Tiểu luận Tổng quan về Thị trường tài chính Việt Nam

I.Lý thuyết chung

1.Thị trường tài chính là gì?

2.Chức năng và vai trò của thị trường tài chính

II.Thực trang thị trường tài chính Việt Nam

1.Đánh giá tổng quan về thị trường tài chính Việt Nam

2.Thị trường tài chính Việt Nam trước khi gia nhập WTO

3.Thị trường tài chính Việt Nam sau khi gia nhập WTO

4.Đánh giá thực trạng và các giải pháp khắc phục những hạn chế hiện nay

 

doc18 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 3917 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tiểu luận Tổng quan về Thị trường tài chính Việt Nam, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
thể chế về quản trị doanh nghiệp (kể cả ngân hàng) cũng được hoàn thiện một bước, nhất là đối với các công ty niêm yết trên thị trường chứng khoán. Cuối cùng, song không kém phần quan trọng, khung pháp luật của TTTC đang ngày càng phù hợp hơn với các chuẩn mực và thông lệ quốc tế. Chính sách tín dụng ngày càng đối xử bình đẳng hơn đối với các doanh nghiệp tư nhân và có vốnđầu tư nước ngoài. Các định chế tài chính nước ngoài ngày càng được phép mở rộng phạm vi, lĩnh vực hoạt động kinh doanh của mình. 2.Thị trường tài chính Việt Nam trước khi gia nhập WTO A, Thị trường tín dụng: Mẫu hình TTTC Việt Nam cơ bản là dựa vào ngân hàng hay do ngân hàng chi phối (bank-based or bank dominated financial market), trong khi thị trường tín dụng lại chứa đựng không ít vấn đề như: - Mức độ tích tụ và phân khúc thị trường còn cao. Các NHTM nhà nước hiện chiếm gần 80% thị phần huy động tiền gửi và tín dụng của toàn hệ thống ngân hàng. Nhóm khách hàng truyền thống của các NHTM Nhà nước là các doanh nghiệp Nhà nước (DNNN) Các ngân hàng thương mại cổ phần chủ yếu tập trung vào đối tượng các doanh nghiệp nhỏ và vừa. Tỷ trong tín dụng dành cho khu vực DNNN đã giảm từ 70% vào đầu thập niên 1990 xuống 57% năm 1996, 45% năm 2000 và 34% năm 2004. Tín dụng theo ngành cũng phản ánh sự phân khúc thị trường tín dụng, nhất là đối với các NHTM Nhà nước .- Rủi ro tín dụng, nhất là vấn đề nợ xấu vẫn còn hiện hữu. Tỷ lệ nợ quá hạn so với tổng dư nợ của hệ thống NHTM được công bố đã giảm từ 13% năm 2000 xuống còn 3,4% năm 2005. Tuy nhiên, nếu dựa trên cách phân loại quốc tế về nợ, thì tỷ lệ nợ xấu của hệ thống NHTM có thể lớn gấp nhiều lần con số công bố. Hơn nữa, nguy cơ tiếp tục phát sinh nợ quá hạn là khá cao do nhiều dự án đầu tư chưa được kiểm định chặt chẽ về tính hiệu quả và khả thi, trong khi quá trình cải cách các DNNN lớn mới chỉ thực sự được triển khai từ năm 2005. - Vấn đề “sai lệch kép” cũng đáng lo ngại. Với tỷ trọng nguồn vốn huy động không kỳ hạn và ngắn hạn vẫn chiếm khoảng 75%, nguy cơ sai lệch về cơ cấu thời hạn trong bảng cân đối tài sản của hệ thống NHTM là tương đối lớn. Nguy cơ này có thể tăng trong bối cảnh các NHTM có thể sử dụng tới 25-30% tổng huy động vốn ngắn hạn để cho vay trung và dài hạn. Sai lệch về cơ cấu đồng tiền tuy có giảm trong hai ba năm lại đây, song mức độ vẫn còn khá lớn và lại rất nhạy cảm với biến động tỷ giá, lãi suất, nhất là trong môi trường đô la hóa cao. - Rủi ro tín dụng có thể tăng còn do thu nhập của các NHTM chủ yếu dựa trên nguồn thu từ chênh lệch lãi suất huy động và lãi suất cho vay, mặc