Tiểu luận Tự do hoá dịch vụ bán lẻ Việt Nam- Thực trạng và giải pháp

Nghiên cứu ở hai thành phố lớn là Hà Nội và TP.HCM cho thấy kênh phân phối từ hệ thống siêu thị đã tăng từ 18% trong năm 2004 lên 23% năm 2005 và hiện nay dự đoán khoảng hơn 40%. Kênh phân phối truyền thống (chợ, cửa hàng, người bán dạo) đang giảm xuống đáng kể. Xu hướng tiêu dùng hiện đại thể hiện rõ nhất ở khu vực miền Nam với 63,7% người tiêu dùng chọn kênh phân phối siêu thị. Với tốc độ phát triển như hiện tại, nếu các nhà bán lẻ trong nước không liên kết lại, xây dựng được chiến lược cạnh tranh hợp lí thì việc phân phối hàng hoá nội địa ở các đô thị rơi vào tay các tập đoàn nước ngoài không phải là điều khó hiểu. Hiện tại, tỉ lệ doanh thu của các siêu thị nội chiếm chưa tới 10% hệ thống phân phối siêu thị.

doc30 trang | Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 1996 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tiểu luận Tự do hoá dịch vụ bán lẻ Việt Nam- Thực trạng và giải pháp, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
g quốc gia có tình hình thị trường bán lẻ được cải thiện khá tốt. Còn hai cường quốc hàng đầu là Mỹ và Nhật lại chưa cải thiện được gì nhiều đối với phân khúc thị trường này. Các quốc gia châu Âu khác như Ireland, Pháp và Tây Ban Nha được ghi nhận là có viễn cảnh thị trường bán lẻ u ám nhất vào thời điểm hiện tại. Niềm tin của nhà đầu tư chính là chìa khoá có tác động lớn đối với thị trường. Chính vì lẽ đó, tương lai của thị trường mặt bằng bán lẻ ở Brazil, Hồng Kông, Hàn Quốc, Trung Quốc và Ấn Độ sẽ khá sáng sủa trong thời gian tới. Thực trạng thị trường bán lẻ Việt Nam Việt Nam mở cửa thị trường bán lẻ Trước khi mở cửa Thị trường bán lẻ Việt Nam có sức hút lớn với các tập đoàn bán lẻ trên thế giới. Cụ thể, Việt Nam là nước có nền kinh tế phát triển nhanh trong nhiều năm qua, khoảng 8%. Mặt khác, Việt Nam có một thị trường tiêu thụ rộng lớn với trên 86 triệu dân, dân số trẻ, 65% trong độ tuổi lao động, hơn một nửa dân số có độ tuổi dưới 30, thu nhập ngày càng tăng. Chi tiêu của người tiêu dùng tăng 16% và doanh số bán lẻ tăng 20% trong giai đoạn 2004-2005. Doanh số bán lẻ Viêt Nam dự tính đạt 20 tỷ USD mỗi năm. Sức hút của thị trường bán lẻ Việt Nam tăng nhanh khi năm 2007, Việt Nam xếp hạng 2 trên thế giới (sau Ấn Độ) và đến năm 2006 Việt Nam đứng số 1 theo xếp hạng của Công ty tư vấn Mỹ A.T.Keaney về chỉ số phát triển kinh doanh bán lẻ toàn cầu. Ngoài ra, theo số liệu của Bộ Công Thương, trong giai đoạn 2001 - 2005 doanh thu bán lẻ thị trường Việt Nam tăng bình quân 18%/ năm, cao gấp khoảng 2 lần so với mức tăng trưởng bình quân của GDP cùng kỳ. Tuy nhiên, hệ thống phân phối của ta vẫn chưa phát triển và còn thô sơ. Theo số liệu thống kê tại thời điểm cuối năm 2006 thì hàng hoá đến người tiêu dùng chủ yếu vẫn qua hệ thống chợ (khoảng 40%) và qua hệ thống các cửa hàng bán lẻ độc lập, cửa hàng truyền thống (khoảng 44%), qua hệ thống phân phối hiện đại (trung tâm thương mại, siêu thị, cửa hàng tự chọn) mới chỉ chiếm khoảng 10%, do nhà sản xuất trực tiếp bán thẳng là 6%. Xuất phát từ những lý do trên, trong quá trình đàm phán gia nhập WTO, nhiều thành viên đã đưa ra yêu cầu rất cao, đề nghị Việt Nam mở cửa thị trường dịch vụ phân phối và coi đây là điều kiện tiên quyết cho việc chấp nhận nước