Tiểu luận Từ chia tài sản chung đến thỏa thuận về tài sản của vợ chồng trong thời kì hôn nhân theo pháp luật Việt Nam

Việc khôi phục chế độ tài sản chung chỉ có thể đặt ra khi vợ chồng đã chia tài sản chung trong thời kì hôn nhân. Việc khôi phục chế độ tài sản chung phải theo thỏa thuận bằng văn bản của vợ chồng. Trong văn bản này bắt buộc phải ghi rõ lí do khôi phục tài sản chung, phần tài sản riêng của mỗi bên, phần tài sản chung (nếu có), thời điểm có hiệu lực của việc khôi phục chế độ tài sản chung. Văn bản thỏa thuận khôi phục chế độ tài sản chung của vợ chồng chỉ bắt buộc phải có chữ kí của cả hai vợ chồng, không bắt buộc phải có người làm chứng hay công chứng chứng thực, kể cả trường hợp văn bản thỏa thuận chia tài sản chung của vợ chồng được công chứng chứng thực nhưng không phải là trường hợp bắt buộc phải công chứng chứng thực theo qui định của pháp luật. Chỉ có qui định bắt buộc phải công chứng chứng thực đối với các văn bản thỏa thuận khôi phục chế độ tài sản chung trong trường hợp văn bản thoả thuận chia tài sản chung của vợ chồng phải công chứng, chứng thực theo qui định của pháp luật[47].

doc29 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 2188 | Lượt tải: 4download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tiểu luận Từ chia tài sản chung đến thỏa thuận về tài sản của vợ chồng trong thời kì hôn nhân theo pháp luật Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
được lập thành văn bản, có chữ kí của cả vợ và chồng, một số trường hợp pháp luật qui định thì văn bản đó phải được công chứng chứng thực. Việc thỏa thuận nhập tài sản riêng vào tài sản chung nhằm trốn tránh các nghĩa vụ về tài sản thì sẽ bị vô hiệu[29]. Một số trường hợp đặc biệt Quyền sử dụng đất có được trong thời kì hôn nhân Theo khoản 1 điều 27 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2002, “Quyền sử dụng đất mà vợ chồng có được sau khi kết hôn là tài sản chung của vợ chồng. Quyền sử dụng đất mà vợ hoặc chồng có được trước khi kết hôn, được thừa kế riêng chỉ là tài sản chung khi vợ chồng có thỏa thuận”. Thực ra theo luật thì qui định về quyền sử dụng đất không có gì đặc biệt hơn so với qui định về các tài sản khác. Cũng có thể nói là việc qui định riêng về quyền sử dụng đất này không cần thiết nếu như quyền sử dụng đất tự bản thân nó không có những điểm đặc thù và tầm quan trọng nhất định. Quyền sử dụng đất là một loại quyền dân sự đặc thù, là loại quyền phụ thuộc, chịu sự chi phối bởi quyền độc lập là quyền sở hữu toàn dân của đất đai, vợ chồng chỉ có quyền được quyền tài sản này khi được nhà nước giao đất hoặc cho thuê đất[30]. Việc qui định riêng về quyền sử dụng đất có lẽ chỉ để làm rõ về chế độ pháp lí của loại tài sản này trong quan hệ vợ chồng. Tài sản có được do được bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng Các trường hợp tài sản có được là tài sản do được bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng trong các trường hợp tính mạng, sức khoẻ, danh dự, nhân phẩm, uy tín, tài sản, quyền, lợi ích hợp pháp khác của vợ hoặc chồng hoặc cả hai bị xâm phạm có phải là tài sản chung hợp nhất của vợ chồng không? Theo qui định của Luật Hôn nhân và Gia đình thì tài sản riêng của vợ chồng bao gồm những tài sản tài sản mà mỗi người có trước khi kết hôn; tài sản được thừa kế riêng, được tặng cho riêng trong thời kỳ hôn nhân; tài sản được chia riêng cho