dù nhiều loại hình dịch vụ ngân hàng đã có bước phát triển trong 3-4 năm lại đây. Hơn nữa, áp lực cho vay theo chỉ định của Chính phủ trên thực tế và vấn đề “rủi ro đạo đức” vẫn tồn tại. Phần lớn các khoản vay lại được thế chấp bằng bất động sản, trong khi thị trường bất động sản biến động mạnh. Các khoản vay được thế chấp chứng khoán tuy có tỷ trọng chưa lớn song cũng đáng lo ngại khi năng lực của các nhà đầu tư cá nhân còn thấp và thị trường chứng khoán (TTCK) vẫn tiềm ẩn nhiều yếu tố gây biến động lớn về giá cả. Trong khi đó, năng lực giám sát, quản trị ngân hàng còn nhiều hạn chế. Công tác giám sát chưa đáp ứng được yêu cầu. Quá trình giám sát từ xa còn bất cập trong việc tổng hợp, thu thập và xử lý thông tin, đặc biệt trong bối cảnh các chuẩn mực về kế toán, kiểm toán chưa được áp dụng thật rộng rãi, nhất quán. Công tác giám sát tín dụng cũng chưa bao quát hết toàn bộ các định chế tài chính có liên quan đến hoạt động tín dụng do thiếu sự phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan quản lý Nhà nước và do mô hình quản lý hệ thống tài chính hiện tại về thực chất là quản lý theo định chế tài chính. Các quy định quản lý theo tiêu chuẩn quốc tế như quản lý rủi ro, quản trị tài sản có, tài sản nợ, kiểm toán nội bộ,…mới được áp dụng, nên chưa thật sự có hiệu lực và hiệu quả. Nhìn chung, trình độ quản trị nội tại ngân hàng chưa đáp ứng tốt các chuẩn mực quốc tế như CAMEL và BASEL. B, Thị trường tiền tệ- Thị trường ngoại hối Năm 2005, Diễn biến lãi suất luôn gắn với diễn biến của thị trường tiền tệ, thị trường hàng hóa. Với thị trường tiền tệ, ảnh hưởng mạnh nhất đến lãi suất VNĐ là khi Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (FED) liên tục công bố tăng lãi suất cơ bản. Với thị trường hàng hóa, do ảnh hưởng của việc tăng giá người dân phải chi tiêu tiền nhiều hơn là gửi ngân hàng. Lãi suất huy động kỳ hạn 3 tháng từ 0,63%-0,65%/tháng, kỳ hạn 6 tháng từ 0,65%-0,67%/tháng, kỳ hạn 12 tháng từ 0,68%-0,72%/tháng, so với đầu năm lãi suất huy động tăng từ 0,01%-0,02%/tháng (0,12%-0,24%/năm). Lãi suất cho vay hiện nay các tổ chức tín dụng (TCTD) đang áp dụng từ 0,78%-1,2%/tháng tùy theo thời hạn vay, khách hàng và đối tượng vay, so với đầu năm đã tăng từ 0,11%-0,28%/năm. Dù tăng nhưng đây là diễn biến phù hợp với tình hình biến động của giá cả hàng hóa trên thị trường. Với ngoại tệ, ngoài sự tác động bởi quan hệ cung cầu về vốn, lãi suất ngoại tệ chịu sự chi phối và tác động mạnh từ lãi suất thị trường thế giới. Sự thay đổi lãi suất của FED trong 5 tháng đầu năm 2005 đã làm thay đổi lãi suất huy động tiền gửi ngoại tệ trong nước cũng như lãi suất cho vay bằng ngoại tệ. So với đầu năm, lãi suất ngoại tệ tăng khoảng 0,04% -0,2%/tháng, trong đó tăng cao nhất là tiền gửi kỳ hạn 3 tháng. Đối với người dân, gửi tiết kiệm bằng VNĐ vẫn có lợi hơn. Mức lãi suất cho vay của các ngân hàng thương mại đã đồng loạt tăng lên và lãi suất trái phiếu chính phủ, tín phiếu kho bạc cũng tăng, cho thấy, mặt bằng lãi suất mới đã hình thành, phù hợp với sự mất giá của đồng tiền cũng như chỉ số giá cả 5 tháng đầu năm đã tăng 4,8%. NHNN Việt Nam trong 6 tháng đầu năm 2005 đã cho tăng lãi suất cơ bản từ 0,625% lên mức 0,65%, là mức lãi suất phù hợp với diễn biến thị