Tiểu luận Triết lý kinh doanh của các doanh nghiệp Việt Nam trong thời kỳ hội nhập

Vị trí của các doanh nghiệp Nhà nước: Bộ phận doanh nghiệp Nhà nước từ

trước đến nay vẫn được xem là thành phần kinh tế chủ đạo của nền kinh tế nước ta.

Tình hình hoạt động của các doanh nghiệp: Hiệu quả hoạt động của các

doanh nghiệp còn ở mức thấp so với các nguồn lực của nó. Số lượng các doanh

nghiệp Nhà nước có quy mô nhỏ, phấn tán nhưng với số doanh nghiệp nhiều nên

số tài sản trong khu vực kinh tế khá lớn.

Quá trình hình thành và phát triển của Triết lý kinh doanh: Đại đa số các

doanh nghiệp Nhà nước hiện nay chưa có triết lý kinh doanh bến vững, được trình

bày rõ ràng với đầy đủ chức năng, giá trị của nó. Nhà nước chưa đặt vấn đề cần

xây dựng một triết lý kinh doanh chung cũng như các triết lý kinh doanh phù hợp

với đặc thù mỗi doanh nghiệp.

Các doanh nghiệp vẫn chủ yếu nhấn mạnh vào các yếu tố lượng của kinh

doanh thể hiện trong các chỉ tiêu cụ thể như: doanh số, lợi nhuận, nộp ngân sách,

thuế mà chưa chú ý tới các hệ giá trị của doanh nghiệp, điều này chứng tỏ chưa

có sự chú trọng đến sự phát triển bền vững của doanh nghiệp.

Trên thực tế, các điều kiện như thực tiễn kinh doanh và sự kế thừa về lý

tưởng, kinh nghiệm và triết lý ở các doanh nghiệp Nhà nước ở ta còn yếu ớt, thời

hạn, quyền hạn, chức năng của người lãnh đạo doanh nghiệp Nhà nước chưa rõ

ràng và ổn định. Như chúng ta đã biết, muốn có một bản triết lý kinh doanh giá trị,

thường người lãnh đạo doanh nghiệp cần có khoảng 10, 20 năm lăn lộn trong kinh

doanh và quản lý kinh doanh và giữa họ và người kế nhiệm phải có sự kế thừa về

lý tưởng, kinh nghiệm và triết lý. Cả hai điều kiện trên ở nước ta còn yếu.