vợ, chồng theo quy định về chia tài sản chung trong thời kì hôn nhân; đồ dùng, tư trang cá nhân[31]. Như vậy theo qui định này thì tài sản có được do được bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng không phải là tài sản riêng. Chính vì thế mà chỉ còn cách xác định nó là tài sản chung của vợ chồng. Tuy nhiên về mặt thực tế nếu tài sản bị xâm phạm thì khoản tiền bồi thường có thể được coi là tài sản chung (điều này cũng hợp lí bởi ngay cả khi bán tài sản để mua tài sản mới thì tài sản mới cũng thuộc tài sản chung); nếu khoản tiền bồi thường là để bù đắp cho thu nhập thực tế bị mất hoặc bị giảm sút do bị thiệt hại về sức khỏe thì đó rõ ràng là tài sản chung giống như thu nhập hợp pháp vậy; nếu như trong trường hợp khoản tiền bồi thường là để lo cho chi phí thuốc thang… thì đó cũng có thể coi là tài sản chung bởi thực tế thì khối tài sản chung phải ứng trước để lo chi trả cho thuốc thang và bởi vì cũng có thể coi đây là nhu cầu thiết yếu của gia đình; tuy nhiên trường hợp khoản tiền bồi thường là để bù đắp cho nhân phẩm, danh dự bị xâm phạm thì sao? Theo đúng qui định của luật thì nó là tài sản chung, nhưng lí giải nó như thế nào? Có lẽ chỉ còn cách lí giải duy nhất là khi vợ chồng gắn bó với nhau thì coi nhau như một, mọi sự tổn hại về tinh thần của người này cũng là tổn hại về tinh thần, danh dự của người kia, nên tài sản bồi thường là tài sản chung. Tài sản trí tuệ Theo qui định của Luật Hôn nhân và Gia đình thì tất cả các tài sản, thu nhập hợp pháp được tạo ra trong thời kì hôn nhân đều là tài sản chung của vợ chồng. Tuy nhiên với tài sản trí tuệ thì lại khác mặc dù nó cũng là một loại tài sản dưới dạng quyền tài sản. Tài sản trí tuệ là một loại tài sản vô hình, người ta chỉ có thể thể hiện quyền sở hữu với nó thông qua các quyền tài sản. Quyền sở hữu trí tuệ bao gồm quyền tác giả và quyền liên quan, quyền sở hữu công nghiệp, quyền sở hữu đối với giống cây trồng[32] trong đó có các quyền tài sản. Các chủ sở hữu đối với ba loại quyền trên đã được chỉ rõ trong Luật Sở hữu trí tuệ. Cụ thể: chủ sở hữu quyền tác giả chỉ bao gồm tác giả (người trực tiếp sáng tạo ra tác phẩm), đồng tác giả, tổ chức cá nhân giao nhiệm vụ cho tác giả hoặc kí kết hợp đồng với tác giả, người thừa kế; người được tác giả trao quyền theo hợp đồng, Nhà nước[33]; chủ sở hữu quyền liên quan chỉ có thể là những cá nhân, tổ chức đã được qui định cụ thể trong điều 44 Luật Sở hữu trí tuệ; chủ sở hữu đối tượng sở hữu công nghiệp đã được qui định rõ trong điều 121 Luật Sở hữu trí tuệ… Như vậy, theo nguyên tắc ưu tiên áp dụng luật chuyên ngành là Luật Sở hữu trí tuệ thì vợ hoặc chồng của chủ sở hữu đối với các quyền sở hữu trí tuệ không mặc nhiên là chủ sở hữu của các tài sản trí tuệ, chính vì thế mà họ hoàn toàn không thể tham gia cùng với vợ (chồng) mình định đoạt, sử dụng tài sản trí tuệ đó, người sử dụng tài sản trí tuệ cũng không phải xin phép cả hai vợ chồng khi sử dụng tài sản trí tuệ theo qui định của luật. Chỉ có nhuận bút, thù lao, và các quyền lợi vật chất khác là thuộc sở hữu chung của vợ chồng vì đây là thu nhập hợp pháp của vợ chồng trong thời kì hôn nhân. 2.1.2. Nguyên tắc của việc qui định tài sản chung Theo nguyên tắc của luật dân sự thì quyền sở hữu chung được xác lập trên cơ sở thỏa thuận của các chủ sở hữu hoặc qui định của pháp luật hoặc theo tập quán. Theo những phân tích ở phần trên (2.1.1) ta