Tiểu luận Tổ chức và hoạt động của uỷ ban nhân dân theo quy định của pháp luật hiện hành

MỤC LỤC

Trang

A) MỞ BÀI .2

B) THÂN BÀI.2

I) Sơ lược về vị trí, tính chất, chức năng của uỷ ban nhân dân .2

II) Tổ chức của uỷ ban nhân dân .2

1) Chủ tịch uỷ ban nhân dân .3

2) Phó chủ tịch uỷ ban nhân dân .4

3) Thành viên và uỷ viên uỷ ban nhân dân .4

III) Hoạt động của uỷ ban nhân dân .5

1) Hoạt động thông qua các phiên họp của uỷ ban nhân dân .5

2) Hoạt động của chủ tịch uỷ ban nhân dân .6

3) Hoạt động của các thành viên khác thuộc uỷ ban nhân dân .7

IV) Nhận xét một số điểm mới trong cách thức tổ chức và hoạt động

của uỷ ban nhân dân theo “Luật tổ chức và hoạt động của hội đồng

nhân dân và uỷ ban nhân dân” năm 2003 so với luật năm 1994 8

1. Về cơ cấu, tổ chức của UBND .8

2. Về hoạt động của UBND. . .9

 

C) KẾT LUẬN .9

 

 

 

 

 

 

