Tiểu luận Tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề dân tộc và Cách mạng giải phóng dân tộc

MỤC LỤC

Đề mục.

Lời mở đầu

I TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ VẤN ĐỀ DÂN TỘC

1.1 Độc lập dân tộc là quyền thiêng liêng bất khả xâm phạm củacác dân tộc

1.2 Chủ nghĩa yêu nước và tinh thần dân tộc là một động lực lớn ở các nước đang đấu tranh

1.3 Kết hợp nhuần nhuyễn việc giải phóng vấn đề dân tộc với vấnđề giai cấp trên lập trường giai cấp công nhân

II TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ CÁCH MẠNG GIẢI PHÓNG DÂN TỘC

1 Mục tiêu cách mạng giải phóng dân tộc

2 Những luận điểm cơ bản về cách mạng giải phóng dân tộc trong tư tưởng Hồ Chí Minh

2.1 CM gpdt muốn thắng lợi phải đi theo con đường cách mạng vô sản

2.2 CM gpdt muốn thắng lợi phải có Đảng của gccn lãnh đạo

2.3 CM gpdt là sự nghiệp đoàn kết của toàn dân trên cơ sở liên minh công nông

2.4CM gpdt phải được tiến hành chủ động sáng tạo và có khả

docx20 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 46439 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tiểu luận Tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề dân tộc và Cách mạng giải phóng dân tộc, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
biến động đến đâu, thì vẫn còn đó vấn đề lớn của thời đại: "Đấu tranh dân tộc và đấu tranh giai cấp vẫn tiếp tục diễn ra dưới nhiều hình thức. Chúng ta quá độ lên chủ nghĩa xã hội, vì mục tiêu "dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh", để nhân dân ấm no, hạnh phúc. Mục tiêu đó không chỉ là vấn đề giai cấp mà còn là vấn đề dân tộc. Nó chứng tỏ chỉ có Đảng Cộng sản Việt Nam và giai cấp công nhân mới là lực lưọng đại biểu chân chính cho lợi ích của dân tộc. Vì vậy, đi đôi với tăng cường giáo dục chủ nghĩa Mác - Lênin, cần làm cho tư tưởng Hồ Chí Minh về sự kết hợp dân tộc và giai cấp, chủ nghĩa yêu nước, chủ nghĩa quốc tế, độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội được quán triệt sâu sắc trong toàn Đảng, toàn dân, lấy đó làm định hướng nhận thức và giải quyết các vấn đề dân tộc và của thời đại ngày nay. II TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ CÁCH MẠNG GIẢI PHÓNG DÂN TỘC . Từ 1911-1920, HCM đã khảo sát các cuộc cách mạng lớn trên thế giới Năm 1920, lần đầu tiên Nguyễn Ái Quốc đọc được "Sơ thảo luận cương về các vấn đề dt và thuộc địa" của Lênin, Người đã sáng tỏ, tin tưởng và cảm động đến phát khóc "khi ấy ngồi 1 mình trong..." Với việc gia nhập quốc tế cộng sản III, Người đã từ CN yêu nước đến với CNMLN, từ giác ngộ dân tộc đến giác ngộ giai cấp, từ người yêu nước trở thành người cộng sản. Người đã hoạt động lý luận và thực tiễn trong Đảng cộng sản Pháp và quốc tế cộng sản. Năm 1924, Nguyễn Ái Quốc đến Quảng Châu, sáng lập Hội VN thanh niên CM, xuất bản báo Thanh niên, mở lớp huấn luyện chính trị, đào tạo cán bộ, đưa họ về nước hoạt động. Người xuất bản tác phẩm "Bản án chế độ thực dân Pháp" 1925, "Đường Kách Mệnh" 1927. Tháng 2/1930, Hồ Chí Minh soạn thảo Chánh cương vắn tắt, sách lược vắn tắt, điều lệ vắn tắt. Tất cả điều đó hình thành cơ bản tthcm về con đường cách mạng giai phóng dân tộc của VN. 1 mục tiêu của cách mạng giải phóng dân tộc SV Trần Minh Tuyến-KT2A  4  Tiểu luận Tư tưởng Hồ Chí Minh Tính chất và nhiệm vụ của Cách mạng dân tộc Hồ Chí Minh đã phân tích tình hình Kinh tế xã hội ở các nước thuộc địa và Việt Nam ,Người đã nhận thấy mâu thuẫn bao trùm nhất đó là giữ toàn thể dân tộc Việt Nam với đế quốc xâm lược Pháp . Người chỉ ra đối tượng của cách mạng là đế quốc Pháp và bọn phong kiến tay sai ,phản động.Tham gia cuộc kháng chiến này bao gồm toàn thể lực lượng những tầng lớp ,giai cấp xã hội cần tập hợp vào cuộc đấu tranh này .