pdf38 trang | Chia sẻ: leddyking34 | Lượt xem: 11749 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tiểu luận Triết lý kinh doanh của các doanh nghiệp Việt Nam trong thời kỳ hội nhập, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
nh nghiệp, hiểu theo nghĩa rộng, ngoài người, tiền của hay vật tư hàng hoá, còn bao gồm những nguồn tài sản mắt thường không nhìn thấy được nhưng lại có tác dụng vô cùng to lớn. Bộ phận quan trọng nhất của nguồn tài sản vô hình đó là triết lý kinh doanh và phong thái kinh doanh là cốt lõi của phong thái doanh nghiệp”. CHƯƠNG 2: TRIẾT LÝ KINH DOANH CỦA CÁC DOANH NGHIỆP THỜI KỲ HỘI NHẬP 2.1. Đặc điểm tình hình kinh tế, xã hội thời kỳ hội nhập Cơ sở lý luận cho sự đổi mới về thể chế nền kinh tế Nghị quyết Đại hội Đảng cộng sản Việt Nam lần thứ VI (12 -1986) đã khẳng định phải xóa bỏ cơ chế quan liêu bao cấp và chuyển sang nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần theo định hướng XHCN. Những năm tiếp sau đó, tư tưởng này được cụ thể hóa bằng nhiều chính sách và văn bản pháp.luật. Cơ chế thị trường đang từng bước được hoàn thiện để tạo ra những cơ hội bình đẳng trong kinh 12 doanh cho tất cả mọi thành phần kinh tế, cho mọi người đều có thể có điều kiện làm giàu cho bản thân và xã hội. Nghị quyết của Đại hội lần VI là cơ sở lý luận cho sự đổi mới về thể chế và được cụ thể hóa bằng nhiều chính sách, văn bản pháp luật trong những năm tiếp theo. Tháng 11 – 1987, Hội đồng Bộ trưởng đã ban hành Quyết định 217/HĐBT về việc mở rộng quyền tự chủ kinh doanh cho các doanh nghiệp Nhà nước. Năm 1998, Nghị quyết 10 của Bộ Chính trị đã chính thức thừa nhận hộ gia đình là đơn vị kinh tế cơ bản ở nông thôn, có quyền tự chủ kinh doanh toàn diện. Tháng 1 – 1998, Quốc hội đã thông qua luật Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam. Những thay đổi về pháp luật và chính sách trên đã từng bước tạo ra nền kinh tế thị trường có sự quản lý của Nhà nước ở nước ta. Có thể xem tháng 3 – 1989 là thời điểm Việt Nam thực sự đi vào quá trình chuyển biến sang kinh tế thị trường bởi vì: - Thứ nhất, tới thời gian đó, Chính phủ đã đổi mới thành công trong chính sách tài chính – tiền tệ, kiểm soát được lạm phát. - Thứ hai, Nhà nước đã có những giải pháp đa dạng hóa thành phần kinh tế, xóa bỏ chế độ độc quyền kinh doanh của Nhà nước, khuyến khích cạnh tranh lành mạnh. - Thứ ba, thực hiện một bước tự do hóa thương mại, Chính phủ đã xóa bỏ các trạm kiểm soát “ngăn sông cấm chợ” và nới lỏng xuất nhập khẩu. Từ năm 1990 đến nay, xu hướng chuyển sang nền kinh tế thị trường cả về chiều rộng và chiều sâu. Đặc biệt có hai sự kiện lớn trong những năm 2000 đã thúc đẩy hoạt động kinh doanh của Việt Nam thực sự phát triển nhảy vọt đó là sự ra đời 13 của Luật Doanh nghiệp 2005 và Luật Đầu tư sửa đổi; sự kiện Việt Nam gia nhập tổ chức Thương mại thế giới (WTO). Tình hình kinh tế, xã hội nước ta thời kỳ hội nhập Kinh tế phát triển nhanh, cơ cấu kinh tế chuyển dịch theo hướng tiến bộ, thu nhập bình quân của người lao động ngày càng cao, đời sống kinh tế và xã hội của nhân dân có sự cải thiện rõ rệt. Song, cũng do tác động của kinh tế thị trường và hội nhập kinh tế quốc tế nên nhiều vấn đề xã hội mới nảy sinh và ngày càng phức tạp. Tình trạng phân hóa giàu nghèo, sự bất bình đẳng trong thu nhập ngày càng lớn, là những mầm mống cho những bất ổn định xã hội. Quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế dẫn đến hàng triệu lao động nông nghiệp bị mất đất, di chuyển từ nông thôn ra thành thị tìm kiếm việc làm và phải chấp nhận cuộc sống bấp bênh, đầy rủi ro. Nguy cơ thất nghiệp, bệnh