doc10 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 7464 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tiểu luận Tổ chức và hoạt động của uỷ ban nhân dân theo quy định của pháp luật hiện hành, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
hác thuộc uỷ ban nhân dân…………………………….7 IV) Nhận xét một số điểm mới trong cách thức tổ chức và hoạt động của uỷ ban nhân dân theo “Luật tổ chức và hoạt động của hội đồng nhân dân và uỷ ban nhân dân” năm 2003 so với luật năm 1994………………………8 1. Về cơ cấu, tổ chức của UBND…………………………………………………………...8 2. Về hoạt động của UBND.….…………………………………………………………....9 C) KẾT LUẬN…………………………………………………………………………….9 BÀI LÀM A) MỞ BÀI Tổ chức và hoạt động của uỷ ban nhân dân là một vấn đề được các nhà làm luật rất quan tâm và đầu tư nhiều công sức nghiên cứu nhằm hoàn thiện tổ chức và nâng cao hiệu quả hoạt động của uỷ ban nhân dân. Tuy nhiên, vấn đề này cần được tiếp tục nghiên cứu bởi trong thực tế việc tổ chức và hoạt động này còn nhiều điểm chưa hợp lí, chưa phát huy hết được vai trò của uỷ ban nhân dân. Sau đây, bài làm của em sẽ tìm hiểu một số nét cơ bản về tổ chức và hoạt động của uỷ ban nhân dân theo quy định của pháp luật hiện hành (theo Hiến pháp 1992, Luật tổ chức hội đồng nhân dân và uỷ ban nhân dân năm 2003 và một số văn bản luật có liên quan). Trong quá trình làm bài, chắc chắn còn gặp nhiều thiếu sót, em rất mong nhận được sự chỉnh sửa và góp ý của các thầy cô. Em xin chân thành cảm ơn! B) THÂN BÀI I) Sơ lược về vị trí, tính chất, chức năng của uỷ ban nhân dân Điều 123 Hiến pháp năm 1992 quy định: “Uỷ ban nhân dân do hội đồng nhân dân bầu là cơ quan chấp hành của hội đồng nhân dân, cơ quan hành chính nhà nước ở địa phương, chịu trách nhiệm chấp hành Hiến pháp, luật, các văn bản của các cơ quan nhà nước cấp trên và nghị quyết của hội đồng nhân dân”. Như vậy, về tính chất, ta có thể thấy rõ hai điểm sau: + Uỷ ban nhân dân là cơ quan chấp hành của hội đồng nhân dân. Điều đó được thể hiện qua những điểm sau: uỷ ban nhân dân do hội đồng nhân dân cùng cấp thành lập ra; chịu trách nhiệm và báo cáo công tác trước hội đồng nhân dân và trả lời chất vấn của đại biểu hội đồng nhân dân; chịu trách nhiệm chủ yếu trong việc triển khai tổ chức thực hiện các nghị quyết của hội đồng nhân dân, đưa các nghị quyết này đi vào thực tế cuộc sống. Uỷ ban nhân dân chịu sự giám sát của hội đồng nhân dân. Hội đồng nhân dân có quyền bãi bỏ một phần hoặc toàn bộ quyết định, chỉ thị trái pháp luật của uỷ ban nhân dân cùng cấp. Nhiệm kì của uỷ ban nhân dân phải theo nhiệm kỳ của hội đồng nhân dân. + Uỷ ban nhân dân là cơ quan hành chính nhà nước ở địa phương bởi: uỷ ban nhân dân thực hiện hoạt động quản lí hành chính trên phạm vi toàn lãnh thổ địa phương trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội về chính trị, kinh tế, văn hoá – xã hội, an ninh quốc phòng…; uỷ ban nhân dân chịu sự lãnh đạo trực tiếp của cơ quan nhà nước cấp trên và trung ương; chịu trách nhiệm trước cơ quan nhà nước cấp trên và hội đông nhân dân cùng cấp; Uỷ ban nhân dân phải đảm bảo cho những quy định và quyết định của cơ quan hành chính nhà nước cấp trên và trung ương được thực hiện tốt ở địa phương; hoạt động của uỷ ban nhân dân chịu sự giám sát của cơ quan nhà nước cấp trên và Chính phủ, các quyết định sai trái của uỷ ban nhân dân và chủ tịch uỷ ban nhân dân có thể bị chủ tịch uỷ ban nhân dân cấp trực tiếp huỷ bỏ một phần hoặc tất cả. Về chức năng, uỷ ban nhân dân có chức năng duy nhất là quản lí hành chính nhà nước vì quản lí nhà nước là hoạt động chủ yếu, bao trùm nên toàn bộ hoạt động của uỷ ban nhân dân. II) Tổ chức của uỷ ban nhân dân Vấn đề cơ cấu tổ chức của