiến hành kiểm tra tình hình NCN quốc tế ở các địa phương. Nội dung các cuộc kiểm tra khá toàn diện, đặc biệt về việc xác minh nguồn gốc trẻ em; việc bảo đảm các thủ tục, hồ sơ, giấy tờ nhất là những giấy tờ liên quan đến việc tiếp nhận trẻ em vào cơ sở nuôi dưỡng; việc sử dụng các khoản hỗ trợ nhân đạo. Ngoài ra, BTP cũng yêu cầu các địa phương hàng năm tự tiến hành kiểm tra, xác minh làm rõ các vướng mắc, bất cập, vi phạm để báo cáo về Bộ xử lý. Bên cạnh đó thì BTP có kế hoạch kiểm tra định kỳ các Văn phòng con nuôi nước ngoài trên phạm vi cả nước. Hoạt động kiểm tra, thanh tra đã góp phần đáng kể trong công tác quản lý, nhất là việc xử lý, ngăn ngừa các vi phạm trong lĩnh vực giải quyết các vụ việc về NCN quốc tế trong thời gian qua. 1.5. Hoạt động hợp tác quốc tế về NCN ngày càng được mở rộng Với tư cách là Cơ quan trung ương theo các Hiệp định hợp tác về NCN quốc tế, Cục Con nuôi - BTP thường xuyên trao đổi thông tin và phối hợp hoạt động với Cơ quan trung ương về con nuôi quốc tế của các nước ký kết và các nước hữu quan khác, kịp thời tháo gỡ các khó khăn, vướng mắc để triển khai thực hiện tốt các quy định của Hiệp định và xử lý các vụ việc liên quan đến NCN có yếu tố nước ngoài. Việc trao đổi với các Đại sứ quán, Lãnh sự quán tại VN của các nước ký kết Hiệp định về các vấn đề NCN cũng được duy trì thường xuyên, kịp thời phối hợp xử lý các vấn đề tác nghiệp liên quan đến hồ sơ NCN và các thủ tục, trình tự liên quan đến việc giải quyết NCN. Trong thời gian qua, Cục Con nuôi – BTP đã tổ chức 3 cuộc đối thoại trực tiếp tại HN với các nhân viên lãnh sự của các nước ký kết để trao đổi về các vấn đề mà phía nước ngoài đặt ra nhằm tháo gỡ các vướng mắc trong quá trình giải quyết các vấn đề phát sinh trong lĩnh vực NCN quốc tế. 2, Những hạn chế. Bên cạnh những kết quả đã đạt được như nêu trên, hiện nay tình hình thực hiện pháp luật về NCN có yếu tố nước ngoài cũng còn nhiều hạn chế, bất cập, cụ thể như sau: 2.1. Sự nhận thức chưa đúng về vấn đề NCN có yếu tố nước ngoài. Mặc dù việc cho trẻ em làm con nuôi người nước ngoài đã tiến hành gần 20 năm nay, song trong một số cơ quan nhà nước, kể cả ở Trung ương và địa phương còn có sự nhận thức chưa đúng NCN quốc tế nói riêng; thậm chí còn mơ hồ về tính nhân đạo, nhân văn của lĩnh vực con nuôi quốc tế, cũng như về các vấn đề pháp lý có liên quan. 2.2. Chưa bảo đảm ưu tiên việc NCN trong nước trước khi cho trẻ em làm con nuôi ở nước ngoài Việc cho NCN ở nước ngoài chỉ được coi là biện pháp thay thế cuối cùng khi không thể tìm được mái ấm cho trẻ em ở trong nước. Đây là một yêu cầu quan trọng của Công ước Lahay về bảo vệ trẻ em và hợp tác NCN quốc tế mà VN đang chuẩn bị ký. Nhưng hiện nay, yêu cầu này chưa được bảo đảm thực thi nghiêm túc ở nước ta, do còn thiếu các biện pháp kiên quyết và hữu hiệu. Theo Nghị định 68/2002, trước khi giải quyết cho làm con nuôi người nước ngoài, cơ sở nuôi dưỡng có trách nhiệm thông báo 30 ngày trên phương tiện thông tin đại chúng cấp tỉnh về việc tìm mái ấm gia đình trong nước cho trẻ em. Nhưng trên thực tế, nhiều nơi chỉ làm một cách hình thức, chiếu lệ, thậm chí có nơi chỉ nộp giấy xác nhận đã thông báo trên đài phát thanh hoặc trên vô tuyến truyền hình, còn thực tế có thông báo hay không, lại không có sự kiểm tra. Như vậy, có thể nói, bản thân PL hiện hành của nước ta về lĩnh vực này cũng chưa có các quy định nhằm bảo đảm ưu tiên việc NCN trong nước đối với trẻ em, cho nên các CQNN, các cơ sở nuôi dưỡng trẻ em cũng chưa thực sự quan tâm đến việc này, mà chỉ chú ý vào việc cho trẻ em làm con nuôi ở nước ngoài. 