trường hàng hóa, thị trường tiền tệ Thời gian này, Việt Nam đang tiếp tục mở cửa nền kinh tế theo xu hướng hội nhập, thực hiện các cam kết của Hiệp định thương mại Việt - Mỹ, AFTA, cam kết gia nhập WTO, nên thị trường trong nước diễn biến theo sát thị trường quốc tế. Thị trường hàng hóa ở nước ta cũng như trên thế giới, tập trung là giá các loại vật tư quan trọng, nguyên nhiên liệu chủ yếu... liên tục tăng giá cao. Ngược lại thị trường ngoại hối, thể hiện ở giá vàng và tỷ giá USD tăng rất thấp, thậm chí còn giảm xuống. C, Thị trường chứng khoán: Thị trường chứng khoán Việt Nam được thành lập vào tháng 7/2000 và hiện nay đã có 26 công ty niêm yết với tổng số vốn huy động được là 236 triệu USD và 207 loại trái phiếu chính phủ với tổng giá trị là 1,5 tỷ USD. Theo thống kê, trong năm 2004, tổng giá trị giao dịch tại thị trường chứng khoán là 1,3 tỷ USD, tăng 6,6 lần so với năm 2003. Trong năm 2006, thị trường chứng khoán (TTCK) Việt Nam đã có bước phát triển vượt bậc cả về khuôn khổ pháp luật, hàng hoá cũng như hệ thống các tổ chức tài chính trung gian. Hoạt động giao dịch trên TTCK trở nên rất sôi động và đã thu hút được một khối lượng vốn khá lớn thông qua hoạt động đấu thầu trái phiếu Chính phủ, đấu giá cổ phần lần đầu của các doanh nghiệp nhà nước (DNNN) cổ phần hoá. Nhìn tổng thể, TTCK Việt Nam đã thể hiện rõ vai trò tích cực của mình đối với nền kinh tế, thể hiện qua một số điểm sau:     1. Luật Chứng khoán được Quốc hội Việt Nam thông qua vào tháng 6/2006, có hiệu lực thi hành từ 01/01/2007 đã có nhiều qui định theo hướng phù hợp với thông lệ quốc tế, theo đúng lộ trình cam kết, đàm phán gia nhập WTO: mở rộng phạm vi điều chỉnh về chào bán chứng khoán ra công chúng; quản lý giám sát thông qua cơ chế công bố thông tin của các công ty đại chúng, bảo vệ lợi ích nhà đầu tư; cho phép doanh nghiệp Việt Nam niêm yết tại các sàn giao dịch chứng khoán (SGDCK) nước ngoài; tăng cường tự quản cho các thị trường giao dịch chứng khoán (TTGDCK), SGDCK theo hướng là những tổ chức hoạt động độc lập, tự chủ tài chính và chịu sự quản lý giám sát bằng công cụ pháp luật từ Ủy ban Chứng khoán Nhà nước (UBCKNN); cho phép mở chi nhánh công ty chứng khoán nước ngoài và thành lập công ty chứng khoán 100% vốn nước ngoài tại Việt Nam; thành lập công ty đầu tư chứng khoán (quỹ đầu tư chứng khoán dạng pháp nhân đầy đủ) tại Việt Nam....     2. Qui mô TTCK có tổ chức ngày càng mở rộng. Đến 15/12/2006, thị trường đã có 65 công ty niêm yết và 28 công ty đăng ký giao dịch tại các TTGDCK với tổng giá trị vốn hoá thị trường cổ phiếu đạt 164.000 tỷ đồng, chiếm 19,6 % GDP (tăng hơn 16 lần so với cuối năm 2005, vượt xa kế hoạch mục tiêu trong Chiến lược phát triển TTCK đến 2010 là 10-15% GDP). Có gần 400 loại trái phiếu Chính phủ, trái phiếu đô thị và trái phiếu ngân hàng niêm yết với tổng giá trị trên 70.000 tỷ đồng, bằng 8,5% GDP. Chỉ số VN Index đã tăng khoảng 165% so với thời điểm đầu năm và đạt 809,86 điểm vào phiên giao dịch ngày 20/12/2006.     Các nhà đầu tư trong và ngoài nước tham gia TTCK ngày càng đông đảo. Tính đến tháng 12/2006, số tài khoản giao dịch của các nhà đầu tư là  95.000 (tăng hơn 3 lần so với cuối năm 2005 và trên 30 lần so với năm đầu tiên mở thị trường); nhà đầu tư nước ngoài có khoảng 1.700 tài khoản và hiện đang nắm giữ khoảng 25-30% số lượng cổ phiếu của các công ty niêm yết, trong đó có một số tên tuổi của các nhà đầu tư chứng khoán quốc tế như JP Morgan, Merryll Lynch, Citigroup...     