Đây là cuộc cách mạng có tính chất dân quyền ,hay Cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân đánh phong kiến để đem lại ruộng đất cho dân cày ( Nội dung này được Nguyễn Ái Quốc đề cập trong cương lĩnh đầu tiên của Đảng cộng sản ). Mục tiêu đặt ra là phải lật đổ ách thống trị của thực dân giành độc lập dân tộc và thiết lập chính quyền nhân dân 2 Những luận điểm cơ bản về Cách mạng giải phóng dân tộc trong tư tưởng Hồ Chí Minh. Tư tưởng Hồ Chí Minh về giải phóng dân tộc có thể tóm tắt thành một hệ thống luận điểm sau đây 2.1 CM giải phóng dân tộc muốn thắng lợi phải đi theo con đường Cách mạng vô sản Bài học từ sự thất bại của các con đường cứu nước trước đó: Để giải phóng dân tộc khỏi ách thống trị của thực dân Pháp, ông cha ta đã sử dụng nhiều con đường gắn với những khuynh hướng chính trị khác nhau, sử dụng những vũ khí tư tưởng khác nhau nhưng đều bị thất bại, đất nước ta lâm vào tình trạng khủng hoảng về đường lối cứu nước.Do đó yêu cầu bức thiết là phải tìm một con đường cứu nước mới. HCM sinh ra và lớn lên trong bối cảnh đất nước đã bị biến thành thuộc địa, nhân dân phải chịu cảnh lầm than, HCM được chứng kiến phong trào cứu nước của ông cha Người nhận thấy các con đường ấy đều mang nặng cốt cách phong kiến nên không tán thành con đường của họ và quyết tâm ra đi tìm một con đường mới. Đoạn tuyệt với sự phát triển theo con đường của chủ nghĩa phong kiến, HCM đến nhiều quốc gia và châu lục trên thế giới. SV Trần Minh Tuyến-KT2A  5  Tiểu luận Tư tưởng Hồ Chí Minh Cách mạng tư sản là không triệt để: Người đọc Tuyên ngôn độc lập của nước Mỹ, tìm hiểu thực tiễn cuộc cách mạng tư sản Mỹ, đọc tuyên ngôn dân quyền và nhân quyền của CM Pháp, tìm hiểu CMTS Pháp. Người nhận thấy: " Cách mệnh Pháp cũng như cách mệnh Mỹ, nghĩa là cách mệnh tư bản, cách mệnh không đến nơi tiếng cộng hoà và dân chủ, kỳ thực bên trong thì nó tước lục công nông, ngoài thì nó áp bức thuộc địa". Bởi lẽ đó, Người không đi theo con đường CMTS. Khi CNĐQ đã thành một hệ thống TG, 1 mặt, chúng đấu tranh với nhau để giành giật thuộc địa, mặt khác, chúng thống nhất với nhau để đàn áp phong trào đấu tranh của các dân tộc thuộc địa. Vì vậy trong cuộc đấu tranh chống CNĐQ, giai cấp vô sản chính quốc và nhân dân các dân tộc thuộc địa có chúng 1 kẻ thù. CNĐQ như con đỉa hai vòi, 1 vòi bám vào chính quốc, 1 vòi bám vào thuộc địa. Muốn đánh thắng CNĐQ, phải đồng thời cắt cả hai vòi của nó đi. Vì vậy, CMVS ở chính quốc phải kết hợp với CM giải phóng ở thuộc địa. Con đường giải phóng dân tộc: HCM thấy được CM tháng 10 Nga không chỉ là một cuộc CM vô sản, mà còn là một cuộc CM giải phóng dân tộc. Nó nêu tấm gương sáng về sự giải phóng các dân tộc thuộc địa và " Mở ra trước mắt họ thưòi đại CM chống đế quốc, thời đại giải phóng dân tộc". Người hoàn toàn tin theo Lênin và quốc tế III vì