Tiểu luận Tư tưởng cách mạng Nguyễn Ái Quốc được hình thành như thế nào từ khi gặp chủ nghĩa Mac Lenin

Trước sự phát triển mạnh mẽ của phong trào cách mạng trong nước thì những đồng chí hội viên tiên tiến của Việt Nam thanh niên cách mạng đồng chí hội ở Bắc Kỳ đã tiến hành họp tại số nhà 5D Hàm Long Hà Nội vào đầu 3-1929 để tiến hành thành lập ra chi bộ Cộng sản đầu tiên ở trong nước và chi bộ này đã ra nghị quyết: phải thành lập ra Đảng Cộng sản. Cuối tháng 3 năm 1929, Đại hội kì bộ Bắc Kỳ của Việt Nam thanh niên cách mạng đồng chí hội cũng được tiến hành và đại hội này đã thông qua chủ trương thành lập Đảng của chi bộ cộng sản đầu tiên đồng thời đại hội cũng cử đại biểu đi dự Đại hội thanh niên toàn quốc và giao nhiệm vụ cho các đồng chí đại biểu: phải đấu tranh để chủ trương thành lập Đảng được chấp thuận tại Đại hội thanh niên toàn quốc.

doc17 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 2666 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tiểu luận Tư tưởng cách mạng Nguyễn Ái Quốc được hình thành như thế nào từ khi gặp chủ nghĩa Mac Lenin, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
thanh niên bằng rượu, thuốc phiện; mị dân, tuyên truyền xuyên tạc lịch sử văn hóa Việt Nam . Tuyên truyền văn hóa thực dân vong bản nhằm thủ tiêu tinh thần yêu nước và nền văn hóa của dân tộc ta. Việt Nam từ xã hội phong kiến độc lập đã trở thành xã hội thuộc địa, nửa phong kiến. Dân tộc Việt Nam bị mất tự do, kinh tế không phát triển, đời sống vô cùng cực khổ. Dưới ách thống trị của thực dân Pháp tình hình giai cấp – xã hội Việt Nam đã có những biến đổi sâu sắc. - Giai cấp địa chủ phong kiến tồn tại hàng nghìn năm trong lịch sử từ địa vị là giai cấp thống trị nay trở thành tay sai cho thực dân Pháp câu kết với thực dân Pháp bóc lột nhân dân ta. Giai cấp địa chủ được chia thành: + Đại địa chủ: có nhiều ruộng đất, câu kết với thực dân Pháp bóc lột nhân dân ta + Trung địa chủ + Tiểu địa chủ - Những địa chủ phong kiến phản cách mạng được thực dân Pháp dung dưỡng và nuôi béo vì vậy đây chính là đối tượng của cách mạng - Những địa chủ phong kiến bị đế quốc chèn ép có tinh thần dân tộc và tinh thần cách mạng. Tuy nhiên cũng không trở thành lực lượng lãnh đạo cách mạng. - Giai cấp nông dân + Chiếm 90% trong xã hội phong kiến thực dân Việt Nam bao gồm: Phú nông, trung nông, bần nông, cố nông + Giai cấp nông dân bị địa chủ phong kiến và đế quốc bóc lột nặng nề, đế quốc bóc lột nhân dân bằng sưu cao thuế nặng, địa chủ bóc lột nhân dân bằng cướp đoạt ruộng đất, địa tô, cướp đoạt ruộng đất dẫn đến giai cấp nông dân bị đẩy vào đường cùng. + Giai cấp nông dân là lực lượng đông đảo nhất và hăng hái nhất có vai trò quyết định đến cuộc giải phóng dân tộc, bị đế quốc và địa chủ chèn ép mâu thuẫn đặc biệt với đế quốc thực dân và phong kiến tay sai phản động vừa có mâu thuẫn về dân tộc vừa có mâu thuẫn về giai cấp trong đó mâu thuẫn dân tộc là lớn nhất. Tuy nhiên giai cấp nông dân cũng không thể trở thành lực lượng lãnh đạo cách mạng do trình độ văn hoá thấp. - Giai cấp công nhân + Ra đời trong cuộc khai thác thuộc địa của thực dân Pháp ngay từ cuộc khai thác thuộc địa lần thứ nhất. + Giai cấp công nhân Việt Nam còn rất trẻ chiếm 1% dân số, trình độ văn hoá kỹ thuật rất thấp. + Đặc điểm của giai cấp công nhân Việt Nam: Ngoài những đặc điểm chung với giai