2.3 Về việc quản lý thông tin của trẻ khi đã được giao làm con nuôi nước ngoài: Mặc dù tại K2 Đ47 NĐ 69/2006 quy định người xin nhận con nuôi phải làm bản cam kết về việc định kỳ 06 tháng một lần thông báo cho UBND cấp tỉnh và cơ quan con nuôi quốc tế về tình hình phát triển của con nuôi trong 3 năm đầu tiên, sau đó mỗi năm tiếp theo thông báo một lần cho đến khi con nuôi đủ 18 Tuổi, nhưng trong thực tế việc thực hiện cam kết chủ yếu dựa vào sự tự nguyện của cha mẹ mà chưa có các chế tài cụ thể đối với những trường hợp vi phạm cam kết. Quy định thiếu chặt chẽ trong vấn đề này dễ gây ra tình trạng nới lỏng kiểm soát việc trẻ có được chăm sóc và nuôi dưỡng phù hợp với mục đích nhân đạo hay không. 2.4. Chưa quản lý chặt chẽ các hoạt động của Văn phòng con nuôi nước ngoài tại Việt Nam Thời gian qua trên phạm vi cả nước có 69 Văn phòng con nuôi nước ngoài được cấp phép hoạt động, trong đó 42 văn phòng của Hoa Kỳ. Do pháp luật các nước quy định khác nhau về quyền và nghĩa vụ của tổ chức con nuôi nước ngoài, nhất là về nguyên tắc hoạt động, nên các tổ chức con nuôi nước ngoài đến VN hoạt động cũng với các phương thức khác nhau, Việc cho phép tổ chức con nuôi vào VN hoạt động là do Cơ quan trung ương nước ngoài hữu quan cấp phép. Nhưng nhiều tổ chức con nuôi sang VN mang tính tự phát, không có sự kiểm soát và giới thiệu của một cơ quan trung ương ở cấp liên bang. Và dẫn đến, số đông các tổ chức con nuôi vào VN hoạt động, tạo ra sự cạnh tranh với các tổ chức con nuôi của các nước khác và làm cho tình hình giải quyết việc NCN ngày càng trở nên phức tạp hơn, khó kiểm soát. 2.5. Thủ tục, trình tự giải quyết việc NCN còn bất cập + Về thủ tục giới thiệu trẻ em làm con nuôi: Việc quản lý các dữ liệu về trẻ em có đủ điều kiện để giới thiệu làm con nuôi hiện nay là do cơ sở nuôi dưỡng trực tiếp thực hiện. Theo yêu cầu của PLHH, các cơ sở nuôi dưỡng này vẫn phải gửi danh sách trẻ em có đủ điều kiện làm con nuôi người nước ngoài về BTP. Nhưng trên thực tế, chỉ là sự cung cấp danh sách về số lượng và họ tên của trẻ em chưa kèm theo hồ sơ đầy đủ để bảo đảm trẻ em đã có đủ điều kiện để cho làm con nuôi. Đây chỉ là hình thức để thông báo, bởi thực chất, Cơ quan Trung ương không thực hiện việc giới thiệu trẻ em làm con nuôi, mà các cơ sở nuôi dưỡng đã phối hợp với các tổ chức con nuôi nước ngoài giới thiệu trẻ em cho các gia đình xin nhận con nuôi. Quyền giới thiệu trẻ em nào là do cơ sở nuôi dưỡng quyết định. + Việc kiểm tra hồ sơ của trẻ em được giới thiệu làm con nuôi cũng chỉ được thực hiện có tính hình thức. Dù có nhiều địa phương đã giao toàn bộ trách nhiệm chuẩn bị hồ sơ trẻ em cho cơ sở nuôi dưỡng và chuyển cho STP kiểm tra, nhưng STP cũng chỉ kiểm tra về hình thức, chiếu lệ rồi làm công văn gửi Cục Con