đã bênh vực cho các dân tộc bị áp bức. Người thấy trong lý luận của Lênin một phương hướng mới để giải phóng dân tộc: Con đường CMVS. Vượt qua sự hạn chế về tư tưởng của các sỹ phu và của các nhà CM có xu hướng tư sản đương thời, HCM đã đến với học thuyết CM của chủ nghĩa Mac- Lênin và lựa chọn khuynh huớng chính trị vô sản. Người khẳng định: " Muốn cứu nước và giải phóng dân tộc không có con đường nào khác con đường CMVS" chỉ có CNXH, CNCS mới giả phóng được các dân tộc bị áp bức và những người lao động trên thế giới khỏi ách nô lệ. SV Trần Minh Tuyến-KT2A  6  Tiểu luận Tư tưởng Hồ Chí Minh Thực tế :Trong hơn 7 thập kỷ xây dựng chủ nghĩa xã hội, Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa vừa đạt thành tựu quan trọng: Sự phát triển mạnh mẽ về kinh tế, xây dựng cơ sở vật chất với quy mô và trình độ hiện đại, đảm bảo ngày càng tốt hơn về vật chất và tinh thần của nhân dân. Từ một nước Nga cùng kiệt nàn và lạc hậu, sau một thời (gian) gian xây dựng vừa trở thành một cường quốc của thế giới, đạt được bước tiến lớn trong nghiên cứu khoa học, chinh phục vũ trụ, có tiềm lực quân sự và quốcphòng chốnghùng mạnh… làm ra (tạo) điều kiện cho phong trào giải phóng dân tộc phát triển. Hàng trăm nước vừa giành được độc lập dân tộc lũy phần quyết định vào cuộc đấu tranh của nhân dân thế giới và hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội Bên cạnh đó thắng lợi của cách mạng Việt Nam trong hơn 70 năm qua dưới sự lãnh đạo của Đảng vừa khẳng định tính đúng đắn của sự lựa chọn đó. 2.2 CM giải phóng dân tộc muốn thắng lợi phải do đảng của giai cấp công nhân lãnh đạo. Trong các phong trào chống Pháp trước 1930 ở nước ta đã xuất hiện các đảng phái, hội, đoàn thể như Duy Tân Hội, Việt Nam Quang Phục Hội, Việt Nam Quốc Dân Đảng,... nhưng những Đảng này thiếu đường lối đúng đắn, thiếu tổ chức chặt chẽ, thiếu cơ sở rộng rãi trong quần chúng nên không thể lãnh đạo kháng chiến thành công và bị tan rã với các khuynh hướng cứu nướctheo hệ tư tưởng phong kiến, tư sản. Từ thắng lợi của CM Tháng 10 Nga do Đảng CS lãnh đạo, người khẳng định: CM giải phóng dân tộc muốn thắng lợi, trước hết phải có Đảng lãnh đạo, không có Đảng chân chính lãnh đạo CM không thể thắng lợi. Đảng có vững CM mới thành công, người cầm lái có vững thì thuyền mới chạy. Đảng muốn vững thì phải có CN làm cốt. Không có chủ nghĩa cũng như người không có trí khôn, không có kim chỉ nam. Đảng phải xác định rõ mục tiêu, lý tưởng CNCS, phải tuân thủ các nguyên tắc tổ chức sinh hoạt Đảng theo học thuyết Đảng kiểu mới của Lê Nin. Ngày 3 tháng 2 năm 1930, tại Cửu Long thuộc Hương Cảng , Hồ Chí Minh thống nhất ba tổ chức đảng cộng sản thành Đảng Cộng sản Việt Namm (sau đó đổi tên SV Trần Minh Tuyến-KT2A  7  Tiểu luận Tư tưởng Hồ Chí Minh là "Đảng Cộng sản Đông Dương", rồi đổi thành "Đảng Lao Động Việt Nam" và nay là "Đảng Cộng sản Việt Nam"). CM giai phóng dân tộc phải có đảng của giai cấp công nhân lãnh đạo theo nguyên tắc đảng kiểu mới của Lênin. Chỉ có cuộc cách mạng do chính đảng giai cấp vô sản lãnh đạo mới thực hiện được sự thống nhất giữa giải phóng dân tộc , giải phóng giai cấp, giải phóng con người (Bác phê phán các lãnh tụ yêu nước tiền bối chưa nhận thức được tầm quan trọng của chính đảng cách mạng và 1 đường lối chính trị