thấy tài sản chung của vợ chồng được xác định theo các nguyên tắc sau: Các căn cứ xác lập tài sản chung của vợ chồng hoàn toàn tuân theo qui định của pháp luật[34]. Tuy nhiên tài sản chung của vợ chồng cũng được xác định theo hai phương thức đối với những tài sản có nguồn gốc khác nhau. Theo phương thức bắt buộc đối với những tài sản là tài sản tạo ra trong thời kì hôn nhân, thu nhập do lao động, hoạt động sản xuất, kinh doanh và những thu nhập hợp pháp khác; theo phương thức tôn trọng ý chí của người có tài sản: đối với những tài sản mà chủ sở hữu đã chỉ rõ là cho vợ chồng thừa kế chung hoặc đã chỉ rõ là tặng cho chung hai vợ chồng thì đó là tài sản chung của vợ chồng, tôn trọng ý chỉ của vợ, chồng nên những tài sản nào vợ chồng thỏa thuận là tài sản chung nó cũng thuộc khối tài sản chung. Theo qui định của pháp luật thì có vẻ như những tài sản nào có được trong thời kì hôn nhân mà phải đền bù thì đều coi là tài sản chung. Có lẽ là do tính cộng đồng của hôn nhân nên mọi thứ của hai vợ chồng lúc đó đều là của nhau. Chính vì vậy mọi thứ vợ chồng bỏ ra trong thời kì hôn nhân đều được coi là của chung, và thứ có được nhờ nó cũng phải được coi là của chung. Vậy nên lương, tiền thưởng, lợi nhuận do sản xuất kinh doanh và các thu nhập hợp pháp khác trong thời kì hôn nhân đều là tài sản chung. Những tài sản nào mà không đủ chứng cứ chứng minh là tài sản riêng thì là tài sản chung. Nguyên tắc này được ghi nhận trong khoản 3 điều 27 Luật Hôn nhân và Gia đình 2000. Theo các qui định của luật thì ta thấy khối tài sản chung bao giờ cũng có xu hướng thu hút các khối tài sản khác. Chính vì thế mà tất cả những tài sản nào không đủ chứng cứ là tài sản riêng thì đều được coi là tài sản chung của vợ chồng. Tất cả những điều trên là “do tính cộng đồng của hôn nhân và mục đích của quan hệ vợ chồng được xác lập, khi dự liệu chế độ tài sản giữa vợ chồng, Luật Hôn nhân và Gia đình đã thực hiện cách thức điều chỉnh đặc biệt để qui định về căn cứ xác lập tài sản chung của vợ chồng; những đặc điểm riêng biệt của sở hữu chung hợp nhất giữa vợ chồng, tài sản chung của vợ chồng không nhất thiết phải do hai vợ chồng tạo ra một cách trực tiếp, chỉ cần vợ, chồng tạo ra được trong thời kì hôn nhân; không xác định được tỉ lệ (kỉ phần) từ trước của vợ, chồng đối với tài sản chung; đặc biệt, vợ, chồng bình đẳng khi thực hiện quyền sở hữu, không phụ thuộc vào công sức đóng góp của mỗi bên vợ, chồng trong quá trình tạo lập tài sản chung…”[35][12] 2.2. NGƯỜI YÊU CẦU CHIA Theo qui định của Bộ luật Dân sự thì tài sản chung được chia theo yêu cầu của chủ sở hữu chung hoặc theo yêu cầu của người có quyền yêu cầu một trong các chủ sở hữu chung thực hiện nghĩa vụ với mình mà người đó không có tài sản riêng[36][13]. Việc yêu cầu được chia tài sản chung của chủ sở chung không cần có lí do chính đáng. Việc chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kì hôn nhân là một trường hợp của chia tài sản thuộc sở hữu chung. Theo qui định của Luật Hôn nhân và Gia đình thì tài sản chung chỉ được chia khi có lí do chính đáng và theo thỏa thuận của vợ chồng (khi vợ chồng không thỏa thuận được thì mới yêu cầu tòa án chia). Theo đó người yêu cầu chia tài sản chung là vợ hoặc chồng hoặc cả hai khi có lí do chính đáng. Trường hợp người thứ ba yêu cầu chia không được qui định trong Luật Hôn nhân và Gia đình, tuy nhiên theo qui định về