ta gia nhập WTO. Do đã cam kết mở cửa thị trường dịch vụ phân phối trong Hiệp định thương mại song phương Việt Nam-Hoa Kỳ (BTA) nên nước ta đã đồng ý đàm phán với các thành viên WTO để dành cho các thành viên này đối xử như Việt Nam đã dành cho Hoa Kỳ. Cam kết của Việt Nam trong WTO đối với dịch vụ phân phối được thiết kế trên cơ sở Hiệp định Thương mại song phương Việt Nam-Hoa Kỳ (BTA). Tuy nhiên, do các thành viên WTO coi BTA chỉ là khởi điểm để đàm phán nên cam kết của Việt Nam trong WTO có nhiều thay đổi so với BTA. Trên thực tế, trước khi gia nhập WTO (trước ngày 11/1/2007), thị trường phân phối Việt Nam đã có nhiều doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài của các tập đoàn phân phối lớn trên thế giới. Ví dụ như: Metro Cash & Carry (Đức): có các siêu thị tại TP. Hồ Chí Minh, Hà Nội, Hải Phòng, Đà Nẵng, Cần Thơ. BigC: có các siêu thị tại  TP. Hồ Chí Minh, Hà Nội và Hải Phòng. Tập đoàn bán lẻ Parkson (Malaysia): có siêu thị tại TP. Hồ Chí Minh, Hải Phòng. Tập đoàn Dairy Farm (Singapore) cũng nộp đơn xin thành lập công ty 100% vốn nước ngoài. Lotte (Hàn Quốc) xin thành lập liên doanh. Cam kết mở cửa thị trường bán lẻ Việt Nam Như phần trên đã đề cập, BTA là hiệp định thương mại song phương Việt Nam – Hoa Kỳ cam kết mở cửa thị trường phân phối. Và BTA là cơ sở để đàm phán với các thành viên khác trong WTO. Theo đó sau khi gia nhập WTO, Việt Nam cam kết mở cửa tất cả các phân ngành dịch vụ phân phối theo phân loại của WTO, bao gồm: Dịch vụ đại lý hoa hồng. Dịch vụ bán buôn. Dịch vụ bán lẻ (bao gồm cả hoạt động bán hàng đa cấp). Dịch vụ nhượng quyền thương mại. Cần nhấn mạnh rằng 1/1/2009 không phải là “giờ G” hay thời điểm “mở cửa hoàn toàn thị trường bán lẻ”. Thực tế việc mở cửa thị trường dịch vụ phân phối đã được thực hiện ngay sau khi Việt Nam trở thành thành viên chính thức của WTO (tháng 1-2007) theo hình thức liên doanh. Nhưng từ 1-1-2009, doanh nghiệp nước ngoài mới được hoạt động trong lĩnh vực phân phối dưới hình thức 100% vốn đầu tư nước ngoài. Tuy nhiên, việc mở cửa cho các doanh nghiệp nước ngoài gắn liền với một số điều kiện chứ không phải ồ ạt đổ bộ vào thị trường Việt Nam. Trong danh mục hàng hóa mà doanh nghiệp nước ngoài được phân phối theo lộ trình từ 1-1-2009 có  máy kéo, phương tiện cơ giới, ô tô con, xe máy. Từ 1-1-2010 có thêm: xi măng, clinke, phân bón, sắt, thép, giấy, lốp xe, thiết bị nghe nhìn... Những hàng hóa doanh nghiệp nước ngoài không được quyền phân phối gồm: lúa gạo, đường, thuốc lá - xì gà, dầu thô và dầu đã qua chế biến, dược phẩm, thuốc nổ, sách-báo-tạp chí, kim loại quý-đá quý, vật phẩm đã ghi hình trên mọi chất liệu (đĩa, băng, các phương tiện đã lưu trữ thông tin). Hiện có năm tập đoàn bán lẻ nước ngoài quy mô lớn đang hoạt động tại Việt Nam. Trong đó, tập đoàn Metro đăng ký kinh doanh theo hình thức bán buôn nhưng thực ra hoạt động phần lớn là bán lẻ (bán cho người mua cuối cùng). Big C hoạt động theo hình thức bách hóa tổng hợp. Parkson có mô hình bán hàng bách hóa chuyên về hàng công nghiệp. Lotte kinh doanh cả siêu thị lẫn gian hàng. Còn Louis Vuiton chỉ bán sản phẩm mang thương hiệu của họ. Song, điều đáng lo ngại nhất là trong 10 nhà bán lẻ hàng đầu thế giới mới chỉ có Metro (đứng thứ 5) xâm nhập vào Việt Nam. Lotte Mart của Hàn Quốc tuy có những