3. TTCK bước đầu khẳng định vị trí của mình như một kênh dẫn vốn dài hạn cho nền kinh tế. Ngày càng có thêm nhiều doanh nghiệp huy động vốn thành công qua TTCK, chỉ tính riêng 11 tháng năm 2006 đã có trên 27 doanh nghiệp niêm yết, huy động và tăng vốn qua TTCK với tổng giá trị cổ phần và trái phiếu trên 1.300 tỷ đồng  (Thí dụ như Ree, khi cổ phần hoá vốn điều lệ là 16 tỷ đồng và khi niêm yết năm 2000 vốn là 150 tỷ đồng, đến nay đã đạt mức vốn chủ sở hữu là 512 tỷ đồng; Sacom khi niêm yết có vốn điều lệ là 120 tỷ đồng đến nay vốn chủ sở hữu đã tăng lên 625 tỷ đồng; Agrifish khi niêm yết có vốn điều lệ là 40 tỷ đồng nay vốn chủ sở hữu đã tăng lên 117 tỷ đồng) . Nhìn chung, các công ty niêm yết đều có mức tăng trưởng khá cả về doanh thu và lợi nhuận, trình độ quản lý, trình độ quản trị công ty được nâng cao, tính công khai, minh bạch ngày càng được tăng cường, do đó càng thuận lợi trong huy động vốn.     Các công ty cổ phần cũng gia tăng xu hướng phát hành cổ phiếu ra công chúng  để huy động vốn - điều trước đây chưa hề có. Trong năm 2006, đã có 17 công ty cổ phần đăng ký với UBCKNN phát hành 250 tỷ đồng vốn cổ phần.     Ngoài ra, việc phát hành trái phiếu của các Ngân hàng, Tổng công ty cũng gia tăng. Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam (Vietcombank) và Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam (BIDV) đã phát hành 3.350 tỷ đồng và đã được đưa vào niêm yết trên TTCK. Sau khi Chính phủ ban hành Nghị định 52/2006/NĐ-CP về phát hành trái phiếu doanh nghiệp riêng lẻ, Tổng công ty điện lực Việt Nam (EVN) đã phát hành 2.600 tỷ đồng; Công ty chứng khoán Sài gòn đã phát hành 500 tỷ đồng trái phiếu chuyển đổi...     Về công tác đấu giá cổ phần hoá thông qua chào bán cổ phần lần đầu trên TTCK, thực hiện Nghị định 187/2004/NĐ-CP về cổ phần hóa DNNN thông qua đấu giá cổ phần hóa trên TTCK, tính đến hết tháng 11/2006, các TTGDCK đã tổ chức được 177 phiên đấu giá với tổng vốn điều lệ của các doanh nghiệp tham gia đấu giá là 26.391 tỷ đồng; tổng số cổ phiếu chào bán là hơn 768 triệu cổ phiếu; tổng số cổ phiếu bán được là hơn 645 triệu cổ phiếu, đạt khoảng 84% so với tổng số lượng chào bán với tổng giá trị thu được là hơn 12.880 tỷ đồng.       4. Hệ thống các tổ chức trung gian được hình thành, phát triển và tích luỹ được những kinh nghiệm bước đầu trong hoạt động trên TTCK. Đã có 21 công ty chứng khoán (CTCK) với tổng số vốn điều lệ gần 2.255 tỷ đồng (bình quân mỗi công ty khoảng 100 tỷ đồng), hoạt động trong các nghiệp vụ môi giới, tự doanh, bảo lãnh phát hành, quản lý danh mục đầu tư và tư vấn. Nhìn chung, các CTCK phát triển tốt, nhiều CTCK đã đạt mức tăng trưởng gấp 2-3 lần và đã nâng quy mô vốn lên rất nhanh và hiện có 2 CTCK đã trở thành công ty đại chúng niêm yết trên TTGDCK. Ngoài ra, cũng đã có 8 công ty quản lý quỹ và 6 quỹ đầu tư chứng khoán được cấp phép hoạt động; có 6 ngân hàng được cấp phép hoạt động ngân hàng lưu ký (2 ngân hàng trong nước và 4 ngân hàng nước ngoài); 8 công ty kiểm toán độc lập được chấp thuận kiểm toán cho các công ty tham gia TTCK; BIDV được lựa chọn là ngân hàng chỉ định thanh toán.     