đúng đắn). Hồ Chí Minh đã khẳng định : Muốn giải phóng được cách mạng thành công trước hết phải có đảng cách mệnh.Người phân tích :”cách mệnh trước phải làm cho dân ngộ ,phải giảng giải lý luận cho dân hiểu,phải hiểu phong triều thế giới,phải bày sách lược cho dân…Vậy nên sức cách mệnh phải tập trung,muốn tập trung phải có đảng cách mênh” . Thực tế đã chứng minh : Từ khi ra đời đến nay Đảng Cộng sản Việt Nam đã lãnh đạo cách mạng Việt Nam đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác.Tiêu biểu là thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám 1945. Hội nghị thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam (2- 1930) đã thông qua Chánh cương vắn tắt của Đảng do lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc soạn thảo nhấn mạnh chủ trương chiến lược là làm tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng sản. Về phương diện chính trị phải ''Đánh đổ đế quốc chủ nghĩa Pháp và bọn phong kiến. Làm cho nước Nam được hoàn toàn độc lập''. Đó là đường lối chính trị hoàn toàn đúng đắn phù hợp với hoàn cảnh cụ thể của Việt Nam, hướng vào giải quyết những mâu thuẫn cơ bản và chủ yếu của một xã hội thuộc địa, nửa phong kiến và định hướng phát triển theo nội dung và xu thế của thời đại. Từ thực tiễn của cách mạng Việt Nam, Hội nghị Trung ương (HNTƯ) họp tháng 11-1939 ở Bà Điểm (Gia Định) đã nêu cao mục tiêu GPDT. Bước đường sinh tồn của các dân tộc Đông Dương không còn có con đường nào khác hơn là con đường đánh đổ đế quốc Pháp, chống tất cả ách ngoại xâm vô luận da trắng hay da vàng để giành lấy giải phóng độc lập ''phải thực hiện được nhiệm vụ chính cốt của cách mệnh là đánh đổ đế quốc'' và công nông SV Trần Minh Tuyến-KT2A  8  Tiểu luận Tư tưởng Hồ Chí Minh phải đưa cao cây cờ dân tộc lên, sau khi chiến tranh thế giới thứ II bùng nổ (1-9- 1939). Tháng 9-1940 phát xít Nhật chiếm Đông Dương, Nhật và Pháp cùng thống trị Đông Dương, ách áp bức dân tộc càng trở nên nặng nề. Trong bối cảnh đó, HNTƯ tháng 11-1940 cho rằng cách mạng phản đế - cách mạng GPDT cao hơn hết và nêu rõ: Một cao trào cách mạng nhất định sẽ nổi dậy. Đảng phải chuẩn bị để gánh lấy sứ mệnh thiêng liêng: lãnh đạo cho các dân tộc bị áp bức Đông Dương võ trang bạo động giành lấy quyền tự do độc lập. Trong lúc này kẻ thù chính của nhân dân Đông Dương là đế quốc chủ nghĩa Pháp, Nhật. Kẻ thù phụ là phong kiến bản xứ sau gần 30 năm hoạt động và lãnh đạo, chỉ đạo phong trào cách mạng trong nước từ nước ngoài, ngày 28-1- 1941 lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc trở về nước, cùng với Trung ương Đảng trực tiếp lãnh đạo cao trào GPDT. Tháng 5-1941 HNTƯ họp tại Cao Bằng do Nguyễn Ái Quốc chủ trì, Hội nghị đã phân tích, đánh giá phong trào cách mạng đã và đang diễn ra sôi nổi trên cả nước, đặc biệt là các cuộc khởi nghĩa Bắc Sơn (9-1940), Nam Kỳ (11- 1940) và cuộc khởi nghĩa của binh lính ở Đô Lương (Nghệ An) (13-1-1941). Các nghị quyết HNTƯ (11-1939), (11-1940) và (5-1941) đã phát triển hoàn chỉnh đường lối cách mạng GPDT. Đó là một hệ thống các quan điểm, chủ trương của Đảng trên mấy vấn đề chủ yếu sau đây.Tạm thời chưa giải quyết vấn đề ruộng đất cho nông dân, song nông dân vẫn không giảm bớt sự hăng hái tranh đấu mà vẫn nỗ lực tranh đấu mạnh hơn vì trong cuộc tranh đấu GPDT