chiến dịch quảng bá rầm rộ nhưng vẫn chỉ là nhà bán lẻ đứng thứ 79 thế giới và thứ 14 châu Á, vậy mà đã khiến nhiều doanh nghiệp nội địa “hoảng hốt”, huống chi sắp tới, dự báo sẽ còn hàng loạt tên tuổi trong top 10 nhà bán lẻ thế giới đổ bộ vào Việt Nam. Theo thông tin mới nhất, tập đoàn Tesco của Anh (đứng thứ 4) đã có sẵn 2 địa điểm để mở đại siêu thị ở Hà Nội và TP. Hồ Chí Minh. Phương thức tiếp cận của tập đoàn này là mua một thương hiệu bán lẻ nội địa hoặc liên doanh với một đơn vị trong nước để mở hệ thống phân phối, bán lẻ. Sắp tới sẽ là Tập đoàn Carrefour của Pháp (đứng thứ 2), Seven-Eleven của Nhật. Ngoài 8 siêu thị trên toàn quốc, Metro Cash & Carry đang có ý định mở thêm 4 trung tâm nữa tại Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh, Nha Trang và Đồng Nai. Hay Tập đoàn Bourbon, chủ sở hữu Hệ thống siêu thị Big C cũng đang chuẩn bị xây dựng thêm 4 siêu thị mới tại Hà Nội, làm tròn chuỗi 10 siêu thị mà họ đang sở hữu. Tập đoàn bán lẻ Dairy Farm (HongKong) thông qua công ty con là Giant South Asia Việt Nam cũng vừa khai trương siêu thị đầu tiên tại thành phố Hồ Chí Minh. Lotte Mart khai trương vào ngày 18-12-2008 cũng quyết định nâng chỉ tiêu mở rộng mạng lưới từ 15 lên 30 siêu thị trong vòng 10 năm với tổng vốn đầu tư lên đến 5 tỉ USD. Trước đó, Dairy Farm đã mua lại toàn bộ chuỗi 6 siêu thị Citimart của Công ty Đông Hưng. Dự kiến, Dairy Farm sẽ rót tới 5 triệu USD nhằm mở rộng kinh doanh tại thị trường Việt Nam. Đánh giá những thuận lợi khó khăn sau khi mở cửa thị trường bán lẻ a. Thuận lợi Quy mô thị trường Thị trường bán lẻ Việt Nam tuy quy mô không lớn (55 tỷ USD trong năm 2008), nhưng rất hấp dẫn với các nhà đầu tư nước ngoài do mức lưu chuyển hàng hóa liên tục tăng trong những năm gần đây. Quy mô thị trường bán lẻ Việt Nam năm 2007 khoảng 20 tỉ USD và đạt tốc độ tăng trưởng bình quân 8%/năm. Kênh bán lẻ hiện đại có tỉ trọng 13%, tuy nhiên tốc độ tăng trưởng bình quân hàng năm rất cao – khoảng 30%. Doanh số bán lẻ thị trường Việt Nam được dự tính khoảng trên 20 tỷ USD mỗi năm. Riêng tại thành phố Hồ Chí Minh và Hà Nội, kênh bán lẻ hiện đại có tỉ trọng khoảng 28% (năm 2008) và dự kiến lên đến 37% vào năm 2010. Mức độ HOT của thị trường bán lẻ Việt Nam (Tháng 11 - 2008) (Nguồn: Nielsen Việt Nam) Quy mô và mức dân số đang trong thời điểm có khả năng chi tiêu đã làm cho Việt Nam khác biệt so với các thị trường kinh doanh bán lẻ khác tại châu Á. Việt Nam có số dân hơn 86 triệu người và hằng năm tăng trên 1 triệu người là thị trường có tiềm năng rất hấp dẫn đối với các nhà bán lẻ. Công ty nghiên cứu thị trường của Mỹ RNCOS trong báo cáo "Phân tích thị trường bán lẻ Việt Nam từ năm 2008 đến năm 2012" đã cho rằng tuy quy mô thị trường bán lẻ nhỏ hơn nhiều so với các nền kinh tế đang phát triển khác tại châu Á, nhưng đổi lại, Việt Nam có những yếu tố căn bản cho sự phát triển mạnh với doanh thu bán lẻ tăng từ 23,7 tỉ đô la Mỹ năm 2005 lên gần 39 tỉ đô la Mỹ năm 2008. Với một thị trường tiêu thụ rộng lớn khoảng 86 triệu dân, thu nhập ngày càng cao, cùng với áp lực cạnh tranh giữa các hệ thống bán lẻ chưa nhiều thì thị trường bán lẻ Việt Nam thực sự có sức hấp dẫn rất lớn. Thói quen chi tiêu Thu nhập tăng và văn hóa tiêu dùng đang dần dần xuất hiện đã góp phần thúc đẩy sức tiêu dùng gia tăng. Chi