Tiểu luận Trí nhớ, trí nhớ lôgíc và các biện pháp rèn luyện các phẩm chất trí nhớ lôgic cho học viên tại Học viện Kỹ thuật quân sự

Tư duy vừa là một quá trình, vừa là một hoạt động trí nhớ của con người để nhận thức các sự vật, hiện tượng. Hoạt động trí nhớ muốn đạt được hiệu quả cao cần phải thông qua các hành động ghi nhớ cũng chính là hoạt động tư duy, thao tác tư duy. Nói cách khác bằng các thao tác như phân tích, tổng hợp, so sánh, trìu tượng hoá, khái quát hoá v.v đến việc hình thành khái niệm, ghi nhớ trong đầu óc của mỗi chúng ta đều là những hình dạng của tư duy. Việc hình thành khái niệm chính là để phản ánh đầy đủ những thuộc tính, mối quan hệ có tính qui luật, bản chất của sự vật, hiện tượng vào trong đầu óc con người một cách hoàn chỉnh nhất. Quá trình ghi nhớ, lưu giữ và tái hiện có diễn ra một cách hiệu quả hay không cũng chính là phụ thuộc vào các thao tác tư duy ấy. Trong ghi nhớ tài liệu, nhờ các thao tác tư duy mà người học có thể tái hiện lại sự vật, hiện tượng. Do đó khi đề cập đến vấn đề trí nhớ, đến đặc trưng của trí nhớ lôgíc không thể nghiên cứu tách rời với tư duy, nói cách khác tư duy là cơ sở là nền tảng để hình thành, củng cố và phát triển trí nhớ lôgíc.

 

doc17 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 6997 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tiểu luận Trí nhớ, trí nhớ lôgíc và các biện pháp rèn luyện các phẩm chất trí nhớ lôgic cho học viên tại Học viện Kỹ thuật quân sự, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ất trí nhớ lôgic cho học viên tại Học viện Kỹ thuật quân sự. Với mong muốn xem xét, nhìn nhận lại đồng thời củng cố và phát triển trí nhớ cho học viên trong học tập và nghiên cứu khoa học. NỘI DUNG I-Cơ sở lý luận và thực tiễn của các biện pháp tâm lý nhằm phát triển trí nhớ lôgíc cho học viên trong học tập, nghiên cứu khoa học ở HVKTQS. 1. Cơ sở lý luận 1.1. Các khái niệm cơ bản a. Trí nhớ Trí nhớ – vấn đề trung tâm trong mọi hoạt động của con người đặc biệt là trong lĩnh hội tri thức, tích luỹ vốn kinh nghiệm và vận dụng chúng vào trong hoạt động thực tiễn. Ngay từ thời cổ đại đã có rất nhiều nhà khoa học tập trung nghiên cứu về vấn đề trí nhớ, cùng với sự phát triển của lịch sử xã hội loài người, ngày nay vấn đề trí nhớ đã trở thành đối tượng nghiên cứu của nhiều nhà khoa học, nhiều ngành khoa học. Tuy nhiên, trí nhớ theo quan điểm của chủ nghĩa Mác Lênin đến nay vẫn được coi là chính xác nhất.Trí nhớ là các quá trình ghi nhớ giữ lại và tái hiện những kinh nghiệm đã trải qua của con người. Trí nhớ là một hoạt động tâm lý phức tạp bao gồm các quá trình cơ bản : ghi nhớ, giữ lại tái hiện (nhớ lại nhận lại). Các quá trình trên có quan hệ chặt chẽ với nhau, bổ sung cho nhau trong một thể thống nhất tạo nên kho tàng trí nhớ của con người. Trí nhớ phụ thuộc vào nhiều yếu tố như: nội dung, tính chất của tài liệu cần nhớ, phương pháp ghi nhớ…Cơ sở sinh lý của trí nhớ là sự thiết lập, giữ lại và xuất hiện trở lại những đường liên hệ thần kinh tạm thời và những biến đổi sinh hóa, điện sinh diễn ra trong vỏ não và phần dưới vỏ của con người. Những đường liên hệ thần kinh tạm thời đó được củng cố tương đối vững chắc nhờ có sự lặp đi lặp lại nhiều lần và có thời gian nhất định để củng cố. b. Trí nhớ lôgíc và trí nhớ lôgíc của học viên quân sự Cũng giống như trí nhớ, nghiên cứu về trí nhớ lôgíc cũng có