họ cũng được hưởng nhiều quyền lợi to tát. Đảng chủ trương xây dựng và phát triển căn cứ địa cách mạng, cùng với lực lượng chính trị phải coi trọng xây dựng và phát triển lực lượng vũ trang để chuẩn bị cho khởi nghĩa vũ trang giành chính quyền, giành độc lập/Đảng hết sức chú trọng phân tích tình thế cách mạng cả trong nước và quốc tế để chủ động chuẩn bị về mọi mặt thúc đẩy thời cơ cách mạng. HNTƯ tháng 11-1939 và tháng 11- 1940 đã đề cập tới tình thế và thời cơ để cách mạng tiến lên giành thắng lợi.Khi xác định cuộc cách mạng là cách mạng GPDT nghĩa là phải giành lấy độc lập, tự do cho dân tộc thì một vấn đề rất cơ bản và chủ yếu đặt ra là vấn đề hình thức tổ chức nhà nước phải xây dựng khi giành được độc lập. HNTƯ tháng 11-1939 chủ trương chưa đưa khẩu hiệu lập Chính phủ Xô Viết SV Trần Minh Tuyến-KT2A  9  Tiểu luận Tư tưởng Hồ Chí Minh công nông binh'' là hình thức chính phủ riêng của dân chúng lao động mà lựa chọn hình thức chính phủ Cộng hoà dân chủ, là hình thức chính phủ chung cho tất cả các tầng lớp dân chúng trong xứ và trong phong trào GPDT. Đó là sự lựa chọn đúng đắn phù hợp với điều kiện cụ thể của xã hội Việt Nam.Khi bước vào cao trào GPDT những năm 1939 - 1945, Đảng và Hồ Chí Minh xác định cách mạng nước ta chưa phải là cách mạng tư sản dân quyền với nhiệm vụ giành độc lập dân tộc và ruộng đất cho dân cày, cũng chưa phải là cách mạng XHCN mà là Cách mạng giải phóng dân tộc giành cho được độc lập hoàn toàn rồi từng bước thực hiện mục tiêu ruộng đất, mở đường tiến dần lên CNXH. Đó là quy luật vận động, phát triển của cách mạng nước ta và khẳng đính sự đúng đắn, tính triệt để của cách mạng GPDT do ĐCS lãnh đạo. Có đường lối đúng, được hoạch định trên cơ sở tư duy chính trị, lý luận cách mạng khoa học và thực tiễn sinh động của xã hội, đất nước là một bảo đảm cho thắng lợi của cách mạng. Đường lối có được tổ chức thực hiện, cụ thể hoá và phát triển một cách sáng tạo là thêm sự bảo đảm chắc chắn cho thắng lợi. Đó cũng là một trong những bài học lịch sử quan trọng và chủ yếu của Cách mạng tháng Tám năm 1945, rất có ý nghĩa đối với công cuộc đổi mới của Đảng và nhân dân ta hiện nay. 2.3-CM gpdt là sự nghiệp đoàn kết của toàn dân, trên cơ sở liên minh công nông. Từ quan điểm CN Mác Lê Nin :CM là sự nghiệp của quần chúng nhân dân, nhân dân lao động là người sáng tạo và quyết định sự phát triển lịch sử. Từ thực tiễn đấu tranh cách mạng Hồ Chí Minh tổng kết ,đánh giá các di sản truyền thống về tập hợp lực lượng của các nhà yêu nước VN tiền bối và các phong trào cách mạng ở nhiều nước trên thế giới ,nhất là các phong trào giải phóng dân tộc thuộc địa ,từ đó Người rút ra bài học kinh nghiệm để hình thành và hoàn chỉnh tư tưởng về đại đoàn kết của mình.Các phong trào cách mạng VN thực tế vừa hào hùng,vừa bi tráng đã chứng tỏ nếu chỉ có yêu nước thôi thì không đủ để đánh thắng giặc.