tiêu cho các loại hàng tiêu dùng tăng 20% mỗi năm. Năm 2000, chi tiêu cho bán lẻ tại Việt Nam chỉ đạt mức 15 tỉ USD, năm 2006 đã đạt mức 36 tỉ USD và đến năm 2010 dự kiến con số này sẽ vượt mức 50 tỉ USD. Việt Nam có tiềm năng lớn về sức mua với tốc độ tăng trưởng cao và dân số trẻ. Tính tự cấp tự túc giảm nhanh, tỷ lệ tiêu dùng thông qua mua bán tăng rất mạnh (tỷ lệ tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng so với tiêu dùng cuối cùng đã tăng từ 64,7% năm 1995 lên 68,5% năm 2000, 82,1% năm 2005, 93,1% năm 2007 và có khả năng vượt qua mốc 95% trong năm nay). Mức tiêu dùng bình quân đầu người tuy còn thấp, nhưng tốc độ tăng quy mô và tổng mức bán lẻ hàng hóa cũng như doanh thu dịch vụ tiêu dùng, nếu loại trừ tốc độ tăng giá tiêu dùng vẫn tăng cao (tăng 12,3%/ năm), ước tính đạt 57,6 tỉ USD trong năm nay. Tỷ lệ dân số đô thị chưa cao (năm 2007 mới đạt 27,44%, thuộc loại thấp trên thế giới), nhưng đang có xu hướng tăng nhanh, nên cơ cấu tiêu dùng cũng sẽ có sự chuyển dịch nhanh. Đến năm 2011 gần 3/4 dân số (69%) sẽ nằm trong độ tuổi từ 15-64, và môi trường kinh doanh bán lẻ của Việt Nam dự đoán sẽ trưởng thành cùng với thế hệ những người tiêu dùng trẻ, tạo nên cuộc cách mạng về thị trường kinh doanh bán lẻ tại khắp các khu vực thành thị của Việt Nam. Môi trường kinh tế vĩ mô Công ty nghiên cứu thị trường RNCOS còn khẳng định, với việc Chính phủ Việt Nam cho phép các công ty nước ngoài gia nhập thị trường bán lẻ, doanh thu của thị trường này tại Việt Nam vào năm 2012 sẽ vượt mức 85 tỉ đô la Mỹ và các kênh bán lẻ hiện đại sẽ đóng vai trò chủ chốt trong sự phát triển của ngành công nghiệp này trong tương lai. Trong khi Việt Nam tăng trưởng kinh tế vẫn thuộc loại cao so với các nước, tốc độ tăng tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng tuy thấp hơn các năm trước nhưng tính chung 10 tháng qua vẫn còn tăng 6,1%, thì thị trường Việt Nam vẫn còn rất hấp dẫn. Tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng tính bằng USD theo tỷ giá hối đoái (triệu USD) (Nguồn: Tổng cục Thống kê) Cơ cấu tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng cũng có một số điểm đáng lưu ý. Theo ngành hoạt động, chiếm tỷ trọng lớn nhất vẫn là ngành thương nghiệp (tức là thương mại thuần túy), năm 2007 là 77%, năm 2008 cao hơn chủ yếu do giá tăng cao hơn. Lĩnh vực thương mại dịch vụ (khách sạn nhà hàng, du lịch, dịch vụ) mặc dù tăng lên, nhưng hiện vẫn còn chiếm tỷ trọng nhỏ (khách sạn nhà hàng năm 2007 chiếm 11,8%, 10 tháng này giảm còn 11,3%; du lịch, dịch vụ năm 2007 chiếm 11,2%, 10 tháng này còn 6,3%). Theo xếp loại của hãng tư vấn thị trường toàn cầu Mỹ AT Kearney, những năm gần đây Việt Nam liên tục đứng top đầu về sự hấp dẫn của thị trường bán lẻ: năm 2005, 2006, 2007, có thứ tự là 8; 3; 4; đặc biệt năm 2008 đứng thứ 1. Việt Nam có đến 65% dân số là người tiêu dùng trẻ, chi tiêu mạnh tay. Tầng lớp trung lưu với thu nhập 250USD/tháng trở lên đang tăng nhanh. Riêng tầng lớp trung lưu thu nhập trên 500USD/tháng chiếm trên 1/3 số hộ gia đình ở thành thị. Chính vì thế, sức hút của thị trường bán lẻ VN tăng nhanh khi năm 2007, Việt Nam xếp hạng 2 trên thế giới sau Ấn Độ, nhưng tháng 6.2008 – theo xếp hạng của Công ty tư vấn Mỹ A.T.Keaney về chỉ số phát triển kinh doanh bán lẻ toàn cầu thì Việt Nam đã