việc áp dụng Bộ luật Dân sự trong trường hợp Luật Hôn nhân và Gia đình không có qui định[37][14] thì có thêm một người có quyền yêu cầu là người mà vợ hoặc chồng có nghĩa vụ riêng với họ. Hơn nữa một trong các lí do được coi là chính đáng để chia tài sản chung là chia để thực hiện nghĩa vụ dân sự riêng nên có thể hiểu quyền yêu cầu của người thứ ba vẫn tồn tại trong khi người thứ ba chỉ thực hiện quyền yêu cầu thực hiện nghĩa vụ với một người, còn vợ chồng họ tự nguyện chia tài sản chung để thanh toán. Tuy nhiên theo người viết, thường thì tài sản chung này được chia do vợ chồng tự nguyện chỉ nhằm để trốn tránh hay trì hoãn việc thực hiện nghĩa vụ với người kia, còn nếu bình thường khi vợ chồng không hề có mâu thuẫn gì thì chắc họ sẽ tự nguyện dùng khối tài sản chung để thanh toán chứ không chia tài sản chung. Theo người viết thì cơ chế để thực hiện quyền yêu cầu của người thứ ba như sau: người thứ ba có quyền yêu cầu người có nghĩa vụ thực hiện nghĩa vụ với mình, thậm chí được kê biên tài sản riêng của người đó; nếu tài sản riêng không đủ thì người này có thể yêu cầu vợ chồng bằng cách nào đó để có tài sản thực hiện nghĩa vụ đối với mình; nếu không được thì người này có quyền yêu cầu vợ chồng thỏa thuận chia tài sản chung để người kia có tài sản thanh toán cho mình, thậm chí được tham gia vào việc chia tài sản chung đó; nếu cả ba người không thể thỏa thuận được thì người thứ ba này có quyền yêu cầu tòa án chia tài sản chung của vợ chồng họ để một người có tài sản thực hiện nghĩa vụ với mình[38][15]. 2.3. ĐIỀU KIỆN CHIA Theo qui định của Luật Hôn nhân và Gia đình thì điều kiện để có thể chia tài sản chung trong thời kì hôn nhân là phải có lí do chính đáng, hiện tại luật đã dự liệu hai trường hợp cụ thể được coi là có lí do chính đáng đó là trường hợp vợ chồng đầu tư kinh doanh riêng và trường hợp vợ chồng thực hiện nghĩa vụ dân sự riêng, ngoài ra luật vẫn để dự trù các trường hợp có lí do chính đáng khác. 2.3.1. Đầu tư kinh doanh riêng Đầu tư kinh doanh riêng là khái niệm tương đối rộng và tương đối khó xác định, theo người viết thì hoạt động đầu tư kinh doanh riêng là hoạt động nhằm sinh lợi, do một người (vợ hoặc chồng) bỏ vốn ra để thực hiện một trong các công đoạn của quá trình từ sản xuất đến tiêu thụ sản phẩm hoặc cung cấp dịch vụ trên thị trường[39][16]. Việc đầu tư kinh doanh được coi là một lí do chính đáng bởi để thực hiện hoạt động đầu tư kinh doanh thì chắc chắn cần phải có một khối tài sản thuộc sở hữu của người đầu tư để giao dịch. Việc tài sản đem đầu tư là tài sản thuộc sở hữu chung sẽ gây nhiều phức tạp cho việc thực hiện giao dịch, bởi việc định đoạt tài sản đó cần có sự thỏa thuận của các đồng sở hữu chủ, nếu như người kia không quan tâm đến việc kinh doanh hoặc thậm chí phản đối việc kinh doanh đó thì việc thỏa thuận sẽ rất mất thời gian, thậm chí rắc rối và khó thực hiện trong khi hoạt động kinh doanh thì cần phải nhanh chóng để “chớp thời cơ”. Để tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động đầu tư kinh doanh nhằm phát triển kinh tế gia đình và đất nước, Luật Hôn nhân và Gia đình qui định rằng đây là một lí do chính đáng để vợ chồng có thể chia tài sản chung trong thời kì hôn nhân. Hơn nữa, nhiều hoạt động kinh doanh cũng được coi là mạo hiểm nên cần tách riêng một khoản tài sản để nếu việc kinh doanh bị thua lỗ thì cũng không ảnh hưởng quá nhiều đến sự