nuôi. Để bảo đảm an toàn về hồ sơ của trẻ em, nhiều địa phương đã chuyển tất cả hồ sơ của trẻ em cho cơ quan Công an tỉnh xác minh, cho ý kiến. Nhưng đại đa số các trường hợp, CQCA cũng chỉ cho ý kiến dưới góc độ an ninh, chưa chú ý đến việc xác minh làm rõ về nguồn gốc thực tế của trẻ em. Sau khi có ý kiến của CQCA, thì Sở STP chuyển hồ sơ cho Cục Con nuôi. Do quy định “cắt khúc” về trách nhiệm của các cơ quan như vậy, cho nên nếu có sai sót về hồ sơ của trẻ em, thì không cơ quan nào chịu trách nhiệm hoàn toàn, mà đều có sự liên đới. 2.6. Thiếu sự đồng bộ trong cơ chế phối hợp giữa các cơ quan liên quan Sự phối hợp giữa các cơ quan thuộc chính quyền địa phương cũng còn hạn chế. Thậm chí có nơi chính quyền địa phương còn thông đồng với những người trung gian, môi giới trong việc thu gom trẻ em, làm sai lệch hồ sơ của trẻ em để trục lợi. Ở các cơ quan cấp tỉnh, nhiều nơi chưa ban hành quy chế phối hợp giữa các CQTP, CA, LĐTBXH, hoặc tuy có ban hành, nhưng thực tế chỉ mang tính hình thức. Mối quan hệ giữa STP và SLĐTBXH ở một số tỉnh còn chưa chặt chẽ, công tác quản lý của cơ quan cấp tỉnh ở một số địa phương đối với các cơ sở nuôi dưỡng trẻ em cấp huyện, do cấp huyện thành lập, cũng còn nhiều sơ hở. Ở cấp trung ương còn thiếu sự hợp tác thường xuyên và chặt chẽ giữa BTP và Bộ LĐTBXH trong việc chỉ đạo các vấn đề liên quan đến chức năng của cả hai bộ trong lĩnh vực con nuôi quốc tế 2.7. Còn thiếu sự minh bạch trong việc tiếp nhận và sử dụng các khoản hỗ trợ nhân đạo của tổ chức, cá nhân nước ngoài Yêu cầu về sự minh bạch tài chính liên quan đến việc tiếp nhận và sử dụng các khoản hỗ trợ nhân đạo của tổ chức con nuôi nước ngoài cho cơ sở nuôi dưỡng luôn được các quốc gia đặt ra. Trên thực tế ở nước ta, các khoản hỗ trợ nhân đạo phần lớn là do cơ sở nuôi dưỡng tiếp nhận và quản lý. Cơ sở nuôi dưỡng sử dụng các khoản hỗ trợ nhân đạo này và có trách nhiệm báo cáo cơ quan có thẩm quyền của địa phương theo quy định. Nhưng qua kiểm tra tại một số địa phương cho thấy, cơ chế tiếp nhận, quản lý và sử dụng các khoản hỗ trợ nhân đạo này khá lỏng lẻo. Phần lớn các khoản hỗ trợ này được thực hiện bằng tiền mặt, chỉ một số ít các tổ chức thực hiện bằng chuyển khoản. Các báo cáo của cơ sở nuôi dưỡng về việc sử dụng các khoản hỗ trợ nhân đạo này chưa đầy đủ và chính xác. Công tác quản lý các tổ chức con nuôi nước ngoài trong công tác hỗ trợ nhân đạo cũng còn nhiều hạn chế. 2.8. Làm sai lệch nguồn gốc trẻ em Hiện nay, một số địa phương đã làm sai lệch nguồn gốc của trẻ em để cho làm con nuôi. Việc làm sai lệch nguồn gốc trẻ em, đã làm ảnh hưởng đến tính trung thực, minh bạch trong hồ sơ giấy tờ và có thể dẫn đến sự vi phạm các quyền của trẻ em, nhất là trẻ sơ sinh. Do sự buông lỏng quản lý ở các cơ sở nuôi dưỡng, chạy theo lợi ích vật chất kinh tế trong việc giới thiệu trẻ em làm con nuôi, thậm chí có sự cấu kết giữa cơ sở nuôi dưỡng và những kẻ môi giới bất hợp pháp bên ngoài để đưa trẻ em từ các nơi khác về cơ sở nuôi dưỡng và hợp thức hoá bằng hồ sơ trẻ em bị bỏ rơi để cho làm con nuôi người nước ngoài. Mặc dù Điều 32 của NĐ 76/2006có quy định xử phạt VPHC trong lĩnh vực tư pháp nhưng nhìn chung, thủ tục phát hiện, xem xét để xử lý các vi phạm hành chính về lập hồ sơ cho trẻ em, làm giả giấy tờ, tài liệu nhằm mục đích trục lợi còn chưa có tính khả thi. 2.9, Vấn đề công dân VN nhận trẻ em nước ngoài làm con nuôi. Thực tiễn cho thấy, rất ít trường hợp công dân VN nhận trẻ em nước ngoài làm con nuôi. Tuy nhiên thì NCN ở khu vực biên giới là vấn đề khá nhạy cảm. Ở khu vực biên giới thì công dân VN tự nhận trẻ em của nước láng giềng TQ đem về nuôi dưỡng theo kiểu “trao tay” mà không có bất cứ giấy tờ gì, không đăng ký việc NCN tại VN cũng như tại nước ngoài. Những người này đang yêu cầu được “hợp thức hóa” việc nuôi con nuôi của mình. Vấn đề này PLVN hiện hành chưa có quy định. III, Hướng hoàn thiện: Nói chung tình hình thực hiện pháp luật về NCN quốc tế, chúng ta đã thu được nhiều kết quả, song cũng còn nhiều khiếm khuyết, tồn tại. Do đó, để khắc phục những vấn đề đó, đồng thời bảo đảm tốt hơn nữa quyền của trẻ em được cho làm con nuôi, cũng như chuẩn bị tích cực cho việc tham gia Công ước Lahay về bảo vệ trẻ em và hợp tác NCNQT thì cần phải thực hiện các giải pháp sau: 1. Ban hành luật NCN. Việc sớm ban hành một đạo luật riêng đó là Luật NCN để khắc phục những bất cập tồn tại trong quá trình thực thi NĐ 68/CP là một sự cần thiết. Luật NCN sẽ tạo ra một khuôn khổ pháp lý thống nhất, ổn định, có giá trị lâu dài, thông suốt giữa NCN trong nước và NCN có yếu tố nước ngoài, nâng cao hiệu quả áp dụng của những quy định liên quan đến một số thủ tục giải quyết NCN, tạo ra cơ chế phối hợp, kiểm tra, giám sát việc NCN của các cơ quan nhà nước có thẩm quyền trong lĩnh vực này, tạo sự thu hút sự quan tâm, ủng hộ và giúp đỡ của toàn xã hội, nâng cao trách nhiệm của các ngành, các cấp, cơ quan và tổ chức và xã hội trong bảo đảm quyền của trẻ em. Dự thảo Luật đã được xây dựng và dự kiến trình Quốc hội thông qua vào tháng 10/2010. Dự thảo Luật gồm 6 chương, 57 điều. 2. Cần đẩy mạnh công tác tuyên truyền, phổ biến pháp luật và nâng cao nhận thức của người dân cũng như cán bộ công chức trong các cơ quan liên quan đến việc giải quyết vấn đề con nuôi có yếu tố nước ngoài về sự cần thiết, ý nghĩa nhân đạo của việc NCN, Hỗ trợ các trung tâm về kiến thức pháp lý, về quản lý nuôi dưỡng, lập hồ sơ theo dõi, hồ sơ giới thiệu làm con nuôi. 3. Cần tạo ra sự gắn kết liên thông giữa NCN trong nước và NCN quốc tế. Việc cho trẻ em làm con nuôi ở nước ngoài chỉ được coi là giải pháp thay thế cuối cùng, khi không thể tìm được mái ấm gia đình trong nước cho trẻ em. Do vậy, Bộ LĐTBXH cần có sự chỉ đạo đối với tất cả các UBNDT để rà soát lại tất cả các cơ sở nuôi dưỡng trẻ em trên toàn quốc, bảo đảm các cơ sở nuôi dưỡng phải có đủ các điều kiện để tiếp nhận, chăm sóc và nuôi dưỡng trẻ em theo quy định của pháp luật. Đồng thời, kiên quyết đóng cửa các cơ sở nuôi dưỡng không đủ điều kiện, hoặc chỉ thành lập ra để nhằm mục đích “thu gom” trẻ em cho làm con nuôi người nước ngoài. 