đứng số 1. Hiện nay một số nhà sản xuất và các nhà phân phối bán lẻ hàng đầu đã hoạt động tại Việt Nam như Metro Cash & Carry, Big C, Parkson, và Wal-Mart cũng đang đặt sự chú ý rất nhiều vào thị trường bán lẻ Việt Nam. b. Khó khăn Khó khăn của doanh nghiệp Việt Nam Nghiên cứu ở hai thành phố lớn là Hà Nội và TP.HCM cho thấy kênh phân phối từ hệ thống siêu thị đã tăng từ 18% trong năm 2004 lên 23% năm 2005 và hiện nay dự đoán khoảng hơn 40%. Kênh phân phối truyền thống (chợ, cửa hàng, người bán dạo) đang giảm xuống đáng kể. Xu hướng tiêu dùng hiện đại thể hiện rõ nhất ở khu vực miền Nam với 63,7% người tiêu dùng chọn kênh phân phối siêu thị. Với tốc độ phát triển như hiện tại, nếu các nhà bán lẻ trong nước không liên kết lại, xây dựng được chiến lược cạnh tranh hợp lí thì việc phân phối hàng hoá nội địa ở các đô thị rơi vào tay các tập đoàn nước ngoài không phải là điều khó hiểu. Hiện tại, tỉ lệ doanh thu của các siêu thị nội chiếm chưa tới 10% hệ thống phân phối siêu thị. Thực tế cho thấy các đơn vị bán lẻ trong nước còn chưa nhiều, lại thiếu tính chuyên nghiệp và vốn ít; hệ thống hậu cần như kho bãi, xe chuyên dùng, nguồn hàng rời rạc, thiếu đồng bộ và chưa đạt chuẩn; hạ tầng giao thông kém. Bên cạnh đó, Chính phủ hầu như chưa phát huy được vai trò của mình trong việc định hướng cũng như giúp đỡ các doanh nghiệp trong nước. Điển hình là việc cấp giấy phép hoạt động cho các doanh nghiệp bán lẻ nước ngoài, nhìn lại ta sẽ thấy hầu hết những siêu thị, trung tâm thương mại nước ngoài đều chọn được những vị trí đẹp nhất, gần vị trí trung tâm, nơi tập trung dân cư, giao thông thuận tiện, mặt bằng rộng. Khó khăn đối với doanh nghiệp và hộ kinh doanh Việt Nam đó là năng lực cạnh tranh của từng doanh nghiệp yếu vì đại bộ phận các doanh nghiệp có quy mô nhỏ, trình độ quản lý lạc hậu, phương thức kinh doanh chưa tiên tiến, cơ sở hạ tầng kinh doanh chưa hiện đại, chiến lược kinh doanh chưa được quan tâm đúng mức. Đồng thời, tính liên kết giữa các doanh nghiệp yếu như: liên kết dọc giữa nhà sản xuất - nhà bán buôn - nhà bán lẻ; liên kết ngang giữa nhà bán buôn với nhà bán buôn, nhà bán lẻ với nhà bán lẻ; liên kết giữa nhà phân phối với các nhà cung ứng dịch vụ ngân hàng. Tuy nhiên, hiện nay hàng hoá đến người tiêu dùng chủ yếu vẫn qua hệ thống chợ (khoảng 40%) và qua hệ thống các cửa hàng bán lẻ độc lập, cửa hàng truyền thống (khoảng 44%), qua hệ thống phân phối hiện đại (trung tâm thương mại, siêu thị, cửa hàng tự chọn...) mới chỉ chiếm khoảng 10%, 6% là do nhà sản xuất trực tiếp bán thẳng. Khi cánh cửa đã mở ra công bằng cho mọi nhà bán lẻ, cả trong và ngoài nước vào ngày 01/01/2009, một mặt, Chính phủ cũng lo ngại liệu các nhà bán lẻ trong nước có hợp tác và cạnh tranh tốt với các nhà bán lẻ nước ngoài vốn “mạnh gạo bạo tiền” và dày dạn kinh nghiệm hay không. Mặt khác, Chính phủ cũng kỳ vọng các nhà bán lẻ nước ngoài sẽ góp phần tạo ra một môi trường bán lẻ phong phú, đa dạng, chuyên nghiệp nhưng cũng phải rất Việt Nam. Khó khăn của nhà đầu tư nước ngoài Đến thời điểm này, sau một năm mở cửa hoàn toàn thị trường bán lẻ, chỉ có một số tập đoàn bán lẻ nước ngoài có quy mô tương đối lớn hoạt động tại Việt Nam như Metro Cash&Carry, Bourbon, Parkson, Lotte. Các tập đoàn bán lẻ lớn như Wal Mart, Dairy Farm, Carrefour đã từng