uỷ ban nhân dân được quy định tại Chương IX  Hiến pháp năm 1992 (từ Điều 123 đến Điều 125) và cụ thể hoá tại Điều 119 Mục 4 Luật tổ chức HĐND và UBND năm 2003. Theo đó, cơ cấu tổ chức của uỷ ban nhân dân bao gồm: chủ tịch uỷ ban nhân dân, phó chủ tịch và các uỷ viên của uỷ ban nhân dân. 1) Chủ tịch uỷ ban nhân dân Chủ tịch uỷ ban nhân dân do hội đồng nhân dân cùng cấp bầu ra tại kỳ họp thứ nhất của mỗi khoá theo sự giới thiệu của chủ tịch hội đồng nhân dân trong số các đại biểu của hội đồng nhân dân. Với quy định như vậy việc bố trí chủ tịch uỷ ban nhân dân sẽ được dễ dàng hơn trong các trường hợp đặc biệt. Việc bầu chủ tịch uỷ ban nhân dân được tiến hành theo hình thưc bỏ phiếu kín, người trúng cử phải được quá một phần hai tổng số đại biểu hội đồng nhân dân có mặt biểu quyết tán thành. Trong nhiệm kì nếu khuyết chủ tịch uỷ ban nhân dân thì chủ tịch hội đồng nhân dân cùng cấp giới thiệu ngưòi ứng cử chủ tịch uỷ ban nhân để hội đồng nhân dân cùng cấp bầu. Người được bầu này không nhất thiết phải là đại biểu hội đồng nhân dân. Sở dĩ có quy định này là nhằm tạo ra sự linh hoạt, nhanh chóng trong việc thay đổi nhân sự của uỷ ban nhân dân trong những trường hợp đặc biệt. Chủ tịch uỷ ban nhân dân có nhiệm vụ lãnh đạo và điều hành công việc của uỷ ban nhân dân, giúp cho hoạt động của uỷ ban nhân dân được nhịp nhàng, thống nhất. Từ những quy định trên, em có một số nhận xét, đánh giá như sau: +Thứ nhất, quy định: “Chủ tịch uỷ ban nhân dân được bầu ra theo sự giới thiệu của chủ tịch hội đồng nhân” có phần thể hiện ý muốn chủ quan của chủ tịch hội đồng nhân dân trong việc bầu này, từ đó đã phần nào triệt tiêu tính dân chủ trong việc bầu chủ tịch uỷ ban nhân dân. Dù các đại biểu hội đồng nhân dân có quyền biểu quyết tán thành hay phản đối, nhưng với sự “hậu thuẫn” của chủ tịch hội đồng nhân dân thì việc người được giới thiệu có khả năng thắng cử là rất cao, do vậy xét ở khía cạnh nào đó đã triệt tiêu tính dân chủ. Đồng thời với việc quy định hội đồng nhân dân bãi nhiệm chủ tịch uỷ ban nhân dân đã tạo ra một tâm lí nể nang, né tránh, không đạt được hiệu quả thực sự của quy định bãi nhiệm này. Hiện nay, nhà nước ta đang tiến hành thí điểm ở một số xã hình thức bầu chủ tịch uỷ ban nhân dân xã theo phương thức mới: đó là do dân bầu trực tiếp. Như vậy sẽ thể hiện tính dân chủ tuyệt đối, giống như việc bầu cử đại biểu quốc hội. Cùng với quy định này sẽ là việc bãi nhiệm chủ tịch uỷ ban nhân dân xã cũng sẽ do nhân dân thực hiện. Nếu chủ tịch uỷ ban nhân dân xã nào không còn xứng đáng với sự tín nhiệm của nhân dân thì sẽ bị nhân dân trực tiếp bãi nhiệm. Như vậy, các chủ tịch uỷ ban nhân dân sẽ cố gắng làm hết trách nhiệm, nhiệm vụ và làm đúng quyền hạn của mình, sẽ hạn chế được rất nhiều tình trạng quan liêu, hách dịch, cửa quyền đang là một vấn đề bức xúc hiện nay. Đồng thời các chủ tịch uỷ ban nhân dân cũng phải không ngừng trau dồi tri thức, tích luỹ kinh nghiệm, nâng cao phẩm chất đạo đức của một người cán bộ. Sau một thời gian thử nghiệm, chúng ta có thể thấy được hiệu quả rõ rệt của quy định này như: các chương trình, dự án ở địa phương được tiến hành nhanh gọn, thái độ của các nhân viên chính quyền đối với dân niềm nở hơn, tình trạng tham ô, hối lộ giảm đi rõ rệt…Tóm lại, đây là một quy định rất hợp lí và cần được tiến hành đồng loạt trên cả nước trong thời gian tới. Nếu có thể thì thì cần tiến hành ở tất cả các cấp chứ không chỉ ở cấp xã, thậm chí Thủ tướng Chính phủ cũng cần được bầu theo phương thức này. + Thứ hai: trong Hiến pháp và các văn bản luật không nêu lên tiêu chuẩn cụ thể để có thể trở thành chủ tịch uỷ ban nhân dân. Điều này có thể giải thích là do: khi đại diện