cấp công nhân thế giới giai cấp công nhân Việt Nam còn có những đặc điểm riêng biệt khác so với giai cấp công nhân thế giới. Đặc điểm riêng của giai cấp công nhân Việt Nam - Chịu 3 tầng áp bức bóc lột (Đế quốc, tư bản trong nước, địa chủ phong kiến). - Phần lớn xuất thân từ giai cấp nông dân cho nên họ gắn bó với dân tộc có mới quan hệ gần gũi với nhân dân và có mối thâm thù với thực dân Pháp. - Ra đời trước tư sản lực lượng đồng nhất không bị phân tán về lực lượng và sức mạnh. - Kế thừa truyền thống yêu nước đấu tranh của dân tộc. - Do ra đời muộn giai cấp công nhân Việt Nam tiếp thu được ảnh hưởng của phong trào cách mạng thế giới, ảnh hưởng của chủ nghĩa Mác-Lênin và cách mạng tháng Mười Nga. - Giai cấp công nhân Việt Nam đã sớm trở thành một lực lượng chính trị độc lập, có đủ điều kiện và năng lực để lãnh đạo cách mạng. - Giai cấp tư sản + Ra đời trong cuộc khai thác thuộc địa của thực dân Pháp sau chiến tranh thế giới thứ nhất họ đã trở thành một giai cấp rõ rệt trước đó họ chỉ được gọi là một tầng lớp. + Tư sản mại bản là những tư bản hoạt động trong lĩnh vực thầu khoán, công nghiệp và xây dựng có quyền lợi gắn liền với thực dân Pháp trở thành đối tượng của cách mạng. + Tư sản dân tộc là những nhà tư sản vừa và nhỏ có xu hướng kinh doanh độc lập bị tư sản Pháp chèn ép nên họ có tinh thần dân tộc chống thực dân Pháp, chống phong kiến. Giai cấp này có tư tưởng dao động do đó cũng không thể trở thành lực lượng lãnh đạo cách mạng. - Giai cấp tiểu tư sản + Hình thành trong cuộc khai thác thuộc địa của thực dân Pháp sau chiến tranh thế giới thứ nhất bao gồm: Trí thức, học sinh-sinh viên, công chức, tiểu thương, tiểu chủ, dân nghèo thành thị. Họ sống chủ yếu ở thành thị và khu công nghiệp bị thực dân Pháp chèn ép dễ bị rơi vào tình trạng thất nghiệp. + Giai cấp tiểu tư sản cũng rất hăng hái tham gia cách mạng và là một trong những động lực đáng kể của cách mạng, họ là đồng minh của giai cấp công nhân có thể đi với giai cấp công nhân đến xã hội chủ nghĩa.Tuy nhiên tư tưởng của họ rất dao động do đó cũng không thể trở thành lực lượng lãnh đạo cách mạng. Với những biến đổi xã hội của Việt Nam cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX thì ngay trong lòng xã hội đã xuất hiện hai mâu thuẫn cơ bản phải giải quyết đó là: - Mâu thuẫn giữa dân tộc Việt Nam với đế quốc, tay sai - Mâu thuẫn giữa nhân dân Việt Nam (nông dân) với địa chủ phong kiến. Hai mâu thuẫn này có quan hệ mật thiết và quy định lẫn nhau. Hai mâu thuẫn cơ bản này xuất hiện trong lòng xã hội Việt Nam , nếu giải quyết đúng đắn hai mâu thuẫn này sẽ tạo điều kiện cho cách mạng Việt Nam phát triển. Do đó ta nói việc giải quyết những mâu thuẫn trong lòng xã hội Việt Nam cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX nằm ngay trong lòng xã hội ấy. 2.2 Sự phát triển phong trào yêu nước theo khuynh hướng vô sản - Xu hướng phong kiến: Phong trào Cần Vương (1885-1896) - Xu hướng nông dân: Khởi nghĩa Yên Thế - Xu hướng tư sản: tiêu biểu Phong trào Đông Du ( 1906-1908) ( Phan Bội Châu) và Phong trào Duy Tân ( Phan Chu Trinh) - Giai đoạn 1919-1925: Phong trào công nhân diễn ra dưới các hình thức đình công, bãi công, tiêu biểu như các cuộc bãi công của công nhân Ba Son (1925-Sài gòn) do Tôn Đức Thắng tổ chức, cuộc bãi công của công nhân nhà máy sợi Nam Định ngày 30-4-1925, đòi