được xem là các nhà đầu tư tiềm năng nhưng hiện vẫn chưa vào Việt Nam. Từ khi Việt Nam bắt đầu mở cửa từ cách đây 3 năm, không có một doanh nghiệp bán lẻ mới nào xin cấp quyền kinh doanh, chỉ có một số tập đoàn đã kinh doanh tại Việt Nam từ trước như Metro, Big C xin mở thêm các địa điểm bán lẻ. Các doanh nghiệp nước ngoài có quy mô lớn và cách làm việc chuyên nghiệp. Nhưng chính quy mô vừa phải của các doanh nghiệp nội địa phù hợp hơn với cách tiêu dùng truyền thống, vốn chiếm 85% lưu chuyển hàng hóa bán lẻ trong nước. Hơn nữa những tập đoàn đến từ nước ngoài không thể am hiểu văn hóa, tập quán mua sắm của người tiêu dùng Việt Nam bằng chính các nhà bán lẻ Việt Nam. Việt Nam chính thức mở cửa hoàn toàn thị trường bán lẻ cho doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài vào đầu năm 2009 – cũng là thời điểm kinh tế thế giới khủng hoảng. Các doanh nghiệp đa quốc gia gặp nhiều khó khăn trong cuộc khủng hoảng, họ phải điều chỉnh lại chủ trương, chính sách, nguồn vốn và cân nhắc kỹ để đi đến quyết định đầu tư ở một nước khác. Mặt khác, các nhà đầu tư cũng cảm thấy các điều kiện về thủ tục đầu tư vào Việt Nam còn khó khăn nên chưa thể vào ngay được. Hiện nay, một khó khăn khác cho các nhà bán lẻ nước ngoài là thuê địa điểm kinh doanh. Bởi lẽ, một cửa hàng hay trung tâm bán lẻ cần phải tọa lạc tại vị trí trung tâm của thành phố và nằm trên những con đường lớn. Thế nhưng, tại Việt Nam, giá cho thuê mặt bằng ở các khu vực trung tâm quá đắt đỏ. Cũng theo thống kê, giá thuê trung bình tại TP.HCM và Hà Nội đã tăng nhanh chóng kể từ năm 2002 và đạt mức 40USD/m2/tháng vào cuối quí 3 năm 2007. Giá thuê của những mặt bằng tại những vị trí đẹp, hoặc tại khu trung tâm kinh doanh thương mại và tầng trệt lên đến 200USD/m2/tháng. Một khó khăn nữa là việc mở cửa thị trường bán lẻ thông qua việc lập cơ sở bán lẻ thứ hai tại Việt Nam vẫn còn phụ thuộc vấn đề kiểm tra nhu cầu kinh tế (Economic Needs Test - ENT) theo cam kết WTO. Theo Hiệp định chung về thương mại dịch vụ (GATS), ENT được sử dụng trong đàm phán thương mại dịch vụ. Có quan điểm cho rằng, một mặt ENT là công cụ để các nước thành viên mới linh hoạt hơn trong việc áp dụng các chính sách mở cửa thị trường; mặt khác, nó là một dạng rào cản tiếp cận thị trường được xác lập và hoạt động theo điều XVI của GATS. Theo Biểu cam kết cụ thể về dịch vụ của Việt Nam và WTO, ENT được quy định như là một hạn chế trong việc tiếp cận thị trường phân phối - bán lẻ Việt Nam (phần 4 - Dịch vụ phân phối, Biểu cam kết cụ thể về dịch vụ). Ngoài ra, Chính phủ Việt Nam còn quy định thêm hai tiêu chí là quy hoạch của các tỉnh, thành phố và mật độ dân cư: “Việc thành lập các điểm bán lẻ ngoài điểm bán lẻ đầu tiên sẽ được xem xét theo từng trường hợp cụ thể và phụ thuộc vào số lượng điểm bán lẻ, tính ổn định thị trường, mật độ dân cư tại tỉnh, thành mà điểm bán lẻ sẽ được thiết lập, và tính phù hợp của dự án đầu tư với kế hoạch tổng thể của tỉnh, thành đó”. Như vậy, nếu cho rằng thị trường cần thêm một điểm bán lẻ thì cơ quan cấp phép địa phương sẽ cấp phép cho nhà đầu tư, còn nếu cho rằng chưa cần, cơ quan cấp phép có quyền từ chối cấp phép. Việc cấp phép sẽ hoàn toàn phụ thuộc vào ý chí chủ quan của cơ quan cấp phép của từng địa phương và từ đó có thể phát sinh tiêu cực. Cho đến nay, sau