các tầng lớp nhân dân được bầu vào hội đồng nhân dân thì ai cũng có cơ hội trở thành chủ tịch uỷ ban nhân dân, nhằm tạo điều kiện cho các tầng lớp nhân dân tham gia vào công việc quản lí nhà nước. Tuy nhiên, đây là một công việc quan trọng, đòi hỏi những người có nămg lực thật sự, do vậy việc đặt ra các tiêu chuẩn cụ thể cho chủ tịch uỷ ban nhân dân là rất cần thiết như về độ tuổi, trình độ học vấn… + Thứ ba: về năng lực của chủ tịch uỷ ban nhân dân. Hiện nay còn một số chủ tịch uỷ ban nhân dân có trình độ yếu, kinh nghiệm thiếu nên đã không đáp ứng được yêu cầu của công việc. Do vậy, trong thời gian tới, yêu cầu đặt ra là phải đào tạo được một đội ngũ cán bộ có năng lực thật sự, phẩm chất đạo đức tốt, như vậy mới tạo nên được sự vững mạnh trong bộ máy nhà nước, nâng cao hiệu quả hoạt động của các cơ quan nhà nước. 2) Phó chủ tịch uỷ ban nhân dân Phó chủ tịch uỷ ban nhân dân do hội đồng nhân dân cùng cấp bầu ra tại kỳ họp thứ nhất của mỗi khoá theo sự giới thiệu của chủ tịch uỷ ban nhân dân theo hình thức bỏ phiếu kín. Số phó chủ tịch ở mỗi cấp do Chính phủ quy định, theo đó, ở uỷ bân nhân dân cấp tỉnh có từ 3 – 4 phó chủ tịch, cấp huyện có từ 2 – 3 phó chủ tịch và cấp xã có 1 phó chủ tịch, tuy nhiên có trường hợp ngoại lệ có 2 phó chủ tịch. Từ những quy định về phó chủ tịch đã nêu trên, em có một số ý kiến sau: + Thứ nhất: với quy định: “Phó chủ tịch uỷ ban nhân dân được chủ tịch uỷ ban nhân dân giới thiệu ra để bầu” có tác dụng là giúp cho chủ tịch uỷ ban nhân dân có thể lựa chọn nhân sự trong uỷ ban, nhằm tăng cường quyền hạn của chủ tịch, giúp các thành viên của uỷ ban phối hợp với nhau được nhịp nhàng, thống nhất, tuy nhiên quy định này đã phần nào triệt tiêu tính dân chủ như đã phân tích ở trên. Đồng thời quy định này còn có nguy cơ gây ra tình trạng “gây bè kéo cánh”, làm giảm hiệu quả hoạt động của uỷ ban nhân dân. Theo em, giải pháp được đưa ra ở đây là phó chủ tịch uỷ ban nhân dân cũng do nhân dân địa phương bầu ra, có thể bị nhân dân bãi nhiệm nếu không còn sự tín nhiệm của nhân dân. + Thứ hai: cần giảm số lượng phó chủ tịch ở cấp tỉnh và huyện. Bởi phó chủ tịch chỉ là người giúp việc cho chủ tịch do vậy không cần thiết phải nhiều. Nếu giảm số lượng phó chủ tịch sẽ giúp bộ máy nhà nước bớt cồng kềnh, hoạt động được hiệu quả hơn. 3) Thành viên và uỷ viên uỷ ban nhân dân Các thành viên của uỷ ban nhân dân do hội đồng nhân dân cùng cấp bầu ra tại kỳ họp đầu tiên của mỗi khoá theo sự giới thiệu của chủ tịch uỷ ban nhân dân được bầu theo hình thức bỏ phiếu kín. Kết quả bầu này phải được chủ tịch uỷ ban nhân dân cấp trên trực tiếp phê chuẩn. Kết quả bầu các thành viên của uỷ ban nhân dân cấp tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương phải được Thủ tướng Chính phủ phê chuẩn. Quy định này nhằm tạo nên sự thống nhất từ trung ương xuống địa phương trong hệ thống cơ quan hành chính. Số lượng các thành viên của uỷ ban nhân dân được chính phủ quy định cụ thể như sau: cấp tỉnh có từ 9 – 11 thành viên, riêng Hà Nội và TP Hồ Chí Minh có không ít hơn 13 thành viên; cấp huyện có từ 7 – 9 thành viên; cấp xã có từ 3 – 5 thành viên. Ngoài chủ tịch uỷ ban nhân dân ra, các phó chủ tịch và các thành viên khác không nhất thiết phải là đại biểu hội đồng nhân dân. Quy định này nhằm một số mục đích sau: Thứ nhất, giúp cho việc giám sát của hội đồng nhân dân với uỷ ban nhân dân được khách quan hơn, tránh tình trạng “vừa đá bóng vừa thổi coi”. Thứ hai, hạn chế tình trạng kiêm nhiệm từ đó giúp tăng cường hiệu quả hoạt động của uỷ ban nhân dân. Thứ ba, quy định phó chủ tịch và các uỷ viên có thể không là đại biểu hội đồng nhân dân đã tạo điều kiện thuận lợi cho các