chủ tư bản phải tăng lương, bỏ đánh đập,.. giai đoạn này hình thức bãi công trở thành phổ biến, diễn ra trên quy mô lớn và thời gian dài hơn. - Giai đoạn 1926-1929, phong trào bãi công đã có sự lãnh đạo của các tổ chức như: Hội Việt Nam cách mạng thanh niên, Công hội đỏ và các tổ chức cộng sản ra đời từ năm 1929 (năm 1928-1929 có khoảng 40 cuộc bãi công diễn ra trên cả nước). + Phong trào đấu tranh giai đoạn này đã mang tính chất chính trị rõ rệt, đã có sự liên kết giữa các nhà máy, các ngành và các địa phương. Phong trào công nhân đã có sức lôi cuốn phong trào dân tộc theo con đường cách mạng vô sản. +Cũng vào thời gian này phong trào yêu nước phát triển một cách mạnh mẽ, đặc biệt là phong trào ông dân diễn ra ở nhiều nơi trong cả nước, như: nông dân Hà Nam, Nam Định Ninh Bình, nghệ An, Hà Tĩnh…đấu tranh chống bọn địa chủ cướp đất, đòi chia ruộng công… Phong trào công nhân và nông dân đã hỗ trợ lẫn nhau trong cuộc đấu tranh chống thực dân phong kiến Tuy nhiên xét đến cùng các phong trào có tác động chưa thật sự lớn đối với đối với cách mạng Việt Nam. Nguyên nhân:             + Thiếu một đường lối  đúng đắn             + Thiếu phương pháp cách mạng phù hợp             + Thiếu một tổ chức chính trị lãnh đạo chặt chẽ.       -> Đất nước đang khủng hoảng về đường lối cứu nước và tổ chức lãnh đạo. Nhu cầu cấp thiết của cách mạng Việt Nam lúc bấy giờ là có một chính Đảng lãnh đạo phong trào đấu tranh của nhân dân. 3. Tính tất yếu khách quan sự ra đời của Đảng Một trong những phát hiện vĩ đại của Mác, Ăng - ghen là đã sớm biết tách riêng giai cấp vô sản ra đời từ khối quần chúng bị áp bức, phát hiện ra vị trí đặc biệt và những xu hướng lịch sử của nó. Từ đó, khẳng định sứ mệnh lịch sử của giai cấp vô sản và chỉ ra những hình thức và phương pháp thực hiện sứ mệnh đó.  Lý luận về sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân là một trong những vấn đề chủ yếu nhất của chủ nghĩa Mác - Lênin. Nó đã được Mác, Ăng-ghen luận chứng một cách khoa học xuyên suốt trong nhiều tác phẩm và được Lênin tiếp tục phát triển trong những điều kiện lịch sử mới. Ngay từ cuối năm 1844, trong tác phẩm “Góp phần phê phán triết học Pháp quyền của Hê-ghen”, lần đầu tiên Mác đã nêu lên vấn đề sứ mệnh lịch sử của giai cấp vô sản và những điều kiện mà qua đó nó xóa bỏ quan hệ bóc lột, TBCN, thiếp lập quan hệ xã hội mới. Trong điều kiện mới Lênin đã phát triển lý luận Mác-xít về giai cấp công nhân như là “điều chủ yếu của học thuyết Mác”. “Trong tất cả mọi giai đọan đấu tranh vì một thế giới mới, vì chủ nghĩa cộng sản, giai cấp công nhân là lãnh tụ của phong trào cách mạng, là người lãnh đạo của nhân dân lao động”. Lê-nin đã cụ thể hóa sự lãnh đạo của giai cấp công nhân trong điều kiện của cách mạng vô sản và chuyên chính vô sản.  Lý luận chủ nghĩa Mác Lê-nin về sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân được thể hiện ở một số luận điểm cơ bản sau:  * Giai cấp công nhân là người đào mồ chôn chủ nghĩa tư bản và người sáng tạo ra xã hội mới.  * Giai cấp công nhân là người lãnh đạo trong phong trào cách mạng giải phóng của quần chúng bị áp bức trong xã hội hiện tại.  * Giai cấp vô sản phải hiểu rõ sứ mệnh lịch sử của mình. Chủ nghĩa Mác Lê-nin là điều kiện ắt có, cơ bản để giai cấp vô sản từ giai cấp “tự nó” chuyển thành giai cấp “vì nó”.  * Sự ra đời của Đảng Cộng Sản là tất yếu khách quan. Đảng Cộng Sản là sản phẩm của sự kết hợp chủ nghĩa Mác Lê-nin với phong trào công nhân và là nhân tố quyết định thực hiện thắng lợi sứ mệnh lịch sử của giai cấp vô sản. “Vai trò, sứ mệnh lịch sử của giai cấp vô sản” luôn là vấn đề trung tâm trong suốt một cuộc đấu tranh chính trị - tư tưởng lâu dài và quyết liệt từ khi chủ nghĩa Mác Lê-nin ra đời và các giai đoạn phát triển sau đó.  Đảng Cộng Sản Việt Nam ra đời là kết quả của quá trình vận động hợp quy luật, của sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa ba yếu tố : chủ nghĩa Mác-Lênin, phong trào công nhân và phong trào yêu nước Việt Nam.  - Đảng ra đời đã chấm dứt thời kì khủng hoảng sâu sắc về giai cấp lãnh đạo và đường lối cứu nước ở nước ta từ cuối thế kỉ XIX - đầu thế kỉ XX. Sự kiện đó chứng tỏ giai cấp công nhân nước ta đã trưởng thành “đủ sức lãnh đạo cách mạng”. - Từ đây, giai cấp công nhân Việt Nam đã có một bộ tham mưu của giai cấp và dân tộc lãnh đạo, đánh dấu sự chiến thắng của chủ nghĩa Mác-Lênin đối với các trào lưu tư tưởng phi vô sản.  - Đảng ra đời mở ra một bước ngoặt lớn cho cách mạng Việt Nam. Với cương lĩnh đúng đắn, Đảng ra đời là sự chuẩn bị tất yếu đầu tiên cho mọi thắng lợi của cách mạng nước ta, là nhân tố quyết định phương hướng phát triển và đưa đến thắng lợi trong sự nghiệp giành độc lập, tiến lên chủ nghĩa xã hội.  - Đảng ra đời, cách mạng Việt Nam thật sự trở thành một bộ phận khăng khít của cách mạng thế giới. Kể từ đây, cách mạng Việt Nam nhận được sự ủng hộ của cách mạng thế giới, đồng thời cũng đóng góp to lớn cho cách mạng thế giới.  II Vai trò của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc đối với sự ra đời của Đảng cộng sản Việt Nam: 1. Quá trình chuẩn bị của Nguyễn Ái Quốc đối với sự ra đời của Đảng Vào đầu thế kỷ 20, phong trào dân tộc ở Việt Nam đã bắt đầu xuất hiện, hoạt động theo khuynh hướng dân chủ tư sản mang màu sắc và mức độ khác nhau như các phong trào Đông Du do nhà yêu nước Phan Bội Châu lãnh đạo, hay như phong trào Đông kinh nghĩa thục, phong trào Duy tân do cụ Phan Chu Trinh, Huỳnh Thúc Kháng lãnh đạo, đồng thời nhiều tổ chức chính trị của giai cấp tiểu tư sản trí thức cũng được thành lập. Tất cả đều hoạt động theo một mục đích thống nhất đem lại độc lập cho dân tộc tuy theo các đường lối chủ trương khác nhau. Tuy các phong trào đều thất bại, nhưng sự xuất hiện của các tổ chức này là sự thể hiện tinh thần yêu nước của dân tộc ta đã có từ ngàn đời nay. Song song với sự phát triển của các phong trào yêu nước và dân chủ theo khuynh hướng tư sản và tiểu tư sản, phong trào đấu tranh của giai cấp công nhân chống lại sự bóc lột của bọn chủ thực dân lần lượt diễn ra dưới nhiều hình thức khác nhau, đặc biệt là những hình thức đấu tranh đặc thù của giai cấp mình là biểu tình,bãi công. Từ sau cuộc chiến tranh thế giới lần thứ nhất, lực lượng giai cấp công nhân ngày càng lớn mạnh, các phong trào đấu tranh chống lại sự bóc lột của bọn thống trị nổ ra ở khắp nơi từ Sài Gòn Chợ Lớn cho đến Hà Nội, Nam Định. Trong các cuộc đấu tranh của mình, giai cấp công nhân đã nêu lên các yêu sách đòi tăng lương, giảm giờ làm. Các cuộc đấu tranh đã bắt đầu có tổ chức hơn. Song nhìn chung, phong trào đấu tranh của giai cấp công nhân vẫn còn mang tính tự phát, chưa trở thành một lực lượng chính trị độc lập trong