Về cơ sở vật chất, kỹ thuật và ứng dụng công nghệ tin học vào hoạt động giao dịch. Hiện tại, ngoại trừ một số CTCK trực thuộc hệ thống các ngân hàng thương mại có đầu tư trang bị hệ thống công nghệ toàn ngành, nên đã có hệ thống giao dịch, công bố thông tin tương đối tốt, đáp ứng được yêu cầu tra cứu thông tin và giao dịch qua mạng điện tử, số CTCK còn lại có hệ thống công nghệ tương đối thấp, chỉ đáp ứng nhu cầu đầu tư hiện tại, nếu thị trường tăng trưởng nhanh về quy mô và chất lượng thì sẽ khó đáp ứng nổi (ví dụ TTGDCK tăng thêm số lần khớp lệnh hoặc chuyển qua giao dịch khớp lệnh liên tục). Ngoài ra, mạng lưới kinh doanh của các CTCK mới chỉ tập trung ở các thành phố lớn, chứ chưa rộng khắp trong toàn quốc.     5. Hệ thống thể chế TTCK từng bước hoàn thiện và phát triển:           - TTGDCK Thành phố Hồ Chí Minh đưa vào hoạt động từ tháng 7/2000 đang từng bước được nâng cấp, mở rộng, đáp ứng yêu cầu giao dịch cổ phiếu niêm yết của các công ty lớn.     -  TTGDCK Hà Nội hoạt động từ tháng 3/2005 đã đóng góp tích cực vào hoạt động đấu giá cổ phần hoá và giao dịch chứng khoán các doanh nghiệp chưa niêm yết.     -  Trung tâm Lưu ký Chứng khoán (TTLKCK) bắt đầu đi vào hoạt động từ tháng 5/2006 trên cơ sở tiếp nhận nhiệm vụ đăng ký, lưu ký và bù trừ thanh toán chứng khoán từ các TTGDCK. Đến nay, TTLKCK đã có 23 tổ chức tham gia hoạt động lưu ký chứng khoán, trong đó có 20 tổ chức lưu ký, 2 tổ chức tài chính và Sở giao dịch Ngân hàng Nhà nước đăng ký mở tài khoản trực tiếp. TTLKCK đã nhận lưu ký cho trên 400 triệu cổ phiếu của các công ty cổ phần, hơn 550 triệu trái phiếu và gần 50 triệu chứng chỉ quỹ. Hoạt động lưu ký thông suốt, ổn định đảm bảo thanh toán kịp thời chính xác các giao dịch chứng khoán.      Năm 2006 là năm TTCK Việt Nam phát triển bùng nổ về khối lượng giao dịch, số lượng nhà đầu tư cũng như số lượng các công ty niêm yết, đăng ký giao dịch và các tổ chức trung gian (công ty chứng khoán, quỹ đầu tư). Song bên cạnh đó, TTCK Việt Nam vẫn còn tồn tại một số hạn chế sau:     - Quy mô TTCK của Việt Nam vẫn còn nhỏ so với các nước (mức bình quân của các quốc gia trong khu vực khoảng 30-40% GDP). Nhìn chung, ngoại trừ một số công ty lớn, lĩnh vực kinh doanh tương đối ổn định, có mức tăng trưởng đều qua các năm (khoảng trên 10 công ty), còn lại phần lớn các công ty niêm yết vẫn chưa phải là những công ty lớn nhất trong nền kinh tế và chưa đại diện tiêu biểu cho các ngành kinh tế đóng góp tỷ trọng lớn vào GDP của Việt Nam. Chính vì vậy, chỉ số giá cổ phiếu VN-Index tăng, giảm thất thường và chưa trở thành phong vũ biểu của nền kinh tế. TTCK trong thời gian qua vẫn chưa đảm bảo sự tăng trưởng bền vững.     - Hệ thống các tổ chức trung gian và hỗ trợ thị trường còn nhiều hạn chế về năng lực tài chính. Mặc dù các CTCK đã phát hành thêm cổ phiếu, trái phiếu để tăng quy mô vốn hoạt động hoặc tăng vốn điều lệ từ các chủ sở hữu vốn (đối với CTCK trực thuộc các ngân hàng thương mại) nhưng nhìn chung, mức vốn điều lệ vẫn rất thấp so với các nước trong khu vực, điều này làm ảnh hưởng đến khả năng tham gia thị trường của các công ty trong vai trò tạo lập thị trường, hoặc hạn chế năng lực khi thực hiện nghiệp vụ bảo lãnh phát hành.     - Số lượng tài khoản đầu tư gia tăng nhanh, nhưng phần lớn tập trung vào tài khoản cá nhân, mua bán cổ phiếu ngắn hạn và bị chi phối rất lớn từ các nhà đầu tư lớn trên thị trường, do thiếu kỹ năng phân tích đầu tư. Một số loại hình tổ chức như công ty quản lý quỹ, quỹ đầu tư đã hình thành nhưng chưa nhiều, tỷ trọng tham gia đầu tư của các tổ chức đầu tư chuyên nghiệp (ngân hàng, bảo hiểm, quỹ đầu tư) còn hạn chế, chiếm khoảng 20% thị phần. Một số nhà đầu tư lớn nước ngoài mở tài khoản giao dịch nhưng chưa tham gia vào đầu tư (JP Morgan, Merryll Lynch…), các quỹ đầu tư nước ngoài tham gia thị trường trong nước thông qua các tài khoản uỷ thác cá nhân và đầu tư tập trung vào cổ phiếu của các doanh nghiệp cổ phần hóa, chưa tham gia đầu tư nhiều trên các TTGDCK.     - Công tác quản lý, giám sát các hoạt động và tuân thủ pháp luật trên TTCK bước đầu đã đi vào nền nếp, nhưng nhìn chung vẫn còn nhiều bất cập. Đặc biệt, trước những diễn biến mới của thị trường, đòi hỏi công tác quản lý, giám sát phải chuyên sâu và có phương tiện giám sát hiện đại (phần mềm giám sát) chứ không thuần tuý giám sát thông qua báo cáo hoặc nắm tình hình thông thường. 3.Thị trường tài chính Việt Nam sau khi gia nhập WTO A, Thị trường tín dụng Việc gia nhập WTO có thể mang lại nhiều cơ hội phát triển cho TTTC Việt Nam. Mở cửa thị trường làm tăng mức độ cạnh tranh và tính “sôi động” của thị trường. Chính phủ buộc phải giảm can thiệp trực tiếp vào hoạt động của các ngân hàng và các định chế tài chính khác, qua đó, giảm chi phí giao dịch. Nguồn vốn tín dụng trước được “dành” cho các dự án ưu tiên sẽ phải giảm dần và chuyển sang 6 những khoản đàu tư có lợi nhuận cao hơn, góp phần nâng cao hiệu quả phân bổ nguồn lực trong nền kinh tế Hai gói kích cầu của Chính phủ đang được triển khai đã giúp một lượng lớn DN có nguồn vốn rẻ để phát triển sản xuất - kinh doanh, đồng thời cũng là cơ hội cho ngân hàng (NH) tăng trưởng tín dụng. Song theo nhận định của ông Hồ Hữu Hạnh, Giám đốc Ngân hàng Nhà nước (NHNN) - Chi nhánh TP. HCM, nếu cứ theo đuổi mục tiêu tăng trưởng, nhưng lỏng lẻo trong khâu kiểm soát rủi ro thì sẽ rất nguy hiểm, vì nguy cơ nợ xấu luôn tiềm ẩn khi tốc độ tín dụng tăng trưởng cao. Thực tế, để chủ động kiểm soát lạm phát, năm 2009 Chính phủ đã có chỉ đạo và NHNN đưa ra chủ trương khống chế tăng trưởng tín dụng dưới 30%, sau đó hạ xuống 25 - 27% trước động thái đẩy mạnh vốn cho vay của các ngân hàng hơn 2 quý đầu năm. Tuy nhiên, đến cuối tháng 9/2009 vừa qua, NHNN lại nâng hạn mức tăng trưởng tín dụng của toàn ngành trong năm trở lại mức 30%. Trong báo cáo của Chính phủ trước Quốc hội phiên khai mạc Kỳ họp thứ 6 sáng 20/10 vừa qua cũng có chi tiết đáng chú ý, đó là năm 2009, Chính phủ ước tính tổng phương tiện thanh toán cả năm sẽ tăng khoảng 25%, tổng dư nợ tín dụng tăng khoảng trên 30%. Điều này có nghĩa là tăng trưởng tín dụng năm 2009 của ngành ngân hàng có thể sẽ tăng trên mức 30%, tức cao hơn giới hạn cho phép đưa ra trước đó. Báo cáo mới nhất về tình hình tiền tệ quý III được NHNN đưa ra cho thấy, tín dụng đối với nền kinh tế ước đến cuối quý III tăng khoảng 28% so với cuối năm 2008. Trong thời gian qua, khi