tầng lớp nhân dân, những người có năng lực thực sự có thể tham gia vào công việc quản lí nhà nước. Uỷ viên uỷ ban nhân dân là thành viên của uỷ ban nhân dân. Được chủ tịch phân công phụ trách quản lý những ngành, lĩnh vực chuyên môn nhất định phải chịu trách nhiệm cá nhân về ngành, lĩnh vực được phân công trước chủ tịch uỷ ban nhân dân và cùng với tập thể uỷ ban nhân dân chịu trách nhiệm trước hội đồng nhân dân cùng cấp và trước cơ quan nhà nước cấp trên. Thủ trưởng các cơ quan chuyên môn thuộc uỷ ban nhân dân (không phải là thành viên của uỷ ban nhân dân) được giao phụ trách quản lí ngành, lĩnh vực chuyên môn với các tên gọi như: Giám đốc sở, trưởng phòng, trưởng ban... phải chịu trách nhiệm lãnh đạo hoạt động của các sở, phòng, ban định kỳ mỗi tháng 1 lần phải báo cáo hoạt động của các ngành mình, lĩnh vực mình phụ trách trước uỷ ban nhân dân và cơ quan quản lí chuyên môn cấp trên, trong trường hợp cần thiết thì phải báo cáo trước hội đồng nhân dân cùng cấp. Số lượng các sở, phòng, ban trực thuộc phụ thuộc vào yêu cầu nhiệm vụ công tác trong mỗi giai đoạn cũng như nhận thức của cơ quan có thẩm quyền. Hiện nay các cơ quan chuyên môn thuộc uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương có khoảng từ 20 đến 26 sở, ban, ngành và các cơ quan trực thuộc uỷ ban nhân dân; ngoài ra, cấp tỉnh còn một số đầu mối nữa không trực thuộc uỷ ban nhân dân mà trực thuộc cơ quan quản lí cấp trên. Như Sở công an, Bộ chỉ huy quân sự, Tổng cục thống kê, ngân hàng, bảo hiểm xã hội... Đối với các thành phố trực thuộc trung ương, ngoài các cơ quan chuyên môn trực thuộc uỷ ban nhân dân, còn có các cơ quan chuyên môn mang tính chất thành thị như: Sở nhà đất, văn phòng kiến trúc sư trưởng... Các cơ quan chuyên môn thuộc uỷ ban nhân dân huyện (quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh) thường có cơ cấu khoảng 10 đến 12 phòng, ban. uỷ ban nhân dân xã (phường, thị trấn) thường có cơ cấu khoảng 5 ban. Hiện nay, với xu thế đề cao trách nhiệm cá nhân chủ tịch uỷ ban nhân dân và sự phân công chịu trách nhiệm trong từng lĩnh vực công tác của các thành viên uỷ ban nhân dân, theo tinh thần Nghị quyết Trung ương 3 khoá VIII: uỷ ban nhân dân cần được kiện toàn theo hướng tinh gọn, giảm bớt số uỷ viên là thủ trưởng các cơ quan chuyên môn thuộc uỷ ban nhân dân; xác định làm rõ thẩm quyền hành chính cụ thể cho từng thành viên thuộc uỷ ban nhân dân; điều chỉnh, sắp xếp lại các cơ quan chuyên môn của uỷ ban nhân dân, tương ứng với việc sắp xếp điều chỉnh lại các bộ, ngành ở trung ương theo hướng quản lý đa ngành, đa lĩnh vực. III) Hoạt động của uỷ ban nhân dân Hoạt động của uỷ ban nhân dân được thể hiện thông qua hoạt động của phiên họp của uỷ ban nhân dân, hoạt động của chủ tịch uỷ ban nhân dân và hoạt động của các thành viên khác của uỷ ban nhân dân. 1) Hoạt động thông qua các phiên họp của uỷ ban nhân dân Đây là hình thức hoạt động quan trọng nhất của uỷ ban nhân dân. Bởi thông qua hoạt động của các phiên họp, uỷ ban nhân dân đã thực hiện được phần lớn nhiệm vụ, quyền hạn thuộc thẩm quyền của mình. Uỷ ban nhân dân họp thường lệ mỗi tháng một lần do chủ tịch uỷ ban nhân dân triệu tập và chủ toạ. Tuy nhiên, trong trường hợp cần thiết, uỷ ban nhân dân cũng có thể họp bất thường theo yêu cầu của chủ tịch uỷ ban nhân dân hoặc có ít nhất 1/3 tổng số thành viên của uỷ ban nhân dân. Những trường hợp bất thường này thường xảy ra khi có những việc bất ngờ, quan trọng tại địa phương như phòng chống thiên tai, dịch bệnh… Hoạt động của uỷ ban nhân thể hiện tính dân chủ. Điều đó được thể hiện trong thành phần tham dự phiên họp, bao gồm thành viên của uỷ ban nhân dân và các đại biểu được mời tham