tật, ốm đau đang đe dọa một bộ phận lao động, nhất là lao động phổ thông, trong hoàn cảnh khủng hoảng kinh tế đang diễn ra trên phạm vi toàn cầu, đói nghèo được thu hẹp nhưng tái nghèo vẫn là nguy cơ đối với hàng chục triệu người. Hậu quả của tình trạng xã hội trên đã và đang cản trở sự phát triển kinh tế- xã hội đất nước, ngăn trở mục tiêu xây dựng một xã hội dân giàu, nước mạnh, dân chủ và văn minh. Thời cơ và thách thức cho các doanh nghiệp Việt Nam thời kỳ hội nhập Hội nhập kinh tế quốc tế là thách thức với mọi nền kinh tế, kể cả các nền kinh tế có trình độ phát triển cao hơn Việt Nam. Thách thức ngày càng khắc nghiệt hơn khi nước ta là một nước đang phát triển đồng thời là nền kinh tế chuyển đổi. Hội nhập kinh tế quốc tế đã tạo cho Việt Nam nói chung, các doanh nghiệp Việt Nam nói riêng những cơ hội và thách thức mới. 14 Trước hết, Hội nhập kinh tế quốc tế, gia nhập WTO đã tạo cho Việt Nam có cơ hội mở rộng thị trường tiêu thụ sản phẩm do tiếp cận thị trường quốc tế rộng lớn, hàng hóa thâm nhập thị trường này cũng không gặp bất kỳ trở ngại nào. Việt Nam được đối xử tối huệ quốc vô điều kiện, thuế thu nhập vào các nước thành viên sẽ giảm đáng kể. Việt Nam sẽ tiếp nhận và tiếp cận được nguồn nhân lực, vật lực lớn từ những nước phát triển là thành viên của WTO. Việt Nam sẽ bình đẳng với các nước thành viên của WTO, Việt Nam sẽ nâng cao vị thế trong các mối quan hệ kinh tế, trong việc biểu hiện những vấn đề liên quan đến WTO đặc biệt trong việc giải quyết những tranh chấp trong kinh doanh thương mại quốc tế. Ngoài ra, khi nước ta hội nhập kinh tế quốc tế thì hàng hóa các nước sẽ xâm nhập thị trường trong nước, các doanh nghiệp Việt Nam sẽ không ngừng nâng cao chất lượng sản phẩm, giảm giá thành nâng cao sức cạnh tranh nhằm tồn tại và phát triển. Tuy nhiên bên cạnh những thuận lợi, Việt Nam cũng phải đối mặt với những thách thức lớn là cạnh tranh trở nên quyết liệt hơn, cạnh tranh không chỉ giữa các doanh nghiệp trong nước mà còn với các doanh nghiệp nước ngoài để xuất khẩu hàng hóa và dich vụ. Trong khi đó khả năng cạnh tranh cả các doanh nghiệp nước ta chưa cao. Doanh nghiệp yếu về tiềm lực kinh tế cũng như thương hiệu không có khả năng cạnh tranh sẽ bị đào thải khỏi thị trường. Điều này gây sức ép không nhỏ đối với nhiều doanh nghiệp đã quen với sự trợ giúp của Nhà nước, những doanh nghiệp có tiềm lực tài chính và con người yếu kém. Hội nhập kinh tế quốc tế với sự chuyển dịch tự do qua biên giới các yếu tố của quá trình tái sản xuất hàng hóa và dịch vụ tiềm ẩn nhiều rủi ro, trong đó có cả những rủi ro về mặt xã hội. Thách thức ở đây là để ra những chính sách đúng đắn nhằm tăng cường khả năng kiểm soát vĩ mô, nâng cao tính năng động và khả năng thích ứng nhanh của toàn bộ nền kinh tế, củng cố và tăng cường các giải pháp an sinh xã hội để khắc phục những khó khăn ngắn hạn 15 Trước tình hình đó những năm qua, Đảng và nhà nước ta đã và đang ban hành những chủ trương, chính sách nhằm giải quyết vấn đề xã hội nói chung và vấn đề an sinh xã hội nói riêng. Các chính sách về bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, trợ giúp xã hội, ưu đãi xã hội được Nhà nước ban hành, sửa đổi và bổ sung ngày càng hoàn thiện và phù hợp hơn với điều kiện kinh tế nước ta Bên cạnh đó, Việt Nam cũng đã hoàn thiện hệ thống pháp luật kinh tế theo cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và thực hiện công khai minh bạch các thiết chế quản lý. Đảng và Nhà nước ta đã và đang từng bước nỗ lực để hoàn thiện khuôn khổ pháp luật có liên quan đến kinh tế và thương mại, các quy định về cạnh tranh để