nhiều quan điểm khác nhau. Đây là loại trí nhớ phản ánh những ý nghĩa, tư tưởng của con người. Trong đó hệ thống tín hiệu thứ hai có vai trò quyết định đối với loại trí nhớ này. Loại trí nhớ này ngày càng chiếm vị trí quan trọng, chủ động ở con người, nó chi phối cả sự phát triển của các loại trí nhớ khác và giữ vai trò chính trong sự lĩnh hội của con người. Ta có thể rút ra một số kết luận : Trí nhớ lôgic là một kiểu loại trí nhớ cao nhất trong các kiểu loại trí nhớ của người học Trí nhớ lôgic chủ yếu dựa trên sự thông hiểu nội dung, ý nghĩa và bản chất của vấn đề cần nhớ. Trí nhớ lôgic gắn liền với quá trình tư duy và tưởng tượng Trí nhớ lôgic là một dạng hoạt động ở Học viện Kỹ thuật quân sự, với nhiệm vụ là đào tạo đội ngũ cán bộ sỹ quan khoa học phục vụ cho quân đội. Hoạt động trung tâm chủ yếu là hoạt động dạy học, giáo dục và rèn luyện người học nhằm trang bị cho họ một hệ thống kiến thức, kỹ năng, kỹ xảo, phát triển khả năng tư duy sáng tạo hình thành những phẩm chất nhân cách của người sĩ quan trong tương lai. Trí nhớ lôgíc của học viên quân sự được hình thành và phát triển một phần nhờ như vậy. Dưới góc độ tâm lý học có thể xem xét trí nhớ lôgíc của học viên quân sự dưới các khía cạnh sau: Thứ nhất: Trí nhớ lôgíc của học viên quân sự là loại trí nhớ gắn liền với đặc thù hoạt động quân sự, nhằm mục đích ghi nhớ đầy đủ các nội dung huấn luyện theo mục tiêu, yêu cầu đào tạo đã được đặt ra trước khi lĩnh hội tri thức, kỹ năng, kỹ xảo, kinh nghiệm, năng lực hoạt động được người dạy truyền thụ theo chuyên ngành đào tạo để vận dụng, phát triển nó trong hoạt động thực tiễn sau này. Thứ hai: Nội dung các tài liệu cần nhớ rất rộng và sâu, bao gồm hệ thống các kiến thức khoa học cơ bản, khoa học cơ sở chuyên ngành, các kỹ xảo, kỹ năng nghề nghiệp quân sự, hệ thống những kinh nghiệm hoạt động sáng tạo, hệ thống các chuẩn mực giá trị về thái độ hành vi, nhân cách quân nhân và trình độ nhận thức đối với các vấn đề tự nhiên, xã hội, quân đội trong quá khứ và tương lai. Thứ ba: Việc phát triển trí nhớ lôgíc của học viên cấp quân sự diễn ra trong sự phối hợp hoạt động của người dạy và người học thể hiện ở việc người dạy tổ chức, rèn luyện phương pháp nhớ lôgíc cho người học, đồng thời người học tự tổ chức ra các phương pháp rèn luyện trí nhớ lôgíc trên cơ sở nắm vững nội dung, ý nghĩa, bản chất của vấn đề cần nhớ. Thứ tư: Trí nhớ lôgíc của học viên quân sự luôn luôn vận động và phát triển, xong sự phát triển như thế nào điều đó phụ thuộc vào khả năng suy luận lôgíc của từng học viên, vào việc sử dụng các cách thức, biện pháp, công cụ, phương pháp nhớ cho phù hợp với bản thân để lĩnh hội nội dung học tập một cách nhanh nhất, đầy đủ nhất và chính xác nhất, đúng với mục tiêu, yêu cầu đào tạo của nhà trường đã đặt ra. Thứ năm: Nội dung của trí nhớ lôgíc phản ánh ý nghĩa tư tưởng của con người, của hoạt động quân sự gắn với chức trách, chuyên môn của từng quân nhân. Như vậy, trí nhớ lôgíc của học viên quân sự là loại trí nhớ dựa trên việc nắm chắc bản chất, nội dung và ý nghĩa của các tài liệu cần nhớ, tìm ra các điểm tựa trong nội dung chínhvà các mối liên hệ, tính lôgíc của tài liệu cần nhớ từ đó hình dung và nhớ lại. Trong quá trình nhớ lôgíc có thể sử dụng ngôn ngữ nói, viết tóm tắt, biểu diễn lại bằng sơ đồ, biểu đồ theo một trình tự nhất định, trí nhớ lôgíc lưu giữ các tài liệu lâu dài và vững chắc vì vậy khi quên có thể suy luận nhanh chóng nhớ lại, hiệu quả của việc ghi nhớ này rõ ràng cao hơn hẳn trí nhớ máy móc. c. Phát triển trí nhớ lôgíc của học viên cấp phân đội Khái niệm về phát triển, phát triển trí nhớ lôgíc được đề cập và sử dụng trong nhiều lĩnh vực khoa học và đời sống. Theo Từ điển tiếng việt thì: “Phát triển là biến đổi hoặc làm cho biến đổi từ ít đến nhiều, hẹp đến rộng, thấp đến cao, đơn giản đến phức tạp”. Cũng trên quan điểm ấy, qua thực tiễn nghiên cứu các nhà kinh điển Mác- Lênin khẳng định rằng: đã nói đến phát triển là có sự biến đổi, nhưng không phải mọi sự biến đổi đều đồng nghĩa với sự phát triển mà sự biến đổi đó phải là sự biến đổi về chất, biến đổi theo sự tiến bộ, theo hướng đi lên. Dưới góc độ tâm lý học, cũng có nhiều quan điểm và cách giải thích khác nhau về sự phát triển và phát triển trí nhớ lôgíc. Từ những quan điểm chung về phát triển trí nhớ lôgíc và xuất phát từ đặc điểm hoạt động học tập của học viên cấp phân đội ở Học viện Kỹ thuật quân sự tôi cho rằng: Phát triển trí nhớ lôgíc cho học viên quân sự là quá trình tác động sư phạm tạo ra sự biến đổi về chất trong hoạt động nhận thức, đặc trưng ở sự tiến bộ, đi lên trong ghi nhớ, lưu giữ và tái hiện lại tài liệu đã tri giác một cách chính xác, linh hoạt, độc đáo và sáng tạo của người học nhằm thực hiện các nhiệm vụ học tập theo chương trình đào tạo. Như vậy sự phát triển trí nhớ lôgíc của học viên quân sự được nghiên cứu trong giới hạn trong hoạt động nhận thức, tức là hoạt động phản ánh bản thân hiện thực khách quan (tự nhiên xã hội) của người học. Vì vậy khi nghiên cứu tìm hiểu đánh giá về sự phát triển trí nhớ lôgíc của học viên quân sự cần đặt trong hoạt động nhận thức và những đặc tính vốn có của lứa tuổi thanh niên như tính linh hoạt, tính sáng tạo, khả năng tư duy và ứng dụng biểu hiện cụ thể trong phát hiện vấn đề, trong sử dụng kiến thức đã ghi nhớ được để vận dụng giải quyết vấn đề mà thực tiễn đặt ra hay trong tính tích cực của việc rèn luyện khả năng nhớ lôgíc theo trật tự vấn đề. 2. Những đặc trưng cơ bản của trí nhớ lôgíc 2.1. Dựa trên cơ sở tìm ra mối quan hệ bên trong có tính quy luật của trí thức, nắm vững nội dung, ý nghĩa của vấn đề Đây là đặc trưng nổi bật nhất của trí nhớ lôgíc, đặc trưng phản ánh của trí nhớ lôgíc, từ việc người học tri giác tài liệu bằng các giác quan, sự vật, hiện tượng được phản ánh vào trong bộ óc của con người, những tài liệu ấy được phản ánh một cách chính xác, đầy đủ hay không điều đó phụ thuộc vào khả năng nhớ của mỗi cá nhân. ở mỗi một hoạt động của con người đều có sự tham gia chỉ đạo của trí nhớ do đó muốn nâng cao hiệu quả hoạt động thực tiễn thì trước hết cần phải nâng cao hiệu quả của hành động ghi nhớ theo một lôgíc nhất định của sự vật, hiện tượng. Nếu xét ở hình thức trí nhớ lôgíc thì nó thuộc về chủ quan nhưng nó lại là sản phẩm của bộ óc mỗi một người do đó xét về nội dung của trí nhớ lôgíc thì nó lại thuộc về khách quan do hiện thực khách quan qui định. 2.2. Quá trình ghi nhớ gắn liền với quá trình phát triển tư duy và tưởng tượng nhằm nắm lấy lôgíc nội tại của vấn đề cần nhớ Hoạt động nhận thức của người học là hoạt động đòi hỏi phải huy động cao về trí tuệ và sức lực. Quá trình phản ánh các hiện thực khách quan vào trong não người mang tính chủ thể, phản ánh một cách đầy đủ chính xác, khái quát các