tồn tại của gia đình. Nói chung là việc chia tài sản này nhằm để một người có tài sản riêng để thực hiện các giao dịch bảo đảm vay vốn kinh doanh, để giúp thực hiện các giao dịch đỡ phức tạp hơn, bảo đảm cuộc sống của gia đình không bị ảnh hưởng nặng nề khi việc kinh doanh thua lỗ. 2.3.2. Thực hiện nghĩa vụ dân sự riêng Theo Bộ luật Dân sự, nghĩa vụ dân sự là việc mà theo đó, một hoặc nhiều chủ thể phải chuyển giao vật, chuyển giao quyền, trả tiền hoặc giấy tờ có giá, thực hiện công việc khác hoặc không được thực hiện công việc nhất định vì lợi ích của một hoặc nhiều chủ thể khác. Việc thực hiện nghĩa vụ dân sự riêng là việc thực hiện nghĩa vụ mà chỉ một người (vợ hoặc chồng) phải thực hiện còn người kia (chồng hoặc vợ) không phải liên đới thực hiện. Việc thực hiện nghĩa vụ dân sự riêng này chỉ nhằm để thực hiện đúng nghĩa vụ phải thực hiện, chứ có mục đích nhằm để phát sinh lợi (vì nếu nhằm để phát sinh lợi thì sẽ thuộc trường hợp chia để đầu tư kinh doanh riêng). Nghĩa vụ dân sự riêng bao gồm các trường hợp thực hiện nghĩa vụ phát sinh do giao dịch do một bên thực hiện trước thời kì hôn nhân hoặc không nhằm đáp ứng nhu cầu thiết yếu của gia đình. Theo người viết nghĩa vụ dân sự riêng thường phải phát sinh trước khi chia tài sản chung[40][17] có như vậy việc chia tài sản chung mới là cần thiết để cho một trong hai người có thể thực hiện được nghĩa vụ này. Tuy nhiên cũng có trường hợp nghĩa vụ riêng là nghĩa vụ trong tương lai, tuy nhiên nó phải có tầm quan trọng nhất định thì mới được coi là chính đáng. Luật chỉ dự liệu trường hợp chia tài sản để thực hiện nghĩa vụ dân sự riêng chứ không hề dự liệu việc chia tài sản để thực hiện trách nhiệm hình sự hay trách nhiệm hành chính với hình phạt tiền. 2.3.3. Lí do chính đáng khác Trường hợp này là do luật chưa dự liệu hết được các trường hợp. Theo Nghị quyết số 01/1988/NQ-HĐTP của Hội đồng thẩm phán tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn thi hành Luật Hôn nhân và Gia đình năm 1986 thì trường hợp vợ chồng tính tình không hợp nhưng con cái đã lớn không muốn li hôn, được coi là một trường hợp có lí do chính đáng (trường hợp này có thể được coi là “li thân thực tế”). Theo người viết thì trường hợp một người thường xuyên có hành vi phá tán tài sản mà không thuộc trường hợp bị tuyên hạn chế năng lực hành vi dân sự (vì không nghiện hút hay nghiện các chất kích thích khác) cũng được coi là lí do chính đáng để vợ chồng chia tài sản chung. Thực tế là không hề có một chuẩn mực nào để đánh giá sự chính đáng trong lí do của việc chia tài sản chung, nếu như việc chia tài sản chung do tòa án quyết định thì một lí do có được coi là lí do chính đáng khác không sẽ do tòa án cân nhắc, còn nếu việc chia là do vợ chồng thỏa thuận thì không thể kiểm soát được lí do chia tài sản có là chính đáng hay không, mà chỉ có qui định về sự vô hiệu của bản thỏa thuận chia khi nó được lập ra nhằm để trốn tránh việc thực hiện nghĩa vụ về tài sản. 2.4. CÁCH THỨC CHIA Theo nguyên tắc của Luật Hôn nhân và Gia đình thì việc chia tài sản chung được tiến hành theo cách thức ưu tiên thỏa thuận, nếu không thỏa thuận được thì mới yêu cầu tòa án chia[41][18]. Trường hợp vợ chồng thỏa thuận được (hoặc là cả ba người thỏa thuận được khi người thứ ba yêu cầu vợ chồng chia) thì việc chia là hoàn toàn tự do có thể chia hết tài sản, chia một phần tài sản, chia cho hai bên có