đảm bảo môi trường cạnh tranh lành mạnh, công bằng khi hội nhập. Các bộ, ngành đã tập trung rà soát và góp ý sửa đổi các quy phạm pháp luật trong các lĩnh vực điện ảnh, viễn thông, an toàn thực phẩm cho phù hợp với các cam kết quốc tế của Việt Nam đồng thời kiến nghị ban hành hàng loạt Nghị định để thi hành những lĩnh vực trên. Bộ tài chính đã ban hành danh mục sửa đổi thuế xuất khẩu, danh mục sửa đổi biểu thuế nhập khẩu ưu đãi để thực hiện đúng cam kết về cắt giảm thuế theo biểu cam kết đối với WTO cho bước cắt giảm của năm 2009..Ngoài những chính sách trên thì Đảng và nhà nước còn ban hành rất nhiều chính sách về kinh tế- xã hội, đang tiếp tục bổ sung, sửa đổi và hoàn thiện hệ thống chính sách nhằm thúc đẩy sự phát triển bền vững của quốc gia trong thời kỳ hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay. Đánh giá chung về việc hình thành và phát triển triết lý kinh doanh của các doanh nghiệpViệt nam thời kỳ hội nhập Những năm gần đây, các doanh nghiệp Việt Nam đã có cố gắng nhất định trong việc xây dựng triết lý để định hướng cho hoạt động kinh doanh cũng là thể hiện văn hóa kinh doanh và đạo đức kinh doanh của mình. Các doanh nghiệp ở các 16 khu vực kinh tế khác nhau đã xây dựng nên những triết lý kinh doanh khác nhau và mỗi triết lý kinh doanh ấy đã thể hiện bản sắc riêng của mỗi doanh nghiệp. Ví dụ về triết lý kinh doanh của “Cà phê Trung Nguyên” và “Viettel”. • Triết lý kinh doanh của Vietel : “ Vietel caring innovator” thông qua đó Vietel muốn nhấn mạnh triết lý của mình cho toàn bộ các nhân viên của mình và những người quản lý coi trọng, đó là: Tinh thần Caring – quan tâm, chăm sóc, hướng nội và Innovatorv – sáng tạo, hiện đại, đột phá mang hơi thở kĩ thuật. • Triết lý kinh doanh của Café Trung Nguyên: “Tạo dựng thương hiệu hàng đầu qua việc mang lại cho người thưởng thức cà phê nguồn cảm hứng sáng tạo và niềm tự hào trong phong cách Trung Nguyên đầm đà văn hóa Việt”. Tuy nhiên, nhìn chung triết lý kinh doanh của các doanh nghiệp Việt Nam vần là hiện tượng mới mẻ, chưa có sự thống nhất trong nhìn nhận và đánh giá. 2.2. Triết lý kinh doanh của các doanh nghiệp Nhà nước: Vị trí của các doanh nghiệp Nhà nước: Bộ phận doanh nghiệp Nhà nước từ trước đến nay vẫn được xem là thành phần kinh tế chủ đạo của nền kinh tế nước ta. Tình hình hoạt động của các doanh nghiệp: Hiệu quả hoạt động của các doanh nghiệp còn ở mức thấp so với các nguồn lực của nó. Số lượng các doanh nghiệp Nhà nước có quy mô nhỏ, phấn tán nhưng với số doanh nghiệp nhiều nên số tài sản trong khu vực kinh tế khá lớn. Quá trình hình thành và phát triển của Triết lý kinh doanh: Đại đa số các doanh nghiệp Nhà nước hiện nay chưa có triết lý kinh doanh bến vững, được trình 17 bày rõ ràng với đầy đủ chức năng, giá trị của nó. Nhà nước chưa đặt vấn đề cần xây dựng một triết lý kinh doanh chung cũng như các triết lý kinh doanh phù hợp với đặc thù mỗi doanh nghiệp. Các doanh nghiệp vẫn chủ yếu nhấn mạnh vào các yếu tố lượng của kinh doanh thể hiện trong các chỉ tiêu cụ thể như: doanh số, lợi nhuận, nộp ngân sách, thuế… mà chưa chú ý tới các hệ giá trị của doanh nghiệp, điều này chứng tỏ chưa có sự chú trọng đến sự phát triển bền vững của doanh nghiệp. Trên thực tế, các điều kiện như thực tiễn kinh doanh và sự kế thừa về lý tưởng, kinh nghiệm và triết lý ở các doanh nghiệp Nhà nước ở ta còn yếu ớt, thời hạn, quyền hạn, chức năng của người lãnh đạo doanh nghiệp Nhà nước chưa rõ ràng và ổn định. Như chúng ta đã biết, muốn có một bản triết lý kinh doanh giá trị, thường người lãnh đạo doanh nghiệp cần có khoảng 10, 20 năm lăn lộn