thuộc tính, các mối liên hệ có tính quy luật của sự vật, hiện tượng hay là phản ánh một cách cụ thể, đơn giản, bề ngoài, điều đó phụ thuộc vào khả năng tư duy của mỗi người. Tư duy là quá trình nhận thức lý tính nghĩa là nó phản ánh gián tiếp, khái quát các thuộc tính, bản chất qui luật của sự vật, hiện tượng khi chúng không trực tiếp tác động vào các giác quan của con người. Tư duy vừa là một quá trình, vừa là một hoạt động trí nhớ của con người để nhận thức các sự vật, hiện tượng. Hoạt động trí nhớ muốn đạt được hiệu quả cao cần phải thông qua các hành động ghi nhớ cũng chính là hoạt động tư duy, thao tác tư duy. Nói cách khác bằng các thao tác như phân tích, tổng hợp, so sánh, trìu tượng hoá, khái quát hoá v.v… đến việc hình thành khái niệm, ghi nhớ trong đầu óc của mỗi chúng ta đều là những hình dạng của tư duy. Việc hình thành khái niệm chính là để phản ánh đầy đủ những thuộc tính, mối quan hệ có tính qui luật, bản chất của sự vật, hiện tượng vào trong đầu óc con người một cách hoàn chỉnh nhất. Quá trình ghi nhớ, lưu giữ và tái hiện có diễn ra một cách hiệu quả hay không cũng chính là phụ thuộc vào các thao tác tư duy ấy. Trong ghi nhớ tài liệu, nhờ các thao tác tư duy mà người học có thể tái hiện lại sự vật, hiện tượng. Do đó khi đề cập đến vấn đề trí nhớ, đến đặc trưng của trí nhớ lôgíc không thể nghiên cứu tách rời với tư duy, nói cách khác tư duy là cơ sở là nền tảng để hình thành, củng cố và phát triển trí nhớ lôgíc. Cùng với tư duy, các quá trình trí nhớ cũng gắn chặt với quá trình tưởng tượng của người học. Tưởng tượng là một quá trình tâm lý nhận thức mà trong đó con người tạo ra những biểu tượng mới trên cơ sở những kinh nghiệm đã qua. Tưởng tượng là quá trình tạo dựng nên cái mới, cái sáng tạo trên cơ sở cải tạo các biểu tượng cũ trong ký ức của mỗi người tức là quá trình phản ánh hiện thực đã được trải nghiệm. Quá trình tưởng tượng để tạo ra hình ảnh về sự vật, hiện tượng suy cho cùng xuất phát từ hiện thực khách quan, do hoạt động nhận thức, hoạt động thực tiễn của con người quy định, từ đó đối chiếu, so sánh những biểu tượng của mình xây dựng trong trí nhớ với hiện tượng khách quan tồn tại bên ngoài qua đó sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện làm cho biểu tượng của tưởng tượng trở lên phong phú, đầy đủ, chính xác và rõ ràng hơn. Đối với hoạt động học tập nói riêng và hoạt động thực tiễn của con người nói chung, biểu tượng giữ vai trò quan trọng, giúp cho người học tưởng tượng lại các vấn đề học tập đã được lĩnh hội qua quá trình nghe giảng, ghi chép, nghiên cứu, qua trải nghiệm thực tiễn của bản thân. Sự phát triển cao của trí nhớ lôgíc là biểu hiện của trí tưởng tượng cao mà người học đạt được phản ánh trình độ tưởng tượng phong phú và đa dạng. Để ghi nhớ chính xác một nội dung của một vấn đề nào đó, trí tưởng tượng được xem là một phương thức lĩnh hội hiệu quả nhất, sự biểu tượng về nội dung học tập, về vấn đề học tập chỉ là sự tái hiện đạt hiệu quả cao của người học mà thôi. Tóm lại, quá trình ghi nhớ, lưu giữ và tái hiện các tri thức khoa học của học viên trong học tập không thể tách rời với quá trình tư duy và tưởng tượng. Đây là đặc trưng phản ánh nhất của trí nhớ lôgíc, đi từ tư duy lôgíc đến tưởng tượng lôgíc mà người học ghi nhớ chính xác đầy đủ theo lôgíc của sự vật, hiện tượng. Đó là cơ sở, là nền tảng để người học ghi nhớ và lưu giữ tài liệu được lâu dài sau quá trình học tập. Nói cách khác tư duy và tưởng tượng là phương thức ghi nhớ nhằm nắm lấy lôgíc nội tại của vấn đề lưu giữ trong đầu óc của con người. 