phong trào dân tộc, trong khi đó phong trào dân tộc Việt Nam vẫn còn đang bị bế tắc, chưa tìm được con đường đi đến thắng lợi. Những nhà yêu nước chưa tìm thấy con đường cách mạng đúng đắn. Nguyên nhân sâu xa là chưa có sự đoàn kết thống nhất. Giữa lúc đó, Hồ Chí Minh với tên gọi là Nguyễn Tất Thành đã rời Tổ quốc vào ngày 5/6/1911 để ra đi tìm đường cứu nước. Người đã chuẩn bị một cách chu đáo trên cả ba mặt chính trị, tổ chức và tư tưởng cho việc thành lập Đảng. 2. Sự chuẩn bị về mặt chính trị: Do cách mạng thuộc địa không được sự quan tâm đúng mức của Quốc tế cộng sản nên Người đi sâu nghiên cứu, tham gia vào các diễn đàn, viết báo... để tuyên truyền về vấn đề thuộc địa, cmạng thuộc địa. - Cuối năm 1917, giữa lúc c.tranh thế giới thứ hai sắp kết thúc, Người trở lại Pháp. Tại đây Người lao vào cuộc đấu tranh của giai cấp công nhân Pháp, tham gia Đảng xã hội Pháp, lập ra Hội những Người Việt Nam yêu nước với tờ báo Việt Nam hồn để tuyên truyền giáo dục Việt kiều ở Pháp. - Người làm chủ nhiệm kiêm chủ bút cho báo "Người cùng khổ", viết nhiều bài đăng trên Nhân đạo của Đảng Cộng sản Pháp, Đời sống công nhân của Tổng Liên đoàn Lao động Pháp. - Năm1923,Nguyễn Ái Quốc rời Pháp đi Matxcova để tham dự Hội nghị Quốc tế nông dân, đồng thời trực tiếp học tập nghiên cứu kinh nghiệm cách mạng Tháng Mười và chủ nghĩa Lênin. Người viết bài cho báo Sự thật của Đảng Cộng Sản Liên Xô và tạp chí Thư tín quốc tế của Quốc tế Cộng Sản. - Năm1924, Người tham dự Đại hội V của Quốc tế Cộng Sản và các đại hội của Quốc tế công hội, Quốc tế Phụ nữ, Quốc tế Thanh niên... 3. Sự chuẩn bị về mặt tổ chức: - Năm 1921, nhờ sự giúp đỡ của Đảng Cộng Sản Pháp, Nguyễn Ái Quốc cùng một số chiến sĩ cách mạng ở nhiều nước thuộc địa của Pháp lập ra Hội liên hiệp thuộc địa nhằm tập hợp tất cả những người ở thuộc địa sống trên đất Pháp đấu tranh chống chủ nghĩa thực dân. - Ngày 11-11-1924, Nguyễn Ái Quốc đến Quảng Châu. Tại đây, Người cùng các nhà cách mạng Trung Quốc, Thái Lan, Ấn độ... thành lập Hội liên hiệp các dân tộc bị áp bức. Việc làm này đã nêu bật tầm quan trọng vấn đề đkết d.tộc trên toàn thế giới. - Tháng 6-1925, Người sáng lập Hội Việt Nam cách mạng Thanh niên hạt nhân là Cộng sản đoàn. Cơ quan tuyên truyền của Hội là tuần báo Thanh niên. Đây là một bước chuẩn bị có ý nghĩa quyết định về mặt tổ chức cho sự ra đời của Đảng cộng sản Việt Nam. - Từ năm1925-1927, Người mở nhiều lớp huấn luyện chính trị tại Quảng Châu, đào tạo một đội ngũ cán bộ cho cách mạng Việt Nam. 4. Sự chuẩn bị về mặt tư tưởng: Được thể hiện thông qua hai tác phẩm Đường Kách Mệnh (1925) và Bản án chế độ thực dân Pháp(1927). Hai tác phẩm đã: - Vạch trần tội ác của chủ nghĩa thực dân đế quốc và khẳng định chủ nghĩa đế quốc là kẻ thù. Từ đó thức tỉnh tinh thần đấu tranh trong quần chúng nhân dân. - Người khẳng định chỉ có cách mạng vô sản là cách mạng triệt để vì quyền lợi của đa số - Người chỉ ra mối quan hệ khăng khít giữa cách mạng vô sản ở thuộc địa và ở chính quốc III Sự thành lập Đảng cộng sản Việt Nam, ý nghĩa và cương linh chính trị đầu tiên của Đảng 1.Sự thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam Trước sự phát triển mạnh mẽ của phong trào cách mạng trong nước thì những đồng chí hội viên tiên tiến của Việt Nam thanh niên cách mạng đồng chí hội ở Bắc Kỳ đã tiến hành họp tại số nhà 