trong kinh doanh và quản lý kinh doanh và giữa họ và người kế nhiệm phải có sự kế thừa về lý tưởng, kinh nghiệm và triết lý. Cả hai điều kiện trên ở nước ta còn yếu. Công tác cán bộ trong các doanh nghiệp Nhà nước còn thiếu những quy chế khoa học, còn nhiều định kiến phiến diện. Chúng ta thường ngại sử dụng và đề bạt những cán bộ dám làm, dám nói. Tuyệt đại đa số các doanh nghiệp Nhà nước hiện nay đều không có triết lý kinh doanh được trình bày rõ ràng với đầy đủ chức năng, giá trị của nó. Mặt khác, những triết lý chung, giáo điều đúng nhưng khó thực thi, “vô thưởng, vô phạt” cũng được các nhà quản lý kinh doanh trong khu vực Nhà nước tuyên truyền thay thế cho các giá trị của các triết lý kinh doanh đích thực. Có thể kể ra một số triết lý kinh doanh như: “Vì nhân dân phục vụ”; “chúng ta phải biết hi sinh cho lợi ích tập thể”; “kinh tế phải phục tùng chính trị”. Đây là những triết lý rất chung chung, khó thực hiện, khó đo lường hiệu quả trong lĩnh vực kinh doanh. 18 Rõ ràng, vấn đề vai trò, tác dụng của các triết lý kinh doanh trong các doanh nghiệp Nhà nước có liên quan mật thiết tới công tác quản lý và công tác cán bộ. Tuy nhiên, trong tình hình đó đến nay đã có một số doanh nghiệp Nhà nước đã đưa ra triết lý kinh doanh của mình trong quá trình phát triển công ty, ví dụ như Xí nghiệp Thương mại Mặt đất Nội Bài (NIAGS) thuộc Tổng Công ty hàng không Việt Nam (Vietnam Arlines). Triết lý kinh doanh của Xí nghiệp Thương mại Mặt đất Nội Bài (NIAGS) thuộc Tổng Công ty hàng không Việt Nam (Vietnam Airlines ):  Nhận thức rằng một danh tiếng bền vững về cách ứng xử văn hóa tự nó là một tài sản vô giá của doanh nghiệp, toàn thể cán bộ, công nhân viên Xí nghiệp thương mại Mặt đất Nội Bài luôn hướng tới xây dựng đơn vị mình thành một cộng đồng những con người có văn hóa.  Thông qua công việc mỗi ngày, chúng ta phấn đấu không ngừng nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh, nâng cao lợi ích vật chất – điều kiện để xây dựng cuộc sống ấm no, hạnh phúc cho từng cá nhân, cho từng gia đình và cho toàn xí nghiệp.  Chúng ta cam kết cung cấp cho khách hàng những sản phẩm, dịch vụ chất lượng ổn định và không ngừng được nâng cao bằng việc áp dụng hệ thống quản lý chất lượng theo tiêu chuẩn ISO 9001: 2000 vì không có khách hàng chúng ta không có lí do để tồn tại. Chúng ta làm cho khách hàng thấy họ đang được phục vụ bởi đội ngũ những nhân viên lành nghề ,đáng tin cậy và hết mình. Đồng thời chúng ta thấu hiểu rằng giá trị của sản phẩm, dịch vụ không chỉ giới hạn ở chính bản thân chúng ta mà còn ở cách thức chúng ta cung cấp chúng cho khách hàng. Do vậy việc tuân thủ nghiêm khắc các quy trình, hướng dẫn công việc chúng ta còn quan tâm đến những chuẩn mực, hành vi, quy tắc ứng xử trong quá trình tạo ra sản 19 phẩm, dịch vụ trong quá trình chúng ta sống và làm việc bên nhau. Chính những chuẩn mực này tạo nên bản sắc riêng của NIAGS chúng ta.  Chúng ta tạo ra và duy trì một môi trường để mỗi thành viên đều cảm thấy được tin yêu và quý trọng như những tài sản quý giá nhất, tự hào khi đứng trong đội ngũ NIAGS và sẵn sàng thể hiện đầy đủ những khả năng và phẩm chất cao quý của mình; một môi trường mà sự đóng góp của bất kì thành viên nào vào thành công của NIAGS đều được thưởng xứng đáng và ngược lại, những hành vi ứng xử trái với văn hóa NIAGS, làm ảnh hưởng đến chất lượng dịch vụ, tổn hại lợi ích của khách hàng đều phải bị lên án và không còn chỗ đứng ở NIAGS.  