lãi suất trên thị trường liên NH có dấu hiệu tăng, NHNN đã phải điều chỉnh lượng cung tiền qua thị trường mở. Theo nhận xét của một chuyên gia ngành NH, nếu các NH tiếp tục “tùy ý” điều chỉnh lãi suất với mục đích thu hút tiền gửi thì thị trường tiền tệ rất dễ bị tổn thương B, Thị trường chứng khoán: Việc gia nhập WTO cũng tạo điều kiện tăng cả cung lẫn cầu, nhất là cầuđầu tư chứng khoán. Những kỳ vọng về tăng trưởng kinh tế, thương mại và đầu tư có thể kích thích cầu đầu tư trên TTCK, nhất là thị trường cổ phiếu. Việc mở rộng tiếp cận thị trường có thể thúc đẩy phát triển các định chế chứng khoán trung gian (thông qua cạnh tranh, nắm bắt và chuyển giao kinh nghiệm quản lý, công nghệ, vốn...), thúc đẩy tính công khai, minh bạch và kỷ luật thị trường, qua đó thúc đẩy tăng cầu đầu tư trên thị trường (tăng tính chuyên nghiệp của nhà đầu tư, độ tin cậy đối với các công ty đại chúng/niêm yết,...) và cung chứng khoán (thông qua bảo lãnh phát hành). Tính đến thời điểm 6 tháng đầu ănm 2009, tổng giá trị vốn hoá của thị trường cổ phiếu niêm yết đã đạt trên 300 nghìn tỷ đồng, tương đương khoảng 20 tỷ USD và bằng khoảng 31% GDP. Riêng vốn hoá của thị trường trái phiếu đạt trên 80.000 tỷ đồng, bằng 8% GDP. Đó là những con số vượt trội, khi đến cuối năm 2006, tổng giá trị vốn hoá thị trường cổ phiếu niêm yết chỉ khoảng 14 tỷ USD, chiếm 22,7% GDP. Hiện tại, thị trường đã có 55 công ty chứng khoán hoạt động với vốn điều lệ bình quân khoảng 90 tỷ đồng; dự kiến đến cuối năm là khoảng 100 công ty. Ngoài ra còn có 18 công ty quản lý quỹ, 61 tổ chức lưu ký. Về số lượng nhà đầu tư tham gia, hiện có trên 200.000 tài khoản đã được mở, trong đó có 4.400 tài khoản của nhà đầu tư nước ngoài; tăng 7 lần so với năm 2005 và 1,5 lần so với năm 2006. Có 206 tổ chức đầu tư nước ngoài đăng ký tham gia thị trường và lượng vốn đầu tư gián tiếp nước ngoài ước đạt khoảng 5 tỷ USD. C,Thị trường tiền tệ Theo thống kê từ NHNN, đến cuối tháng 6-2009, lãi suất huy động VND bình quân đầu vào của các NHTM 8,2%/năm, lãi suất cho vay VND bình quân khoảng 10,04%/năm (so với cuối năm 2008, lãi suất huy động tăng 1%/năm, lãi suất cho vay giảm 3,5%/năm). Nguồn: Báo cáo SacombankSC (tính đến 29/06/2009) Lãi suất thị trường liên ngân hàng tương đối ổn định từ đầu năm đến nay; lãi suất huy động USD tối đa là 1,5%/năm, cho vay là 3 – 5%/năm (giảm 2-3%/năm so với cuối năm 2008); lãi suất cơ bản và tái cấp vốn của NHNN là 7%/năm. Mặt bằng lãi suất từ tháng 4 đến nay đã trở về thời kỳ ổn định. Nguồn: SacombankSC Theo các chuyên gia ngân hàng, trong tháng 7-2009, NHNN công bố lãi suất cơ bản là 7%/năm, cho thấy mục tiêu kiểm soát lãi suất thị trường tiếp tục theo hướng ổn định. Các căn cứ lần lượt được đưa ra là: Thứ nhất, tình hình kinh tế vĩ mô trong nước 6 tháng đầu năm có chuyển biến tích cực (GDP đạt 3,9%; chỉ số giá tiêu dùng tăng 2,68%; nhập siêu 2,1 tỷ USD). Thứ hai, hoạt động sản xuất – kinh doanh của doanh nghiệp và hộ sản xuất giảm dần khó khăn và tiếp tục phát triển, theo số liệu gần đây của Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam, có 91% số doanh nghiệp duy trì và ổn định sản xuất – kinh doanh, giữ được việc làm. Thứ ba, thị trường tiền tệ và hoạt động ngân hàng ổn định, đảm bảo an