dự. Các đại biểu ở đây bao gồm chủ tịch uỷ ban mặt trận Tổ quốc Việt Nam (được mời thường kì) và khi bàn các vấn đề có liên quan thì có thể mời thêm người đứng đầu hoặc phụ trách đoàn thể của nhân dân cùng cấp; trưởng ban hoặc phó ban của các ban của hội đồng nhân dân; thủ trưởng các cơ quan chuyên môn của hội đồng nhân dân nhưng không phải là thành viên của uỷ ban nhân dân. Các đại biểu này có thể được phát biểu ý kiến nhưng không có quyền biểu quyết. Quy định này nhằm giúp phiên họp diễn ra thật sự dân chủ, công khai, đồng thời thông qua đây giúp uỷ ban nhân dân nắm vững thực tế để từ đó có các quyết định, chỉ thị đúng đắn. Nội dung của phiên họp: uỷ ban nhân dân thảo luận và quyết định các vấn đề trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình như: + Chương trình hoạt động của uỷ ban nhân dân trong cả nhiệm kì và hàng năm. + Thông qua các dự án về kế hoạch, ngân sách quỹ dự trữ của địa phương để trình hội đồng nhân dân cùng cấp và uỷ ban nhân dân cấp trên trực tiếp (hoặc chính phủ đối với uỷ ban nhân dân cấp tỉnh, thành phố trực thộc trung ương). + Kiểm điểm việc thực hiện các quyết định của hội đông nhân dân cùng cấp cũng như các văn bản pháp luật của các cơ quan nhà nước cấp trên. + Thông qua các đề án thành lập mới, sát nhập, giải thể các cơ quan chuyên môn thuộc uỷ ban nhân dân và việc phân vạch, điều chỉnh địa giới đơn vị hành chính ở địa phương. + Điều hoà, phối hợp hoạt động giữa các cơ quan chuyên môn của uỷ ban nhân dân. Nguyên tắc của kỳ họp: tất cả các vấn đề đều được thảo luận tập thể và quyết định theo đa số. Như vậy, những quyết định này thường vững vàng hơn vì có ý kiến của nhiều ngưòi,từ đó giúp việc thực hiện trên thực tế đạt hiệu quả cao hơn, tránh được tình trạng ban hành các quyết định xa rời thực tế, khó thực hiện. Các quyết định của uỷ ban nhân dân được thể hiện dưới hình thức văn bản đó là chỉ thị hoặc quyết định. Qua những phân tích ở trên, ta có thể thấy hoạt động thông qua kì họp là hình thức hoạt động quan trọng nhất của uỷ ban nhân dân. Uỷ ban nhân dân được họp thường kì mỗi tháng một lần nên nhanh chóng nắm bắt được tình hình thực tế, từ đó có thể đưa ra được những quyết định kịp thời, đáp ứng được sự biến động thời xuyên của cuộc sống. 2) Hoạt động của chủ tịch uỷ ban nhân dân Hoạt động của uỷ ban nhân dân thông qua hoạt động của chủ tịch uỷ ban nhân dân là điểm mới được quy định tại điều 124 Hiến pháp 1992. Đây là hình thức hoạt động thường xuyên và có tác dụng rất lớn đến hiệu quả hoạt động của uỷ ban nhân dân. Với vị trí là người lãnh đạo và điều hành công tác của uỷ ban nhân dân, chủ tịch uỷ ban nhân dân có các nhiệm vụ và quyền hạn sau: + Có quyền triệu tập và chủ trì phiên họp của uỷ ban nhân. + Lãnh đạo công tác của uỷ ban nhân dân, thành viên của uỷ ban nhân dân và các cơ quan chuyên môn của uỷ ban nhân dân. + Tổ chức triển khai và kiểm tra việc thực hiện Hiến pháp, luật, các văn bản của cơ quan nhà nước cấp trên, nghị quyết của hội đồng nhân dân và quyết định của uỷ ban nhân dân. + Đôn đốc kiểm tra công tác của cơ quan chuyên môn của uỷ ban nhân dân cấp mình. + Áp dụng biện pháp để cải tiến lề lối làm việc của uỷ ban nhân dân và điều hành quản lí có hiệu quả. Ngăn ngừa và kiên quyết đấu tanh chống các biểu hiện quan liêu, hách dịch, cửa quyền, tham nhũng, lãng phí… + Tổ chức việc tiếp dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo. + Phê chuẩn kết quả bầu thành viên uỷ ban nhân dân của cấp dưói trực tiếp. + Xem xét, bãi bỏ các văn bản trái pháp luật của cơ quan chuyên môn cấp dưới mình và văn bản của uỷ ban nhân dân cấp dưới trực tiếp, đình chỉ văn bản trái pháp luật của hội đồng nhân dân cấp dưới trực