Chúng ta phấn đấu xây dựng một NIAGS mà hình ảnh của nó trong khách hàng không chỉ là một sản phẩm, dịch vụ hoàn hảo mà còn là sự liên tưởng ngay đến một cộng đồng, một tập thể những con người sôi nổi, đoàn kết gắn bó, tương thân tương ái. Có thể thấy triết lý kinh doanh của công ty đã nói lên ý nghĩa tồn tại của công ty và cũng chính là nét văn hóa tổ chức của công ty đó. Luôn hướng tới khách hàng, đáp ứng những nhu cầu của khách hàng ở mọi lúc, mọi nơi là sứ mệnh cũng như mục đích tồn tại của công ty. Vấn đề con người được quan tâm từ bên trong nội bộ công ty đến khách hàng cho thấy giá trị nhân văn của NIAGS cũng là một phần trong đạo đức quản lý của doanh nghiệp. 2.3. Triết lý kinh doanh của các doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp từ nước ngoài: Phát huy vai trò của triết lý kinh doanh trong quản lý doanh nghiêp Các doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp từ nước ngoài là khu vực kinh tế phát huy vai trò của triết lý kinh doanh tốt nhất ở nước ta hiện nay. Hầu hết các công ty nước ngoài thành đạt, đặc biệt là các công ty Mỹ và Nhật Bản đều mang vào Việt Nam và sử dụng triết lý kinh doanh của họ như là một công cụ quản lý 20 chiến lược, như là hạt nhân của văn hóa doanh nghiệp và là phương tiện giáo dục tất cả các thành viên trong công ty. Khác với các doanh nghiệp Nhà nước, nơi triết lý kinh doanh nặng về tính hình thức hoặc chỉ có vai trò phụ trợ, phần lớn các doanh nghiệp nước ngoài ở Việt Nam đều coi triết lý kinh doanh như một yếu tố trong sức mạnh quản lý của mình. Ví dụ: Với các triết lý như “khách hàng là thượng đế”; “khách hàng luôn luôn đúng”; “tinh thần tranh đua”; “sản phẩm chất lượng là niềm kiêu hãnh”… đã góp phần làm cho doanh nghiệp đứng vững và phát triển mạnh trên thị trường. Các doanh nghiệp liên doanh với Nhật thì có riêng triết lý của mình. Đó là các triết lý đề cao tinh thần cộng đồng và họ đã phát huy được hết nỗ lực, tận dụng được các thế mạnh tại thị trường của Việt Nam. Ví dụ triết lý “tôn trọng cá nhân” tạo nên môi trường bình đẳng của công ty Sony tại Việt Nam. Triết lý kinh doanh của một số doanh nghiệp • Tập đoàn “Castrol Việt Nam” áp dụng triết lý “tạo ra một nhu cầu tiêu dùng thực sự và đáp ứng các nhu cầu đó với mức cao nhât”. Bắt đầu vào kinh doanh ở Việt Nam từ tháng 1 – 1992, do SaigonPetro góp vốn 40% và Castrol Limited 60%, những ngày mới thành lập công ty mới chỉ có 5 người trong đó có 3 người nước ngoài, đến tháng 4 - 1998 lên tới 165 người, chỉ còn một người nước ngoài và nâng tổng số đầu tư lên 12 triệu USD, gấp 2 lần so với vốn đầu tư ban đầu. • Tập đoàn Canon với triết lý “Kyosei” Canon định nghĩa Kyosei là: “Tất cả mọi người, không kể chủng tộc, tôn giáo hay nền văn hoá, sống hoà thuận và làm việc cùng nhau cho tương lai”. Triết lý này đã xuyên suốt tại Canon trong mọi khía cạnh trong kinh doanh, cống hiến cho xã hội cũng như môi trường. • Triết lý của Samsung: Tại Samsung, chúng tôi thực hiện một triết lý kinh doanh đơn giản: cống hiến tài năng và công nghệ nhằm tạo ra các sản phẩm và dịch vụ siêu việt, bằng cách đó đóng góp cho một xã hội toàn cầu tốt đẹp hơn. 21 Mỗi ngày, chúng tôi mang triết lý này áp dụng vào cuộc sống. Các nhà lãnh đạo tích cực tìm kiếm những tài năng sáng giá nhất trên khắp thế giới, và cung cấp cho họ những nguồn lực cần thiết để thực hiện hết khả năng của mình. Kết quả là tất cả các sản phẩm của chúng tôi - từ các chip nhớ giúp cho doanh nghiệp lưu trữ thông tin quan trọng đến những chiếc điện thoại di động kết nối mọi người trên khắp các châu lục - khiến cuộc sống trở nên phong phú hơn. Và đó chính là điều giúp tạo ra một xã hội toàn cầu tốt đẹp hơn. • Ngoài ra, chúng ta cũng cần kể đến một doanh nghiệp có 100% vốn đầu tư nước ngoài