gần ba năm mở cửa thị trường bán lẻ, Việt Nam vẫn chưa có hướng dẫn cụ thể nào về ENT và cụ thể hóa các tiêu chí để áp dụng ENT trong các văn bản pháp quy, cũng như chưa xác định cụ thể thế nào là điểm bán lẻ, phân định rõ ENT và phân vùng địa lí (zoning), định nghĩa thế nào là người tiêu dùng cuối cùng, đơn vị bán lẻ. Giải pháp cho ngành bán lẻ Việt Nam trong môi trường tự do hoá Giải pháp của Chính phủ Trong bối cảnh tự do hóa thị trường bán lẻ như hiện nay, các nhà bán lẻ nội địa rất cần một người nhạc trưởng để nối kết các doanh nghiệp, tăng sức mạnh cạnh tranh trước đối thủ khổng lồ từ bên ngoài. Không ai có thể làm tốt vai trò này hơn là Nhà nước. Trong lĩnh vực phân phối bán lẻ, thực sự doanh nghiệp Việt Nam còn thua kém các tập đoàn nước ngoài về nhiều mặt, vì vậy sự quan tâm, trợ giúp từ phía Chính phủ là rất cần thiết, đặc biệt là vai trò của các chính sách. Sự trợ giúp trước hết phải tập trung vào các doanh nghiệp điển hình để tạo sự bứt phá thành các đầu tàu. Mặt khác, cần có một quy hoạch tổng thể cho ngành bán lẻ, tránh đầu tư chồng chéo gây lãng phí, không những không phát huy được nội lực mà còn triệt tiêu lẫn nhau. Trong đó, cần tập trung vào các vấn đề: Thứ nhất là chính sách hỗ trợ về mặt bằng, bởi chúng ta có thể thấy khó khăn lớn nhất hiện nay của các doanh nghiệp bán lẻ Việt Nam là thiếu mặt bằng - một yếu tố quan trọng để thành công trong lĩnh vực này. Thứ hai, đưa ra các quy định đối với nhà bán lẻ nước ngoài. Việc cấp phép cho các nhà đầu tư nước ngoài là điều khó tránh khỏi, song cấp như thế nào, liều lượng bao nhiêu thì cần phải tính toán thật kỹ lưỡng. Cam kết của chúng ta có quyền hạn chế việc mở thêm điểm bán lẻ. Do đó không nên cấp phép một cách ào ạt cho các nhà phân phối lập thành chuỗi lớn. Việc cấp phép đầu tư cần dựa trên quy mô của các doanh nghiệp nước ngoài và các lợi ích cam kết đối với phát triển kinh tế Việt Nam. Hơn nữa, phải xem nhu cầu phát triển bán lẻ trên địa bàn đó có cần thiết không. Thứ hai là số doanh nghiệp đã hoạt động ở đó như thế nào để bảo đảm phân bố nguồn lực một cách hợp lý. Trên một địa điểm mà tập trung nhiều nhà bán lẻ sẽ gây ra lãng phí không cần thiết. Bên cạnh đó, khi cho phép các nhà bán lẻ nước ngoài vào Việt Nam, Nhà nước nên định vị bằng những quy định cụ thể như chỉ cấp phép lập siêu thị ở nơi xa nội thành, định ra tỷ lệ nội địa hóa, đưa ra các rào cản kỹ thuật phù hợp với thông lệ quốc tế và điều kiện của Việt Nam như: tiêu chuẩn chất lượng, vệ sinh an toàn thực phẩm, môi trường. Thứ ba, định hướng phát triển cụ thể cho ngành bán lẻ Việt Nam. Bởi nếu cứ để cho ngành bán lẻ phát triển tự phát như hiện nay, chắc chắn doanh nghiệp trong nước không thể cạnh tranh với các tập đoàn bán lẻ nước ngoài. Để làm được việc này thì trước hết phải xây dựng được quy hoạch bán lẻ trên cả nước. Cần phải có những tiêu chí cụ thể như: tại mỗi tỉnh, thành phố lớn cần có bao nhiêu siêu thị, trung tâm thương mại là vừa; khu vực nào sẽ xây cao ốc, khu nào sẽ xây siêu thị, chế độ ưu đãi cho doanh nghiệp trong nước như thế nào. Trong đó, Nhà nước cần đóng vai trò nhạc trưởng để liên kết, thu hút các nhà bán lẻ, sản xuất vào sự cạnh tranh chung. Cái mà Nhà nước có thể thực hiện được mà không trái với WTO chính là làm trung gian liên kết doanh nghiệp. Các nhà phân