2.3.Hệ thống tín hiệu thứ hai (ngôn ngữ) có vai trò quyết định đến sự hình thành và phát triển trí nhớ lôgíc Khác với các loại trí nhớ thông thường, trí nhớ lôgíc là loại trí nhớ mà nội dung phản ánh là những ý nghĩa, tư tưởng của con người, phản ánh một cách tích cực chủ động và phát triển, nó thể hiện trình độ cao hơn hẳn so với trí nhớ thông thường. Đối với các loại trí nhớ thông thường thì hệ thống tín hiệu thứ nhất (những kích thích) giữ vai trò quyết định đến sự hình thành, phát triển, loại trí nhớ này thường gắn với những kích thích tác động trực tiếp lên các cơ quan cảm giác của con người, các cử chỉ, hành động hay những dung cảm của chủ thể ghi nhớ. Nhưng đối với trí nhớ lôgíc thì đòi hỏi cao hơn nghĩa là để nhớ được nội dung tài liệu, không chỉ đơn thuần dựa trên những kích thích, cử chỉ hành động, tác động vào các giác quan cảm giác mà còn cần có sự tác động của hệ thống tin hiệu thứ 2 (ngôn ngữ). Hệ thống tín hiệu thứ hai không chỉ là đối tượng của trí nhớ lôgíc mà còn là sản phẩm, biểu hiện của trí nhớ lôgíc là nhân tố cơ bản đóng vai trò quyết định để thiết lập trí nhớ lôgíc, người học muốn phát triển trí nhớ lôgíc thì trước hết phải căn cứ vào hệ thống tín hiệu thứ 2. Ii -Một số biện pháp tâm lý nhằm phát triển trí nhớ lôgíc cho học viên quân sự trong học tập tại học viện kỹ thuật quân sự 1.Nhóm biện pháp tâm lý giáo dục tác động vào ý thức của người học viên a. Thường xuyên quán triệt mục tiêu, yêu cầu đào tạo của Học viện tới từng học viên Đây là biện pháp tâm lý quan trọng, tác động trực tiếp đến nhận thức của học viên, đến sự hình thành và phát triển trí nhớ lôgíc, đến tính tích cực trong hoạt động ghi nhớ, là cơ sở xác định nội dung, phương pháp, cách thức nhớ cho phù hợp với mục tiêu, yêu cầu đào tạo đã được đặt ra. Vấn đề mục tiêu, yêu cầu đào tạo không phải là điều gì mới mẻ. Tuy nhiên, xung quanh vấn đề mục tiêu, yêu cầu đào tạo vẫn còn nhiều vấn đề phải bàn. Đối với mỗi học viên, chỉ có động cơ học tập thôi thì chưa đủ. Động cơ là cái cần thiết, là cơ sở của tính tích cực học tập và rèn luyện. Động cơ thôi thúc sự chăm chú cần cù, tập trung say mê mệt mài lao động. Nhưng bất cứ học viên nào muốn thành đạt phải nắm được mục đích học tập hiện thân ở mục tiêu, yêu cầu đào tạo, mục tiêu này phải được học viên ý thức và trở thành mục đích của bản thân họ.Việc quán triệt mục tiêu, yêu cầu đối với học viên diễn ra thường xuyên liên tục giúp học viên biết được phải tập trung cố gắng ưu tiên vào những môn học nào phải lĩnh hội những kiến thức nào, phải biết làm những việc gì theo đòi hỏi của chức danh sẽ đảm nhiệm sau khi tốt nghiệp. Biết được phải tu dưỡng rèn luyện những phẩm chất chính trị, đạo đức nào mà vị trí lãnh đạo, chỉ huy tương lai đòi hỏi họ phải có, biết được căn cứ để tự so sánh mức phát triển tiến bộ của bản thân so với mục tiêu, yêu cầu đào tạo để có hướng phát huy thành tích, bổ sung những chỗ thiếu sót, chấn chỉnh những sai lầm, tự đánh giá là điều kiện rất cần thiết cho quá trình tự đào tạo. Không thể xem thường việc quán triệt mục tiêu, yêu cầu đào tạo tới học viên, không thể vừa lòng với việc chỉ giới thiệu qua loa, sơ sài mục tiêu, yêu cầu đào tạo trong