tài sản như nhau, chia cho một bên tất cả tài sản hiện có…miễn là việc chia đó không nhằm để trốn tránh thực hiện các nghĩa vụ về tài sản. Trường hợp không thỏa thuận được thì việc chia do tòa án, tuy các văn bản hiện hành không qui định về cách thức chia trong trường hợp này nhưng kế thừa các qui định của Luật Hôn nhân và Gia đình năm 1986 thì có lẽ cơ chế chia giống như trong một vụ li hôn[42][19]. Việc không qui định về cách thức chia trong trường hợp này có thể là sơ suất của nhà làm luật. 2.5. HÌNH THỨC CHIA VÀ HIỆU LỰC 2.5.1. Thỏa thuận bằng văn bản của vợ chồng Theo qui định của Luật Hôn nhân và Gia đình thì thỏa thuận của vợ chồng phải được lập thành văn bản. Yêu cầu bắt buộc của văn bản là phải ghi rõ các nội dung: lý do chia tài sản; phần tài sản chia (bao gồm bất động sản, động sản, các quyền tài sản); trong đó cần mô tả rõ những tài sản được chia hoặc giá trị phần tài sản được chia; phần tài sản còn lại không chia (nếu có); thời điểm có hiệu lực của việc chia tài sản chung; phải ghi rõ ngày, tháng, năm lập văn bản và phải có chữ kí của cả vợ và chồng. Văn bản có thể có người làm chứng, hoặc được công chứng, chứng thực theo yêu cầu của vợ chồng hoặc theo qui định của pháp luật[43][20]. Vậy nên việc chia tài sản của vợ chồng hiện tại không hề bắt buộc phải có người làm chứng, hay phải công chứng chứng thực, tuy nhiên với một số trường hợp để đảm bảo cơ sở pháp lí chắc chắn cho việc thực hiện các thủ tục pháp lí tiếp theo có liên quan đến tài sản chia thì bản thỏa thuận chia tài sản chung phải có công chứng, chứng thực ví dụ chia tài sản chung là quyền sử dụng đất, chia tài sản chung để tham gia giao dịch bảo đảm. Thời điểm có hiệu lực của văn bản thỏa thuận chia tài sản chung của vợ chồng phải được ghi rõ trong văn bản đó. Điều 7 Nghị định số 70/2001/NĐ-CP qui định về hiệu lực của văn bản thỏa thuận như sau: “1. Trong trường hợp văn bản thoả thuận chia tài sản chung của vợ chồng không xác định rõ thời điểm có hiệu lực của việc chia tài sản, thì hiệu lực được tính từ ngày, tháng, năm lập văn bản. 2. Trong trường hợp văn bản thoả thuận chia tài sản chung của vợ chồng được công chứng hoặc chứng thực theo yêu cầu của vợ chồng, thì hiệu lực được tính từ ngày xác định trong văn bản thoả thuận; nếu văn bản không xác định ngày có hiệu lực đó, thì hiệu lực được tính từ ngày văn bản đó được công chứng, chứng thực. 3. Trong trường hợp văn bản thoả thuận chia tài sản chung của vợ chồng phải công chứng, chứng thực theo quy định của pháp luật, thì hiệu lực được tính từ ngày văn bản đó được công chứng, chứng thực.” Dễ nhận thấy rằng thời điểm có hiệu lực được qui định là phải ghi trong văn bản nhưng nếu thiếu nó thì cũng không làm mất tính hợp pháp của văn bản (theo qui định của khoản 1) và sự thỏa thuận của vợ chồng về thời điểm có hiệu lực trong trường hợp văn bản phải được công chứng chứng thực theo qui định của pháp luật sẽ không có giá trị (theo khoản 3). 