5D Hàm Long Hà Nội vào đầu 3-1929 để tiến hành thành lập ra chi bộ Cộng sản đầu tiên ở trong nước và chi bộ này đã ra nghị quyết: phải thành lập ra Đảng Cộng sản. Cuối tháng 3 năm 1929, Đại hội kì bộ Bắc Kỳ của Việt Nam thanh niên cách mạng đồng chí hội cũng được tiến hành và đại hội này đã thông qua chủ trương thành lập Đảng của chi bộ cộng sản đầu tiên đồng thời đại hội cũng cử đại biểu đi dự Đại hội thanh niên toàn quốc và giao nhiệm vụ cho các đồng chí đại biểu: phải đấu tranh để chủ trương thành lập Đảng được chấp thuận tại Đại hội thanh niên toàn quốc. + Ngày 1-5-1929, Đại hội lần thứ I của Việt Nam thanh niên cách mạng đồng chí hội được tiến hành tại Hương Cảng, Trung Quốc. Tại đại hội này, đoàn Đại biểu Bắc Kỳ đưa ra vấn đề thành lập Đảng nhưng lại không được đại hội chấp thuận. Vì thế, các đồng chí đã tự động rút về nước và thành lập ra tổ chức cộng sản đầu tiên là Đông Dương Cộng sản Đảng (6-1929) do đồng chí Hồ Tùng Mậu làm bí thư. + Tháng 7-1929: Thành lập An Nam Cộng sản Đảng. + Tháng 9-1929: Thành lập Đông Dương Cộng sản liên đoàn. Việc thành lập 3 tổ chức cộng sản đã có những điểm tích cực và tiêu cực: - Tích cực: phong trào cách mạng trong nước phát triển mạnh mẽ, các phong trào này có sự chỉ đạo trực tiếp của các chi bộ Đảng vì vậy có sự liên kết chặt chẽ địa phương này với địa phương khác để tiện thực hiện mục tiêu chung - Tiêu cực: trong một nước có 3 tổ chức Đảng dẫn đến tình trạng tranh giành quần chúng, các Đảng viên chỉ trích lẫn nhau. Đây là điểm trở ngại lớn mà theo nguyên tắc xây dựng Đảng kiểu mới không cho phép có sự chia rẽ về mặt tư tuởng và tổ chức vì vậy sự ra đời của 3 tổ chức Cộng sản đã nói lên sự ấu trĩ của Đảng ta trong buổi đầu về nhận thức nguyên lý thành lập Đảng. Trước sự xuất hiện 3 tổ chức cộng sản ở trong nước thì quốc tế Cộng sản đã viết thư kêu gọi những người cộng sản ở Việt Nam là phải nhanh chóng hợp nhất 3 tổ chức cộng sản, thành lập Đảng Cộng sản đồng thời giao nhiệm vụ cho đồng chí Nguyễn Ái Quốc là thay mặt quốc tế Cộng sản hợp nhất 3 tổ chức cộng sản thành lập ra Đảng Cộng sản. Sau chỉ thị của quốc tế Cộng sản đồng chí Nguyễn Ái Quốc đã bắt tay ngay vào việc chuẩn bị các văn kiện cho hội nghị hợp nhất và khi mọi công tác chuẩn bị đã hoàn tất thì hội nghị hợp nhất 3 tổ chức cộng sản tiến hành từ ngày 3 đến 7-2-1930 tại Hương cảng, Trung Quốc: Hội nghị thảo luận bỏ mọi thành kiến xung đột cũ, quyết định thành lập Đảng Cộng sản và lấy tên là Đảng Cộng sản Việt Nam, thông qua chính cương vắn tắt, sách lược vắn tắt, điều lệ tóm tắt và lời kêu gọi của đồng chí Nguyễn Ái Quốc nhân dịp thành lập Đảng, bầu Ban chấp hành trung ương lâm thời. Hội nghị được coi như là hội nghị thành lập Đảng và các văn kiện do Hội nghị thông qua chính là cương lĩnh đầu tiên của Đảng. 2.Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng 2.1 Nội dung Cương lĩnh xác định con đường tiến lên của cách mạng Việt Nam trải qua 2 giai đoạn : trước là Cách mạng dân tộc dân chủ sau là cách mạng xã hộ chủ nghĩa.Giữa hai cuộc cách mạng không có bức tường ngăn cách Mục tiêu cơ bản và nhiệm vụ của cách mạng:cương lĩnh xác định mục tiêu chính là độc lập dân tộc,dân chủ và người cày có ruộng, nhiêm vụ chính là đánh đổ đế quốc, chống phong kiến Lực lượng cách mạng: công nhân là động lực chính của cách mạng, giai cấp công nhân lãnh