tiếp và đề nghị hội đồng nhân dân cấp mình bãi bỏ. Các quy định trên nhằm đề cao vị trí, vai trò của chủ tịch uỷ ban nhân dân trong hoạt động quản lí cũng như đảm bảo tính thống nhất của quyền lực nhà nước. Chủ tịch uỷ ban nhân dân có quyền hạn lớn và đảm nhiệm những nhiệm vụ quan trọng trong bộ máy hành chính. Do vậy cần phải là người có năng lực thực sự và phẩm chất đạo đức tốt, phải thật sự gần dân, thân dân, hiểu dân, lắng nghe ý kiến nguyện vọng của nhân dân, có như vậy mới được sự tín nhiệm của nhân dân, lãnh đạo công việc của uỷ ban được tốt, có những quyết định sát với thực tế, đáp ứng được những nguyện vọng của nhân dân. Tuy nhiên, trên thực tế vẫn còn không ít chủ tịch uỷ ban nhân dân hách dịch, cửa quyền, tham nhũng, lãng phí, khiến nhân dân địa phương bức xúc. Ví dụ như vụ việc chủ tịch uỷ ban nhân dân xã Long Xuyên (Bình Giang, Hải Dương) cùng với tổ thợ điện xã đã móc ngoặc với nhau nâng giá điện lên gấp đôi. Vụ việc bị phát giác, nhân dân vô cùng phẫn nộ, đã xảy ra tình trạng kiện cáo vượt cấp, gây mất ổn định xã hội. Tuy nhiên các cán bộ có liên quan chỉ bị khiển trách. Và ngay trong khoá tiếp theo, chủ tịch xã mắc sai phạm kia vẫn tiếp tục đắc cử (báo điện tử Vietnamnet) Như vậy đã đặt ra một câu hỏi rất lớn trong bộ máy chính quyền: “Hoạt động giám sát của hội đông nhân với uỷ ban nhân dân đạt hiệu quả đến đâu?” và “Làm gì để hạn chế được tính hình thức trong việc bầu các chức danh trong bộ máy chính quyền?”. Đây là vấn đề được các nhà làm luật đang rất quan tâm nghiên cứu, tuy nhiên theo em, hình thức bầu chủ tịch uỷ ban nhân dân xã đang được thí điểm là một giải pháp tốt để giải quyết những vấn đề trên. 3) Hoạt động của các thành viên khác thuộc uỷ ban nhân dân. Đây là hình thức hoạt động thương xuyên và có tác dụng rất lớn đến hiệu quả hoạt động của uỷ ban nhân dân. a) Hoạt động của phó chủ tịch Phó chủ tịch là người giúp việc cho chủ tịch uỷ ban nhân dân, được chủ tịch uỷ ban nhân dân phân công phụ trách thực hiện công việc nhất định hoặc mảng công việc nhất định như: kinh tế, tài chính, thương mại, văn hoá, giáo dục, y tế…Chịu trách nhiệm cá nhân về việc thực hiện nhiệm vụ quyền hạn của mình trước chủ tịch uỷ ban nhân dân. Thông qua hoạt động của các phó chủ tịch giúp chủ tịch uỷ ban nhân dân nắm được toàn bộ hoạt động của uỷ ban nhân dân. b) Hoạt động của uỷ viên uỷ ban nhân dân Uỷ viên được chủ tịch uỷ ban nhân dân phân công quản lí những ngành, lĩnh vực chuyên môn nhất định như: công an, quân sự, tổ chức, thanh tra, kế hoạch, tài chính, văn phòng uỷ ban nhân dân...Chịu trách nhiệm cá nhân về ngành, lĩnh vực được phân công. c) Thủ trưởng của các cơ quan chuyên môn Các cơ quan chuyên môn thuộc ủy ban nhân dân là cơ quan tham mưu, giúp uỷ ban nhân dân cùng cấp thực hiện chức năng quản lí nhà nước ở địa phương và thực hiện một số nhiệm vụ quyền hạn theo sự uỷ quyền của uỷ ban nhân dân cùng cấp và theo quy định của pháp luật, góp phần bảo đảm sự thống nhất trong quản lí của ngành hoặc lĩnh vực công tác từ trung ương đến cơ sở. Cơ quan chuyên môn thuộc uỷ ban nhân dân chịu sự chỉ đạo, quản lí về tổ chức, biên chế, công tác của uỷ ban nhân dân cùng cấp, đồng thời chịu sự chỉ đạo, kiểm tra về nghiệp vụ của cơ quan chuyên môn cấp trên. Thủ trưởng cơ quan chuyên môn thuộc uỷ ban nhân dân chịu trách nhiệm và báo cáo công tác trước uỷ ban nhân dân cùng cấp, cơ quan chuyên môn cấp trên và báo cáo công tác công tác trước hội đồng nhân dân cùng cấp khi được yêu cầu. Như vậy, hoạt động của các thành viên khác cũng có vai trò hết sức quan trọng. Cần những người có chuyên môn cao, phẩm chất đạo đức tốt, gần dân, than dân. Tuy nhiên, một thực trạng phổ biến