2.5.2. Quyết định của tòa án Trong trường hợp vợ chồng không thỏa thuận được thì vợ hoặc chồng hoặc cả hai người yêu cầu tòa án chia tài sản chung, hoặc trong trường hợp người thứ ba có quyền yêu cầu thực hiện nghĩa vụ dân sự riêng với vợ hoặc chồng mà không được đáp ứng thì cũng có quyền yêu cầu tòa án chia. Trường hợp này sẽ phải tiến hành các thủ tục tố tụng theo qui định của luật tố tụng dân sự. Hiệu lực của việc chia tài sản chung trong trường hợp này là ngày quyết định cho chia tài sản chung của vợ chồng có hiệu lực pháp luật. 2.6. HẬU QUẢ PHÁP LÍ VỀ TÀI SẢN CỦA VIỆC CHIA Hậu quả pháp lí về tài sản của việc chia tài sản chung trong thời kì hôn nhân chính là sự thay đổi của các khối tài sản. Theo qui định của điều 30 Luật Hôn nhân và Gia đình thì hậu quả pháp lí của việc chia tài sản chung trong thời kì hôn nhân là “hoa lợi, lợi tức phát sinh từ tài sản đã được chia thuộc sở hữu riêng của mỗi người; phần tài sản còn lại không chia vẫn thuộc sở hữu chung của vợ chồng”. Theo các qui định của luật thì quyền sở hữu tài sản riêng của vợ chồng được mở rộng phạm vi đó là hoa lợi lợi tức phát sinh từ tài sản riêng sẽ thuộc sở hữu riêng của vợ chồng, phần tài sản chung còn lại vẫn thuộc sở hữu chung của vợ chồng. Như vậy tức là khối tài sản riêng chỉ được mở rộng với các hoa lợi, lợi tức phát sinh từ khối tài sản riêng được chia còn khối tài sản chung vẫn được phát sinh theo luật. Tức là mọi tài sản tạo ra, mọi thu nhập hợp pháp, mọi tài sản được tặng cho chung, thừa kế chung, mọi tài sản mà vợ chồng thỏa thuận là tài sản chung đều là tài sản chung. Theo như câu chữ của luật thì hoa lợi lợi tức từ tài sản riêng của vợ chồng không do chia và thậm chí cả thu nhập từ việc bán tài sản riêng do được chia cũng thuộc khối tài sản chung. Việc này sẽ ảnh hưởng đến việc đầu tư kinh doanh của người được chia tài sản để đầu tư kinh doanh và như thế thì không phù hợp với mục đích của việc chia tài sản chung trong thời kì hôn nhân. Để tránh việc qui định như vậy Nghị định 70 hướng dẫn chi tiết Luật Hôn nhân và Gia đình đã qui định thêm về hậu quả chia tài sản chung trong thời kì hôn nhân như sau: “Thu nhập do lao động, hoạt động sản xuất kinh doanh và những thu nhập hợp pháp khác của mỗi bên sau khi chia tài sản chung là tài sản riêng của vợ, chồng, trừ trường hợp vợ chồng có thoả thuận khác[44]” Tuy nhiên qui định của Nghị định này thực tế đã làm thay đổi chế độ tài sản vợ chồng (ngay cả tên điều 9 của Nghị định cũng là “khôi phục chế độ tài sản chung của vợ chồng”), bởi theo như qui định này thì chỉ có những tài sản được tặng cho, thừa kế chung, tài sản vợ chồng thỏa thuận là tài sản chung và những hoa lợi lợi tức phát sinh từ tài sản chung mới thuộc khối tài sản chung, còn lại những tài sản là thu nhập hợp pháp của vợ chồng như lương, tài sản mà một người tạo ra trong thời kì hôn nhân thuộc khối tài sản riêng của vợ chồng…và nếu như vợ chồng quyết định chia tất cả tài sản chung thì khối tài sản chung sẽ gần như không còn có thể tồn tại nếu không được thừa kế chung, tặng cho chung hay vợ chồng không khôi phục lại chế độ tài sản chung. Có ý kiến cho rằng qui định này thực chất là đã chấp nhận chế độ biệt sản của vợ chồng[45], có ý kiến cho rằng qui định này là trái luật và phải bị vô hiệu hóa[46]. 2.7. VIỆC KHÔI PHỤC CHẾ ĐỘ TÀI SẢN CHUNG CỦA VỢ CHỒNG Việc khôi phục chế độ tài sản chung chỉ có thể đặt ra khi vợ chồng đã chia tài sản chung trong thời kì hôn nhân. Việc khôi phục chế độ tài sản chung phải theo thỏa thuận bằng văn bản của vợ chồng. Trong văn bản này bắt buộc phải ghi rõ lí do khôi phục tài sản chung, phần tài sản riêng của mỗi bên, phần tài sản chung (nếu có), thời điểm có hiệu lực của việc khôi phục chế độ tài sản chung. Văn bản thỏa thuận khôi phục chế độ tài sản chung của vợ chồng chỉ bắt buộc phải có chữ kí của cả hai