phối, sản xuất không thể tiếp tục hoạt động đơn lẻ, mà phải liên kết lại để hỗ trợ, phát huy sức mạnh. Nhà nước cần khuyến khích các doanh nghiệp quy mô lớn mua, sáp nhập những cửa hàng nhỏ để phát triển hệ thống bán lẻ hiện đại đủ sức cạnh tranh trên thị trường. Đẩy mạnh liên kết giữa các doanh nghiệp sẽ góp phần tạo sức mạnh cạnh tranh trên thị trường. Các tập đoàn bán lẻ nước ngoài khi vào Việt Nam chủ yếu tập trung ở các thành phố lớn nên cơ hội vẫn còn với doanh nghiệp bán lẻ trong nước nếu họ khai thác tốt thị trường nông thôn. Đây là thị trường tiềm năng mà các doanh nghiệp bán lẻ Việt Nam có thể khai thác bởi 70% dân số đang sinh sống ở khu vực nông thôn nhưng triển khai như thế nào lại là vấn đề. Mới đây, Bộ Chính trị đã phát động cuộc vận động "Người Việt Nam ưu tiên dùng hàng Việt Nam", nhưng đưa được hàng Việt về nông thôn là một chặng đường đầy gian nan. Muốn đưa hàng Việt về nông thôn thì phải có được một mạng lưới phân phối rộng khắp và chuyên nghiệp. Vì vậy, ngoài việc cần có chính sách hỗ trợ về mặt bằng để xây dựng được các kho và tổng kho nhằm rút ngắn các khâu trung gian, giảm chi phí, còn cần có những chính sách hỗ trợ về vốn để khuyến khích doanh nghiệp phân phối trong nước tham gia đầu tư. Trên cơ sở đó, thiết lập hệ thống hai chiều: sản xuất từ thành thị, phân phối về nông thôn và đưa hàng hóa sản xuất từ nông thôn về thành thị. Hệ thống hai chiều này sẽ giúp giảm chi phí vận chuyển và làm cho đường đi của sản phẩm đến người tiêu dùng ngắn nhất. Để nâng cao năng lực cạnh tranh cho các doanh nghiệp bán lẻ, trong thời gian tới nhà nước còn cần tập trung các chương trình hành động cụ thể như: Chương trình "Hỗ trợ đào tạo, bồi dưỡng nâng cao nguồn nhân lực", "Hỗ trợ thành lập doanh nghiệp" và "Hỗ trợ phát triển liên kết bền vững ngành dịch vụ phân phối". Nhà nước cần có cơ chế khuyến khích doanh nghiệp đầu tư xây dựng hệ thống bán lẻ tại các vùng sâu vùng xa. Ngoài ra, Nhà nước còn phải xây dựng tiêu chuẩn và hướng dẫn phát triển các loại hình tổ chức dịch vụ bán lẻ để các doanh nghiệp có cơ sở quyết định khi đầu tư vào lĩnh vực này. Xây dựng cơ chế thanh tra, giám sát cụ thể đối với từng loại hình phân phối bán lẻ, tính minh bạch trong việc niêm yết giá, những thay đổi về giá cả. Xây dựng hệ thống thông tin thương mại cho các doanh nghiệp. Cuối cùng, Nhà nước cần có chính sách ưu đãi, khuyến khích doanh nghiệp trong nước đầu tư đổi mới và mở rộng hệ thống phân phối bằng các nguồn vốn ưu đãi trong các chương trình phát triển, có chính sách ưu đãi về thuế và đất đai, đổi mới công nghệ cũng như được hỗ trợ về thông tin thị trường, dự báo giá cả và xúc tiến thương mại. Các giải pháp của chính phủ nói trên tuy rất hữu ích, nhưng chưa thể phát huy tác dụng trong một sớm một chiều, do đó đòi hỏi các doanh nghiệp cần có những giải pháp của riêng mình để có thể đứng vững trong bối cảnh tự do hóa như hiện nay. Giải pháp của các doanh nghiệp bán lẻ trong nước a. Mở rộng quy mô và hình thành các tập đoàn bán lẻ lớn. Mở rộng quy mô thông qua việc liên kết với các doanh nghiệp trong ngành Hiện nay hầu hết các doanh nghiệp bán lẻ nuớc ta đều có quy mô nhỏ và có nguồn vố

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docTự do hoá dịch vụ bán lẻ Việt Nam- Thực trạng và giải pháp.doc
Tài liệu liên quan