khi đi vào hoạt động tại Việt Nam đã thể hiện rất tốt triết lý kinh doanh đó là Unilever. Cụ thể triết lý kinh doanh của Tập đoàn Unilever như sau: - Tôn chỉ của Tập đoàn Unilever: “Tôn chỉ của Tập đoàn Unilever chúng ta là thỏa mãn các nhu cầu hàng ngày cảu con người ở mọi nơi, nắm bắt được nguyện vọng đó một cách sáng tạo và hiệu quả thông qua các dịch vụ và nhãn hàng danh tiếng nhằm nâng cao chất lượng của cuộc sống”. • Tầm nhìn của Unilever Việt Nam:  Gốc rễ sâu của chúng tôi trong văn hóa bản địa và các thị trường trên toàn thế giới là sự kế thừa không thể sánh kịp của chúng tôi và nền tảng cho sự phát triển trong tương lai của chúng tôi .  Chúng tôi sẽ mang kiến thức và kinh nghiệm quốc tế của mình để phục vụ những người tiêu dùng trong nước – thực sự là một công ty đa quốc gia đa nội địa ( a truly multilocal mutilnational).  Thành công dài hạn của chúng tôi cần phải có sự cam kết toàn bộ cho các chuẩn mực đặc biệt về kết quả hoạt động và năng suất, về cùng nhau làm việc một cách hiệu quả và về mong muốn nắm lấy những ý tưởng mới và liên tục học hỏi. 22  Chúng tôi tin rằng để thành công cần phải có các chuẩn mực cao hành vi của doanh nghiệp đối với nhân viên, người tiêu dùng, xã hội và thế giới mà chúng ta đang sống.  Đây là con đường mà Unilever để đi đến phát triển bền vững, sinh lợi cho hoạt động kinh doanh của chúng tôi và tạo ra giá trị dài hạn cho các cổ đông và nhân viên của mình. Tuy nhiên, không phải bất kỳ một nhà kinh doanh nước ngoài nào cũng thực hiện tại Việt Nam một triết lý kinh doanh và quản lý tích cực. Những người chỉ coi Việt Nam như một thị trường mới lên, có thể tranh thủ kiếm chác và làm giàu thì không thể có và trung thành với một triết lý kinh doanh tích cực. Những nhà kinh doanh có ý định làm ăn lâu dài tại Việt Nam sẽ gặp một trở ngại chung là sự khác biệt về văn hóa. Vì vậy, triết lý kinh doanh của họ, trong trường hợp tích cực cũng khó có khả năng và điều kiện phát huy vai trò của nó ra khỏi phạm vi một doanh nghiệp. 2.4.Triết lý kinh doanh của các doanh nghiệp tư nhân, các công ty TNHH, các công ty cổ phần: Điều kiện hình thành và phát triển triết lý kinh doanh Các doanh nghiệp tư nhân có điều kiện thuận lợi hơn các doanh nghiệp Nhà nước trong việc phát huy tác dụng của triết lý kinh doanh. Cụ thể: • Ở khu vực nhà nước thường phải chịu sự chỉ đạo rất khắt khe từ cấp trên nhưng hiệu quả làm việc lại không đáng kể. Trong khi đó, ở khu vực tư nhân, do không phải chịu sự cai quản và sức ép của nhiều cấp trên, những người lãnh đạo doanh nghiệp tư nhân dễ dàng hơn so với đồng nghiệp của 23 họ. Hơn nữa, ở các doanh nghiệp tư nhân, do họ tự trang trải kinh phí và nguồn vốn hoạt động nên quá trình hoạt động của họ được thực hiện gắt gao và quy củ hơn rất nhiều so với tình trạng “của chùa”, “cha chung không ai khóc” như các doanh nghiệp nhà nước. Vì nếu hoạt động có hiệu quả thì mới có thể mang lại đc nguồn lợi nhuận cao phục vụ cho các hoạt động của mình. Đó là lý do trước hết mà các doanh nghiệp chú trọng phát triển triết lý kinh doanh trong hoạt động của mình hơn doanh nghiệp nhà nước. • Cũng xuất phát từ việc nâng cao doanh thu và lợi nhuận. Các doanh nghiệp tư nhân trong sự ảnh hưởng của quá trình kinh tế thị trường, họ ngày càng có xu hướng đi theo tác phong công nghiệp hóa, làm theo năng lực hưởng theo lao động, làm nhiều hưởng nhiều làm ít hưởng ít. Nguồn nhân lực thì có trách nhiệm hơn với công việc so với bộ phận doanh nghiệp nhà nước… Do vậy, đây là những điều kiện không thể thiếu để triết lý kinh doanh hình thành và đạt hiệu quả một cách cao nhất. • Trong