đạo cách mạng thong qua Đảng Cộng sản.Cương lĩnh xác định lực lượng cách mạng cần đoàn kết với các giai cấp tầng lớp khác : tư sản dân tộc , tiểu tư sản ,trung tiểu địa chủ Đoàn kết quốc tế: đoàn kết với Vô sản thế giới ,các dân tộc thuộc địa phụ thuộc.Cương lĩnh xác định cách mạng Việt Nam là một bộ phận của cách mạng thế giới không thể tách rời Phương pháp cách mạng :Cương lĩnh chủ trương xây dựng lực lượng quần chúng,dùng sức mạnh quần chúng đánh đỗ chính quyền cũ ,thành lập chính quyền Công – Nông; xác định dùng bạo lực giành chính quyền ,sử dụng hình thức đấu tranh cách mạng từng thời kì Xác định vai trò của Đảng : Đảng là gốc đầu tiên bảo đảm cách mạng thắng lợi,xác định vấn đề sống còn là xây dựng Đảng thàng một Đảng cách mạng chân chính 2.2Tính đúng đắn của cương lĩnh Tính đúng đắn, sáng tạo của Cương lĩnh được thể hiện ở những vấn đề sau: Về cơ sở lí luận: Cương lĩnh đã dựa trên nền tảng lý luận của Chủ nghĩa Mác-Lênin, một hệ thống lí luận tiến bộ đúng đắn và khoa học. Cương lĩnh khẳng định cách mạng Việt Nam phải trải qua hai giai đoạn: Cách mạng tư sản dân quyền và Cách mạng xã hội chủ nghĩa. Hai giai đoạn cách mạng này kế tiếp nhau, không có bức tường nào ngăn cách. Cương lĩnh chủ trương: “làm tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng sản”. Qua đó, ta thấy rằng: ngay từ đầu, Đảng ta đã nhận thức rõ con đường phát triển tất yếu của cách mạng Việt Nam là kết hợp và gương cao hai ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Đây là điều hoàn toàn đúng đắn vì nó phù hợp với hoàn cảnh cụ thể của lịch sử nước ta. Đồng thời, chúng ta cũng thấy được sự vận dụng sáng tạo và hợp lí lí luận cách mạng không ngừng của chủ nghĩa Mác-Lênin. Cương lĩnh khẳng định, nhiệm vụ của cách mạng tư sản dân quyền ở nước ta là chống đế quốc và chống phong kiến. Điều này cũng thể hiện tính đúng đắn và sáng tạo của Cương lĩnh. Tính đúng đắn và sáng tạo thể hiện ở chỗ Cương lĩnh đã giải quyết đúng hai mâu thuẫn cơ bản của xã hội Việt Nam và vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin vào hoàn cảnh cụ thể ở Việt Nam. Mâu thuẫn chủ yếu của xã hội Việt Nam lúc đó là: Mâu thuẫn giữa toàn thể dân tộc Việt Nam với thực dân Pháp xâm lược; mâu thuẫn giữa nông dân với địa chủ phong kiến. Cách mạng Việt Nam muốn đi đến thắng lợi phải giải quyết thành công hai mâu thuẫn đó, nghĩa là phải hoàn thành hai nhiệm vụ mà Cương lĩnh đã đề ra. Về mối quan hệ giữa hai nhiệm vụ trên, Cương lĩnh đã đề cao vấn đề dân tộc hơn vấn đề đấu tranh giai cấp và chống phong kiến là đúng đắn và sáng tạo. Vì: Xã hội Việt Nam lúc đó có hai mâu thuẫn như vừa nêu trên, nhưng mâu thuẫn giữa dân tộc Việt Nam với thực dân Pháp là mâu thuẫn bao trùm, chi phối việc giải quyết các mâu thuẫn khác, vấn đề giải phóng dân tộc là vấn đề bức xúc nhất. Về lực lượng cách mạng, Cương lĩnh xác định, ngoài giai cấp công nhân, thì cách mạng “phải hết sức liên lạc với tiểu tư sản, trí thức và trung nông…để kéo họ về phe vô sản giai cấp. Còn đối với phú nông, trung, tiểu địa chủ và tư bản An Nam mà chưa lộ rõ mặt phản cách mạng thì phải lợi dụng, ít ra cũng làm cho trung lập”. Như vậy, ngoài công nhân và nông dân là hai lực lượng chính của cách mạng, Cương lĩnh chủ trương phải tranh thủ các lực lượng khác: tư sản dân tộc, tiểu tư sản, trung tiểu địa chủ các loại. Điều đó hoàn toàn