4. Hoàn thiện cơ chế minh bạch về các vấn đề tài chính có liên quan đến NCN quốc tế. Cần hoàn thiện các quy định về phí, lệ phí giải quyết việc NCN trên cơ sở phù hợp với yêu cầu đòi hỏi của Công ước Lahay về NCN mà VN chuẩn bị tham gia. Nên tách bạch hai hoạt động hỗ trợ nhân đạo và giải quyết việc NCN thành hai hoạt động biệt lập, có như vậy mới có thể kiểm tra, giám sát tốt việc thực hiện pháp luật về NCN, cũng như theo dõi, kiểm tra việc sử dụng đúng pháp luật các khoản thu từ phí, lệ phí giải quyết việc NCN trong phạm vi cả nước. 5. Cần xây dựng cơ sở dữ liệu bằng công nghệ thông tin để theo dõi, chăm sóc, nuôi dưỡng đối với trẻ đã được cho làm con nuôi có yếu tố nước ngoài. Việc xây dựng dữ liệu bằng công nghệ thông tin sẽ theo dõi tình hình phát triển của trẻ một cách hiệu quả, rà soát, kiểm tra các gia đình nhận con nuôi có thực hiện theo đúng cam kết cũng như bảo đảm việc chăm sóc và nuôi dưỡng trẻ hay không, đồng thời sẽ hỗ trợ cho các cơ quan chức năng quản lý việc nuôi con nuôi kịp thời bảo vệ quyền lợi của trẻ được cho làm con nuôi. 5. Tăng cường cơ chế phối hợp giữa các cơ quan nhà nước, Tăng cường sự phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan nhà nước ở Trung ương và địa phương để bảo đảm việc giải quyết cho trẻ em làm con nuôi ngoài nước một cách chặt chẽ, đúng pháp luật luôn là sụ cần thiết. Đó là sự phối hợp giữa các bộ, ban, ngành ở Trung ương từ công tác hoạch định và thực thi chính sách, pháp luật về NCN, đến việc xử lý từng vụ việc cụ thể. Đồng thời, cũng cần có văn bản quy định rõ trách nhiệm của các bộ, ngành liên quan, tăng cường sự phối hợp chặt chẽ giữa các ngành từ Trung ương tới địa phương trong việc giải quyết vấn đề nuôi con nuôi, đặc biệt là sự phối hợp giữa các ngành Tư pháp với ngành LĐTBXH 6. Tăng cường công tác kiểm tra, thanh tra nhằm phát hiện, ngăn chặn kịp thời những hành vi vi phạm pháp luật trong lĩnh vực NCN có yếu tố nước ngoài đối với các cơ sở nuôi dưỡng trong nước cũng như hoạt động của các Văn phòng NCN nước ngoài tại VN đặc biệt là vấn đề tài chính. Công tác thanh tra, kiểm tra cần được tiến hành thường xuyên, định kỳ và có trọng tâm, trọng điểm, tránh hình thức, đối phó. Nội dung thanh tra, kiểm tra cần tập trung vào việc tuân thủ các quy định pháp luật khi lập hồ sơ cho trẻ em (từ khi được tiếp nhận vào cơ sở nuôi dưỡng đến khi được giới thiệu làm con nuôi); hoạt động nhân đạo, phi lợi nhuận của các tổ chức con nuôi nước ngoài tại VN 7. Thành lập Hội đồng tư vấn giới thiệu trẻ em làm con nuôi. Pháp luật hiện hành quy định thẩm quyền giới thiệu cho trẻ em làm con nuôi người nước ngoài thuộc về các cơ sở nuôi dưỡng trẻ em, nhưng nếu đế các cơ sở nuôi dưỡng vừa có thẩm quyền tiếp nhận trẻ em, vừa tiếp nhận hỗ trợ nhận đạo và vừa có thẩm quyền giới thiệu trẻ em cho làm con nuôi khôn tránh khỏi phát sinh tiêu cực, thậm chí có sự “móc ngoặc” giữa cơ sở nuôi dưỡng và tổ chức con nuôi nước ngoài trong việc thoả thuận hỗ trợ nhận đạo để tìm trẻ em cho người xin nhận con nuôi. Cho nên, thiết nghĩ, việc quy định Hội đồng tư vấn giới thiệu trẻ em là phù hợp. Bởi thực tế trẻ em được chăm sóc, nuôi dưỡng tại địa phương, hồ sơ giấy tờ liên quan đến nhân thân nguồn gốc của trẻ em phải do các cơ qu

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docTình hình nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài ở Việt Nam hiện Nay - Hướng hoàn thiện.doc
Tài liệu liên quan