các doanh nghiệp tư nhân, do không có sự chỉ đạo từ trên xuống như các doanh nghiệp nhà nước, không có chuyện sẽ có một nơi tìm nguồn đầu tư và mang đến cho bạn làm nên hầu như việc tìm kiếm đối tác hay công việc đều phải tự xoay xở. Vì vậy, việc “lăn lộn” trong thương trường đã để lại cho các doanh nghiệp tư nhân nhiều kinh nghiệm kinh doanh hơn. Từ đó diễn ra quá trình các nhà lãnh đạo tổng kết các kinh nghiệm kinh doanh đúc rút thành triết lý và truyền bá, giáo dục cán bộ nhân viên trong doanh nghiệp Triết lý kinh doanh của một số doanh nghiệp • “Chữ tín là vàng” là triết lý kinh doanh của doanh nghiệp vàng Bảo Tín. Bảo Tín là một doanh nghiệp tư nhân được hình thành từ nhiều năm nay nhưng chất lượng sản phẩm và sức ảnh hưởng vẫn còn rất lớn trong khi có 24 rất nhiều doanh nghiệp khác mọc lên. Trải qua nhiều năm hoạt động bản thân doanh nghiệp cũng nhận thấy rằng nhận được sự tin tưởng của khách hàng là một điều kiện vô cùng thuận lợi để giúp mình có thể đứng vững trên thị trường và phát triển mạnh mẽ hơn. Đây chính là kinh nghiệm lâu năm được chuyển hóa thành triết lý kinh doanh cho doanh nghiệp. • “Đẹp và hơn thế nữa” là triết lý kinh doanh của hãng thời trang Foci; • Sứ mệnh của FPT là “FPT mong muốn trở thành một tổ chức kiểu mới, giàu mạnh bằng nỗ lực lao động sáng tạo trong khoa học kĩ thuật và công nghệ, làm khách hàng hài lòng, góp phần hưng thịnh quốc gia. Mục tiêu của công ty là nhằm đem lại cho mỗi nhân viên của mình điều kiện phát triển tốt nhất về tài năng, một cuộc sống đầy đủ về vật chất, phong phú về tinh thần”. Nhưng muốn có một bản triết lý kinh doanh tích cực, người lãnh đạo doanh nghiệp phải có nhiệt tâm theo đuổi nghề nghiệp của mình và phải có đủ tài đức. Song nhìn chung, triết lý kinh doanh của các doanh nghiệp tư nhân mới chỉ dừng lại ở câu khẩu hiệu hoặc những câu quảng cáo chứ chưa mang đầy đủ các nội dung của một bản triết lý kinh doanh. Nguyên nhân chính là do họ thiếu kiến thức, chỉ có 11% các doanh nhân của tư nhân có kiến thức cơ bản về kinh doanh. Mặt khác, với triêt lý “tiền là tiên, là phật” một số doanh nghiệp tư nhân bị chi phối bới lối làm ăn “đánh quả”, “mì ăn liền”, gian lận, những khía cạnh đạo đức trong kinh doanh chưa được coi trọng đúng mức. Những triết lý vị kỷ, tư lợi đó không thể phát huy được tinh thần đoàn kết, cộng đồng cùng thúc đấy doanh nghiệp tiến lên vì mục tiêu chung. Nhìn chung, nước ta còn thiếu vắng những nhà kinh doanh thành đạt nhờ kết hợp công nghệ kinh doanh với lý tưởng cao cả. Với thực trạng và trình độ phát triển như hiện nay, chúng ta còn rất yếu kém so với trình độ và khả năng chung của 25 các doanh nghiệp trong khu vực và trên thế giới. Có rất nhiều nguyên nhân trong đó có thể kể đến một số nguyên nhân sau: - Chúng ta chưa chú ý đúng mức đến lý tưởng của các cá nhân và tổ chức, chưa có một phong cách kinh doanh nào cụ thể phát huy được các giá trị nhân văn của con người Việt Nam trên mặt trận kinh tế. - Vai trò của các triết lý kinh doanh bao hàm được các giá trị chân, thiện, mỹ còn mờ nhạt trong các hoạt động kinh doanh của nước ta hiện nay. Muốn giải quyết triệt để tình trạng này thì không thể chỉ xuất phát từ phương diện pháp luật và kinh tế với các chính sách và công cụ của chúng. Cần phân tích thêm từ phương diện văn hóa doanh nghiệp. CHƯƠNG 3. GIẢI PHÁP PHÁT HUY TRIẾT LÝ KINH DOANH CỦA CÁC DOANH NGHIỆP VIỆT NAM THỜI KỲ HỘI NHẬP 3.1. Điều kiện để triết lý kinh doanh phát h

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfTriết lý kinh doanh của các doanh nghiệp Việt Nam trong thời kỳ hội nhập.pdf
Tài liệu liên quan