tiết mục động viên nhập học vào đầu khoá coi vậy là xong. Vì vậy, để phát triển trí nhớ lôgíc cho học viên nói riêng, nâng cao chất lượng học tập nói chung theo chúng tôi thường xuyên quán triệt mục tiêu, yêu cầu đào tạo đến từng học viên là một trong những biện pháp quan trọng. b. Xây dựng động cơ, mục đích học tập đúng đắn, phát huy tính tích cực học tập cho người học Trí nhớ lôgíc của học viên là một hoạt động nhận thức của người học diễn ra trong điều kiện dạy học ở nhà trường quân sự. Hoạt động trí nhớ lôgíc của học viên bao giờ cũng được thôi thúc bởi những động cơ nhất định nhằm đạt được mục đích đề ra và được thể hiện bởi cách thức, thủ pháp nhất định. Động cơ, mục đích là những thành phần tâm lý quan trọng trong cấu trúc tâm lý của hoạt động trí nhớ, là cơ sở tạo nên tính tích cực cá nhân, bảo đảm cho trí nhớ hoạt động đạt chất lượng và hiệu quả cao. Động cơ hoạt động trí nhớ của các học viên là các tri thức, kỹ xảo, kỹ năng cần chiếm lĩnh, kích thích thúc đẩy hoạt động học tập của học viên đạt được kết quả nhận thức và hình thành phát triển nhân cách theo đòi hỏi của mục tiêu đào tạo. Trả lời cho câu hỏi học cái gì? Tại sao phải học? Động cơ hoạt động trí nhớ của học viên có nguồn gốc từ nhu cầu hoạt động nhận thức, nhu cầu thông tin v.v.. biểu hiện trong các đối tượng học tập. Động cơ phát triển trí nhớ lôgíc cho học viên bao gồm cả các động cơ xã hội, nhận thức khoa học, nghề nghiệp quân sự, động cơ tự khẳng định, động cơ tư lợi cá nhân. Để học viên có được động cơ, mục đích học tập đúng đắn, mạnh mẽ cần thực hiện tốt các yêu cầu sau: - Coi trọng công tác giáo dục nhập học, làm rõ mục tiêu đào tạo của nhà trường, gồm cả mục tiêu của cả khoá học, của từng giai đoạn huấn luyện đến từng môn học, bài học, từng vấn đề nghiên cứu nhằm làm cho học viên ý thức sâu sắc nhiệm vụ học tập, chấp nhận mâu thuẫn, hình thành nhu cầu giải quyết mâu thuẫn. - Thông qua giáo dục - huấn luyện cần giúp học viên hiểu rõ về ý nghĩa của lý luận và thực tiễn của kiến thức được lĩnh hội đối với hoạt động nghề nghiệp, chức trách sau khi ra trường. - Bồi dưỡng nâng cao thái độ trách nhiệm, động viên khích lệ tinh thần trách nhiệm, miệt mài say sưa nghiên cứu xây dựng niềm tin cá nhân, thái độ cầu thị, sẵn sàng khắc phục mọi khó khăn vươn lên trong học tập. - Trong quá trình giảng dạy giáo viên vẫn chú ý các biện pháp tạo động lực kích thích tính tích cực của học viên đối với hoạt động nhận thức trí nhớ như: hình thức xúc cảm của các thông tin khoa học được trình bày trong bài giảng; sự mở rộng nội dung và cái mới của tài liệu học tập, tạo ra các mâu thuẫn nhận thức thông qua việc lựa chọn các tài liệu phù hợp. - Cần làm phong phú các thành phần động cơ học tập của học viên, gia tăng số lượng các động cơ tích cực trong các hành động ghi nhớ trong mỗi tiết học, buổi học. - Tăng cường độ kích thích của các động cơ học tập trong lao động trí tuệ căng thẳng ở giảng đường, trong giờ lên lớp cũng như trong hoạt động độc lập của học viên ngoài giờ học. - Tăng cường tính nêu vấn đề trong bài giảng, trong giờ thảo luận, trong những hoạt động nghiên cứu khoa học cũng là những biện pháp nhằm phát triển các động cơ, mục đích hoạt động trí nhớ góp phần phát triển trí nhớ lôgíc của học viên trong quá trình đào tạo. c. Đổi mới nội dung, phương pháp dạy học cho phù hợp với đặc điểm trí nhớ lôgíc của học