hiện nay là người cán bộ chưa thể sống bằng lương của mình, vì vậy họ phải bươn chải bằng những hình thức hợp pháp và không hợp pháp (mà ta còn gọi là “lậu”). Những hình thức không hợp pháp chính là sự gây nhũng nhiễu cho người dân. Chính vì vậy cần chú ý đến việc cải thiện mức lương, tuyên truyền, nâng cao phẩm chất đạo đức của các cán bộ này, như vậy mới có thể xây dựng một đội ngũ cán bộ trong sạch, xây dựng bộ máy chính quyền vững mạnh. IV) Nhận xét một số điểm mới trong cách thức tổ chức và hoạt động của uỷ ban nhân dân theo “Luật tổ chức và hoạt động của hội đồng nhân dân và uỷ ban nhân dân” năm 2003 so với luật năm 1994. Về cơ bản, so với Luật Tổ chức và hoạt động của HĐND và UBND năm 1994 thì Luật Tổ chức và hoạt động của HĐND và UBND năm 2003 có một số điểm mới, điểm tiến bộ sau: 1. Về cơ cấu, tổ chức của UBND Theo Điều 119 Luật tổ chức HĐND và UBND năm 2003 thì: Trong nhiệm kì nếu khuyết chủ tịch UBND thì chủ tịch HĐND cùng cấp giới thiệu người ứng cử chủ tich UBND để HĐND bầu. Người được bầu giữ chức vụ chủ tịch UBND trong nhiệm kì không nhất thiết là đại biểu HĐND. Đây chính là điểm mới so với Luật năm 1994. Ngoài ra, các thành viên của UBND không nhất thiết phải là đại biểu hội đồng nhân dân. Điều này nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động của UBND, đáp ứng sự thay đổi kịp thời của thành viên UBND, cũng như hoạt động điều hành và quản lý nhà nước trên phạm vi lãnh thổ địa phương. Trước đây, trong cơ cấu tổ chức của ủy ban nhân dân, còn có chức danh ủy viên thư kí ủy ban và thường trực ủy ban nhân dân. Nhưng theo Luật Tổ chức HĐND và UBND năm 2003, cùng với việc thành lập thường trực HĐND (ở cấp tỉnh, huyện và cấp xã), thường trực UBND và chức danh ủy viên thư kí của UBND không còn nữa. Đồng thời, ở uỷ ban nhân dân cấp xã đã có sự điều chỉnh về số lượng thành viên của uỷ ban nhân dân, nếu luật 1994 quy định có từ 5 đến 7 thành viên thì đến luật năm 2003 đã thu gọn xuống còn từ 3 đến 5 thành viên. Quy định trên làm cho bộ máy hành chính gọn nhẹ, giảm nhiều tầng lớp trung gian, đồng thời tăng cường trách nhiệm của từng thành viên và tập thể UBND. 2. Về hoạt động của UBND So với các quy đinh trước đây về hoạt động của UBND thì các phiên họp thường lệ của UBND và hoạt động của các ủy viên UBND không thay đổi nhiều. Luật tổ chức HĐND và UBND 2003 chú trọng vào hoạt động của chủ tịch UBND. So với Luật tổ chức trước đó thì đây là một hình thức hoạt động mới của UBND. Đây được xác định là hoạt động thường xuyên và có tác dụng rất lớn đến hiệu quả hoạt động của UBND. Với xu hướng kết hợp chế độ tập thể lãnh đạo với chế độ thủ trưởng trong quản lí nhà nước, Hiến pháp năm 1992 và Luật tổ chức HĐND và UBND 2003 đã quy định rạch ròi giữa chế độ trách nhiệm tập thể của UBND với cá nhân chủ tịch UBND. Đồng thời Luật tổ chức hội đồng nhân dân và uỷ ban nhân dân năm 2003 đã đề cao vai trò và trách nhiệm cá nhân của uỷ ban nhân dân. Luật mới đã tăng thêm một số quyền hạn cho chủ tịch uỷ ban nhân dân. Như vậy, Luật tổ chức hội đồng nhân dân và uỷ ban nhân dân năm 2003 đã có một số điểm đổi mới tích cực so với luật năm 1994 nhằm mục đích hoàn thiện tổ chức và nâng cao chất lượng, hiệu quả của uỷ ban nhân dân. C) KẾT LUẬN Qua những phân tích ở trên, ta có thể phần nào thấy rõ được cách thức tổ chức và hoạt động của uỷ ban nhân dan theo hiến pháp hiện hành. Nhìn chung, uỷ ban nhân dân được tổ chức tương đối hoàn thiện và hoạt động tương đối có hiệu quả. Tuy nhiên bên cạnh đó vẫn còn một số điểm chư

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docTổ chức và hoạt động của uỷ ban nhân dân theo quy định của pháp luật hiện hành.doc
Tài liệu liên quan