toàn, cung – cầu vốn không có biến động lớn, vốn khả dụng của các tổ chức tín dụng (TCTD) đảm bảo khả năng thanh toán, lãi suất USD giảm, tỷ giá không có biến động lớn. Thứ tư, theo dự báo của NHNN và các bộ, ngành, kinh tế trong nước và hoạt động sản xuất – kinh doanh trong những tháng cuối năm 2009 có chiều hướng ổn định và thuận lợi hơn. Tuy nhiên, theo quan sát, từ hơn một tháng nay, nhiều ngân hàng thương mại đẩy mạnh khuyến mại, tăng lãi suất để huy động VND, đã thu hẹp dần khoảng cách giữa lãi suất huy động và lãi suất cho vay tối đa (10,5%/năm). Tiền gửi VND hiện đã được hưởng mức lãi suất đỉnh, 10,2%/năm (của ngân hàng Việt Nam Tín Nghĩa). Sự ấm lên của các kênh đầu tư khác như chứng khoán, bất động sản, vàng, cũng buộc các ngân hàng phải điều chỉnh lãi suất huy động, đồng thời để chuẩn bị tốt nguồn vốn cho vay trung, dài hạn, bên cạnh đó gia tăng lợi nhuận từ cho vay tiêu dùng. Ông Nguyễn Ngọc Bảo – Vụ trưởng Vụ Chính sách tiền tệ NHNN cho rằng, sự điều chỉnh lãi suất huy động chỉ xảy ra ở một vài ngân hàng, lãi suất 10%/năm được ấn định cho kỳ hạn 2 năm trở lên. Vì vậy hiện tượng này không ảnh hưởng đáng kể đến mặt bằng lãi suất thị trường. Theo ông Bảo, lãi suất hiện nay đã trở về thời kỳ ổn định, các NHTM đã kịp thời rút ra những bài học kinh nghiệm trong năm 2008 về quản trị, điều hành vốn kinh doanh, đảm bảo cân đối nguồn vốn và sử dụng vốn, chấp hành các tỷ lệ an toàn vốn kinh doanh, không nới lỏng các điều kiện cho vay, từ đó sẽ làm cho mặt bằng lãi suất huy động và cho vay ít biến động. Biến động trên thị trường ngoại hối Trong 6 tháng đầu năm, thị trường ngoại hối có những diễn biến không thuận lợi. Do áp lực từ cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu, lo ngại rủi ro biến động tỷ giá, các doanh nghiệp có tâm lý găm giữ ngoại tệ. Mặt khác, do tác động phụ của chính sách hỗ trợ lãi suất cho vay bằng VND và việc điều chỉnh giảm lãi suất cơ bản bằng VND, nhiều doanh nghiệp không muốn vay ngoại tệ mà chuyển sang vay VND để mua ngoại tệ dẫn đến nhu cầu mua ngoại tệ tăng mạnh, tình hình cung cầu ngoại tệ trở nên căng thẳng.  Diễn biến USD tháng 5/2009 (nguồn: ACB) Diễn biến USD tháng 6/2009 (nguồn: ACB) Để tăng nguồn cung và ổn định thị trường ngoại tệ, Ngân hàng Nhà nước đã triển khai quyết liệt nhiều giải pháp, phải kể đến việc mở rộng biên độ ấn định tỷ giá mua bán USD/VND của các ngân hàng thương mại từ +3% lên +5% so với tỷ giá bình quân liên ngân hàng. Đồng thời, NHNN cũng tiến hành một loạt các biện pháp nhằm chấn chỉnh hoạt động của thị trường ngoại hối. Đặc biệt, nhằm hạn chế tâm lý găm giữ ngoại tệ của các doanh nghiệp và người dân NHNN đã yêu cầu các ngân hàng thương mại nhà nước giảm lãi suất cho vay và huy động bằng ngoại tệ (lãi suất cho vay giảm từ mức 6 – 6,5%/năm xuống không quá 4%/năm kể từ ngày 15/4/2009 và giảm tiếp xuống mức không quá 3%/năm kể từ ngày 01/6/2009, lãi suất huy động giảm xuống mức không quá 1,5%/năm kể từ ngày 01/6/2009). Tuy nhiên, điều đó đã không tác động nhiều đến tâm lý găm giữ ngoại tệ của người dân và doanh nghiệp. Nguyên nhân được xác định là do người

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docTự do hóa lãi suất của Việt Nam trong quá trình hội nhập.doc
Tài liệu liên quan