viên Đây là biện pháp tâm lý rất quan trọng, quyết định trực tiếp đến sự phát triển của trí nhớ. Bởi vì, đó là những cách thức, những biện pháp cơ bản, là con đường để thực hiện mục đích. Thực tiễn hoạt động đã chứng minh có đổi mới nội dung, phương pháp dạy học cho phù hợp thì hoạt động mới đạt được kết quả cao. Nội dung dạy học trong nhà trường quân sự là hệ thống kiến thức khoa học, kỹ xảo, kỹ năng nghiệp vụ, phương pháp sáng tạo, chuẩn mực giá trị mà học viên cần chiếm lĩnh để hình thành, phát triển năng lực của người cán bộ quân đội. Phương pháp dạy học nói lên cách phối hợp trách nhiệm tổ chức học tập của người dạy với người học giúp người học chiếm lĩnh được toàn bộ kiến thức. Sự phát triển cao hay thấp, mạnh hay yếu của trí nhớ lôgíc của học viên phụ thuộc trực tiếp vào cách thức tác động trong tổ chức các hoạt động ghi nhớ cho học viên của người dạy. Nội dung, phương pháp dạy học khác nhau thì khả năng phát triển trí nhớ lôgíc của học viên cũng khác nhau. Đổi mới nội dung, phương pháp dạy học phải hướng vào thực hiện tốt mục đích, nhiệm vụ, yêu cầu của môn học, bài học đặt theo mục tiêu, yêu cầu chung của khoá học. Đổi mới nội dung, phương pháp dạy học phải căn cứ vào tính chất, đặc điểm tầm quan trọng từng loại nội dung tài liệu cần ghi nhớ, để lựa chọn cấu trúc, thiết kế các hành động dạy học theo hướng phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của người học. Cần phát huy tốt nhất các phương tiện kỹ thuật, hệ thống tài liệu, cơ sở vật chất, khí tài trang bị hiện có của nhà trường, khoa, bộ môn trong điều kiện không gian, thời gian xác định. Đổi mới nội dung, phương pháp dạy học phải căn cứ vào năng lực sư phạm, sở trường trường giáo viên và đặc điểm khả năng nhận thức, cách thức tổ chức hành động ghi nhớ của người học. 2. Nhóm biện pháp tâm lý nhằm xây dựng môi trường học tập tích cực cho học viên a. Xây dựng môi trường tập thể học viên đoàn kết, thống nhất Tập thể học viên, môi trường sư phạm quân sự là một trong những yếu tố quan trọng quy định đến tính tích cực của học viên, ảnh hưởng đến chất lượng học tập nói chung, sự hình thành và phát triển trí nhớ nói riêng. Tập thể học viên đoàn kết thống nhất thể hiện ở việc cùng nhau tổ chức học tập, rèn luyện, cùng nhau phối hợp hiệp đồng trong học tập, công tác. Các nhu cầu, động cơ học tập, nhu cầu tự khẳng định mình, nhu cầu lợi ích cá nhân và trách nhiệm của mỗi người học viên đối với tập thể được hình thành, củng cố và phát triển trong tập thể, thông qua tập thể. Mặt khác, hoạt động lĩnh vực quân sự là hoạt động tập thể “Đoàn kết hiệp đồng, lập công tập thể” là nguyên tắc trong tổ chức thực hiện tất cả các nhiệm vụ. Do đó người học viên không thể tự tách mình ra hoạt động độc lập mà đòi hỏi phải có sự phối hợp chặt chẽ giữa các vị trí theo chức trách chuyên môn, theo khả năng đóng góp của từng người. Vì vậy, sự đoàn kết hiệp đồng, sự hiểu biết sâu sắc sẽ tạo ra những tác động tích cực đến sự phát triển của trí nhớ lôgíc. Xây dựng tập thể học viên phải thường xuyên quan tâm đến xây dựng, phát triển mối quan hệ tích cực giữa cán bộ quản lý các cấp với học viên, giữa học viên với học viên và mối quan hệ giữa các lớp với nhau, với khoa, với bộ môn, với các giáo viên, thông qua các quan hệ để hiểu biết lẫn nhau tạo nên sự đồng cảm, ảnh hưởng tích cực đến nhau, tạo dựng được bầu không khí tâm lý chính