phù hợp với thực tế của lịch sử Việt Nam. Vì các giai cấp khác ngoài công nhân và nông dân, có một số bộ phận khác cũng có tinh thần yêu nước, như: Tư sản dân tộc, tiểu tư sản, địa chủ yêu nước…, vì thế, cần phải tranh thủ kéo họ về phe cách mạng. Đó cũng là vấn đề thể hiện sự ưu tiên hơn cho nhiệm vụ giải phóng dân tộc của Cương lĩnh, đều hoàn toàn hợp lí và đúng đắn. Cương lĩnh đã xác định đúng đắn vai trò lãnh đạo của Đảng đối với cách mạng: Cách mạng muốn thắng lợi phải đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản, một chính đảng của giai cấp công nhân. Cương lĩnh khẳng định, cách mạng Việt Nam là một bộ phận của cách mạng thế giới. Đây cũng là một nội dung thể hiện tính đúng đắn và sáng tạo của Cương lĩnh. Vì: giai cấp tư sản ở các nước, trong thực tế đã cấu kết với nhau để đàn áp phong trào đấu tranh của giai cấp công nhân ở chính quốc và phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc ở các nước thuộc địa. Cho nên cách mạng ở các nước thuộc địa muốn thắng lợi thì nhân dân các nước thuộc địa phải đoàn kết với nhau và đoàn kết với giai cấp vô sản trên thế giới. Tóm lại Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng ta là một cương lĩnh cách mạng giải phóng dân tộc đúng đắn và sáng tạo, nhuần nhuyễn về quan điểm giai cấp, thấm đượm tính dân tộc và tính nhân văn sâu sắc. 3. Ý nghĩa lịch sử của việc thành lập Đảng Cộng Sản Việt Nam: 3.1 Sự ra đời của Đảng mang tính tất yếu,đánh dấu bước ngoặc của lịch sử của Việt Nam - Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời đầu năm 1930 là tất yếu của lịch sử: đó kết quả tất yếu của cuộc đấu tranh dân tộc và đấu tranh giai cấp ở Việt Nam trong thời đại mới, là sản phẩm của sự kết hợp chủ nghĩa Mác - Lênin với phong trào công nhân và phong trào yêu nước Việt Nam, là kết quả của quá trình chuẩn bị công phu, khoa học của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc trên cả ba mặt tư tưởng, chính trị và tổ chức. Năm 1930, Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời, cũng là lúc Việt Nam Quốc dân Đảng tan rã, cùng với sự thất bại của cuộc khởi nghĩa Yên Bái, sứ mệnh lịch sử của giai cấp tư sản kết thúc. Ngọn cờ phản đế, phản phong được chuyển sang tay giai cấp công nhân. Đảng Cộng sản Việt Nam được lịch sử giao cho sứ mệnh nắm quyền lãnh đạo duy nhất đối với cách mạng Việt Nam. - Đảng ra đời đánh dấu bước ngoặt trọng đại của Cách mạng Việt Nam: Chấm dứt sự khủng hoảng về đường lối chính trị, về con đường cứu nước, cứu dân, thống nhất đất nước, thoát khỏi ách áp bức của thực dân, phong kiến, thoát khỏi bần cùng, lạc hậu kéo dài mấy chục năm đầu thế kỷ XX. Ngay từ khi mới ra đời, Đảng ta đã đề ra Cương lĩnh đúng đắn, vạch ra con đường cứu nước khác về chất so với những con đường cứu nước do những nhà yêu nước đương thời vạch ra và đã bị bế tắc, thất bại. Cương lĩnh đã xác định con đường cách mạng là giải phóng dân tộc theo phương hướng cách mạng vô sản. Đây chính là cơ sở để Đảng Cộng sản Việt Nam vừa ra đời đã nắm được ngọn cờ lãnh đạo phong trào cách mạng Việt Nam; giải quyết được tình trạng khủng hoảng về đường lối cách mạng, về giai cấp lãnh đạo cách mạng, mở ra con đường và phương hướng phát triển mới cho dân tộc ta. Chính cương lĩnh này đã đặt nền tảng cho một sự ng

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doctieu luan duong loi.doc