vợ chồng, không bắt buộc phải có người làm chứng hay công chứng chứng thực, kể cả trường hợp văn bản thỏa thuận chia tài sản chung của vợ chồng được công chứng chứng thực nhưng không phải là trường hợp bắt buộc phải công chứng chứng thực theo qui định của pháp luật. Chỉ có qui định bắt buộc phải công chứng chứng thực đối với các văn bản thỏa thuận khôi phục chế độ tài sản chung trong trường hợp văn bản thoả thuận chia tài sản chung của vợ chồng phải công chứng, chứng thực theo qui định của pháp luật[47]. Việc khôi phục chế độ tài sản chung này căn cứ vào qui định tại điều 9 Nghị định 70 thì là khôi phục toàn bộ chế độ tài sản chung, tuy nhiên theo người viết, có thể khôi phục một phần chế độ tài sản chung, nó thực ra chỉ là việc khôi phục toàn bộ chế độ tài sản chung rồi lại chia tài sản chung nhưng có thỏa thuận là hoa lợi lợi tức phát sinh từ tài sản riêng sau khi chia và thu nhập hợp pháp của vợ chồng sau khi chia là tài sản chung của vợ chồng. Chương 3 VẤN ĐỀ THỎA THUẬN VỀ TÀI SẢN CỦA VỢ CHỒNG TRONG THỜI KÌ HÔN NHÂN THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM 3.1. THỎA THUẬN NHẬPT TÀI SẢN RIÊNG CỦA MỘT BÊN VỢ HOẶC CHỒNG VÀO TÀI SẢN CHUNG Thỏa thuận nhập tài sản riêng vào tài sản chung của vợ chồng là một vấn đề ít được bàn tới và cũng ít được qui định cụ thể như thỏa thuận chia tài sản chung trong thời kì hôn nhân. Có lẽ ít trường hợp mà thỏa thuận nhập tài sản riêng của vợ chồng vào tài sản chung trở nên cần thiết bởi nếu như những tài sản riêng (trừ những tài sản có được do chia tài sản chung trong thời kì hôn nhân) được đem giao dịch hay biến đổi thì đa phần sẽ tự trở thành tài sản chung theo qui định về căn cứ xác lập tài sản chung của vợ chồng. Hơn nữa do sự đặc biệt của quan hệ vợ chồng, do sự gắn kết đặc biệt giữa vợ chồng, sự gắn kết vì tình yêu, vì sự phát triển giống nòi nên vợ chồng coi nhau như một, cùng hướng tới một mục đích là phát triển kinh tế để gia đình được sống sung túc đầy đủ, tạo điều kiện tốt nhất để con cái học hành vì thế mà vợ, chồng luôn muốn đem tất cả những gì mình có để phục vụ cho các nhu cầu của gia đình, không muốn giữ của riêng, nên việc nhập tài sản riêng của vợ, chồng vào tài sản chung được coi như là một điều đương nhiên. Nhưng để tránh những tranh chấp về tài sản sau này, Nghị định số 70/2001/NĐ-CP (sau đây gọi tắt là Nghị định 70) đã qui định rõ là việc nhập những tài sản có giá trị lớn, nhà ở, quyền sử dụng đất phải được lập thành văn bản có chữ kí của cả hai vợ chồng, trong trường hợp pháp luật qui định thì phải công chứng, chứng thực[48][1]. Tuy nhiên với những trường hợp vợ, chồng chưa từng muốn nhập tài sản riêng vào tài sản chung và đối với tài sản đó thì việc nhập không bắt buộc phải lập thành văn bản nhưng lại có tranh chấp[49][2] về tài sản đó thì việc chứng minh nó là tài sản riêng của một người là vô cùng khó khăn và phức tạp bởi đời sống chung của vợ chồng là vô cùng phức tạp. Trong trường hợp đó nguyên tắc nếu không có chứng cứ chứng minh tài sản mà vợ, chồng đang có tranh chấp là tài sản riêng của mỗi bên thì tài sản đó là tài sản chung[50][3] sẽ được áp dụng. Việc nhập tài sản riêng vào tài sản chung có thể được tiến hành vào bất

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docTừ chia tài sản chung đến thỏa thuận về tài sản của vợ chồng trong thời kì hôn nhân theo pháp luật Việt Nam.doc
Tài liệu liên quan