trị đạo đức lành mạnh, đoàn kết giúp đỡ, quan tâm đến nhau cùng nhau tiến bộ trưởng thành. Xây dựng quan hệ tích cực giữa các học viên tạo điều kiện cho họ giúp đỡ nhau trong học tập, hình thành các đôi bạn học tốt, thường xuyên trao đổi, phổ biến kinh nghiệm, học hỏi cách học, cách nhớ của nhau, cùng thi đua học tốt, rèn tốt, phê bình sửa chữa khuyết điểm cho nhau. Mặt khác, thông qua mối quan hệ của tập thể lớp với khoa, bộ môn, các giáo viên tạo nên tình cảm của thầy trò gần gũi động viên kích lệ nhau cùng hoàn thành nhiệm vụ. b. Nâng cao chất lượng tài liệu học tập, chất lượng các điều kiện, phương tiện hỗ trợ cho học tập Đây là biện pháp tâm lý quan trọng góp phần vào việc phát triển trí nhớ lôgíc cho học viên. Tài liệu học tập (giáo trình, giáo khoa) là hình thức thể hiện nội dung dạy học, là đối tượng người học cần ghi nhớ, nguồn cung cấp cho người học nhiều tri thức lý luận, phương pháp luận khoa học mà trong giảng dạy, người giáo viên không thể trang bị đầy đủ. Các điều kiện, phương tiện bổ trợ cho dạy và học. Hình thức thể hiện bài giảng, bài học một cách sinh động, hấp dẫn sâu sắc, tạo sự hứng thú cho người học, tác động trực tiếp vào cảm giác, tạo sự hứng thú cho người học, tác động trực tiếp vào cảm giác, tri thức của người học, giảm nhẹ thuyết trình, tăng thực hành, kích thích khả năng ghi nhớ của người học. Bên cạnh việc sử dụng giữ tốt dùng bền các tài liệu có sẵn, học viên cần phối hợp các khoa, giáo viên biên soạn những giáo trình phù hợp với học viên, đảm bảo đủ tiêu chuẩn chất lượng cũng như số lượng. Trong thời đại hiện nay, áp dụng các phương tiện dạy học hiện đại mà nhà trường đã trang bị được một cách linh hoạt vào các bài giảng nhằm nâng cao hơn nữa chất lượng các bài giảng. Giúp cho học viên dễ dàng ghi nhớ và nhớ lâu hơn. 3. Nhóm biện pháp tác động vào phương pháp nhớ của học viên Đây là biện pháp quan trọng nhất, suy đến cùng quyết định quá trình hình thành và phát triển trí nhớ lôgíc của người học. ở Học viện Kỹ thuật quân sự một lúc phải tiếp xúc với nhiều môn học để ghi nhớ được nhiều tài liệu cùng một lúc thì cần phải có phương pháp nhớ, nói cách khác để phát triển trí nhớ lôgíc thì cần phải có phương pháp nhớ hiệu quả. Muốn vậy người học viên nên thực hiện 2 phương pháp nhớ sau: - Nhớ cá biệt: là phương pháp nhớ do từng cá nhân xây dựng nên. Nhớ lôgíc, nhớ máy móc, nhớ bằng kỹ thuật riêng là do cá nhân lựa chọn sao cho phù hợp với khả năng của từng người, phù hợp với đối tượng tài liệu cần nhớ. Phương pháp này nhớ không mang tính toàn diện nhưng chuyên sâu vào từng nội dung, từng vấn đề quan trọng một. - Nhớ toàn diện: là phương pháp nhớ toàn bộ tài liệu học tập từ những đặc điểm cơ bản, tính chất yêu cầu của nội dung học tập đến những khái niệm, từng chương, từng mục; từ khâu giới thiệu đến khâu kết luận. Người học phải ghi nhớ đầy đủ từ đó lần ra những đường liên hệ giữa chúng dựa trên các “điểm tựa” để nhớ lại khi cần thiết. Đó là hai phương pháp chung phù hợp với nhiều đối tượng khác nhau. Tuy nhiên để người học có thể ứng dụng được vào trong quá trình học tập của mình không phải là vấn đề một sớm một chiều mà là cả một quá trình đòi hỏi n

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docTrí nhớ, trí nhớ lôgíc và các biện pháp rèn luyện các phẩm chất trí nhớ lôgic cho học viên tại Học viện Kỹ thuật quân sự.doc
Tài liệu liên quan