“Sử ta đã dạy cho ta rằng,khi nào dân ta biết đoàn kết thì khi đó dân ta dành thắng lợi.” SV Trần Minh Tuyến-KT2A  10  Tiểu luận Tư tưởng Hồ Chí Minh Cách mạng giải phóng dân tộc như Nguyễn ái Quốc xác định đó là "việc chung của cả dân chúng chứ không phải việc một hai người", vì vậy phải đoàn kết toàn dân .CM gpdt là "việc chung của cả dân chúng", phải đoàn kết toàn dân "sỹ, nông, công, thương đều nhất trị chống lại cường quyền". Cốt của liên minh công-nông "công-nông là người chủ cách mạng ..công-nông là gốc của CM". Mục tiêu của cách mạng gpdt là đánh đổ Đế quốc pháp và đại địa chủ phong kiến giành độc lập dt. Cần vận động tập hợp rộng rãi các tầng lớp nhân dân VN đang bị mất nước. Thành lập mặt trận dt thống nhất, để huy động sức mạnh của đại đoàn kết toàn dân. Công nông là gốc, liên minh với các giai tầng khác phải chú ý đến lợi ích của giai cấp công-nông của dt. Trong Sách lược vắn tắt, Hồ Chí Minh nêu rõ:"Đảng phải hết sức liên lạc với tiểu tư sản, trí thức, trung nông, thanh niên, tân việt...kéo họ đi về phe vô sản giai cấp. Còn đối với bọn phú nông, trung, tiểu địa chỉ, tư bản An-nam mà chưa rõ mặt phản cách mạng thì phải lợi dụng, chí ít là cho họ trung lập. Bộ phận nào đã ra mặt phản cách mạng thì phải đánh đổ". Do nhận thức khác nhau về yêu cầu, mục tiêu của CMVS ở các nước TB phát triển với cách mạng gpdt ở thuộc địa, lại bị chi phối bởi quan điểm tả khuynh của quốc tế cộng sản VI, các đại biểu của quốc tế cộng sản cho rằng Nguyễn Aí Quốc đi theo chủ nghĩa dt mà "quên mất lợi ích đấu tranh giai cấp". Hồ Chí Minh vẫn nhấn mạnh: công-nông là gốc của cách mạng; còn học trò, nhà buôn nhỏ, điền chủ cũng bị tư sản áp bức, song không cực khổ bằng công-nông; ba hạng người ấy là bầu bạn của công-nông"."Trong khi liên lạc giai cấp, phải cận thận, không khi nào nhựng một chút lợi ích gì của công-nông mà đi vào thỏa hiệp". Thực tế chứng minh : Chủ tịch Hồ Chí Minh từng nhấn mạnh sự nghiệp làm nên bởi chữ “đồng'', đồng chí, đồng lòng, đồng sức nghĩa là toàn dân kết thành một khối xung quanh Đảng, Mặt trận Việt Minh và lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh. Với sức mạnh của toàn dân được tổ chức lại trên khắp các địa phương, địa bàn khi thời cơ đến mới có thể chủ động giành thắng lợi. Trên thế giới có những cuộc khởi nghĩa và chiến tranh cách SV Trần Minh Tuyến-KT2A  11  Tiểu luận Tư tưởng Hồ Chí Minh mạng hoặc là diễn ra chủ yếu ở thủ đô, thành phố rồi mới lan ra, kết thúc ở nông thôn hoặc là diễn ra chủ yếu ở nông thôn, lấy nông thôn bao vây thành thị. Việt Nam, khởi nghĩa nổ ra đều khắp trên tất cả các địa bàn, địa phương, có sự phối hợp, hưởng ứng giữa các địa phương và địa bàn đó ở đây thể hiện năng lực tổ chức, chỉ đạo thực tiễn rất cao của hệ thống tổ chức Đảng, Việt Minh và của đội ngũ cán bộ, đảng viên đồng thời thể hiện tính năng động, sáng tạo và trách nhiệm trước dân tộc, trước lịch sử. Một thành công nổi bật của Đảng và Hồ Chí Minh trong lãnh đạo Cách mạng tháng Tám đó là huy động được sức mạnh của lực lượng toàn dân tộc, nêu cao tinh thân yêu nước, khát vọng độc lập tự do ý chí tự lực, tự cường, quyết tâm đem sức ta mà tự giải phóng cho ta. Đảng và Hồ Chí Minh đã sớm nhen nhóm tổ chức yêu nước và phát triển lực lượng cách mạng rộng khắp trên tất cả địa bàn: rừng núi, nông thôn đồng bằng và đô thị; trong tất cả mọi giai cấp, tầng lớp xã hội kể cả các giai cấp bóc lột, tầng lớp trên có tinh thần yêu nước, các dân tộc trong cộng đồng dân tộc Việt Nam, các tôn giáo, các cá nhân yêu nước, tiến bộ. Không có lực lượng của khối đại đoàn kết toàn dân tộc như thế, không thể có thắng lợi của Cách mạng tháng Tám. 2.4 CM gpdt phải được tiến hành chủ động, sáng tạo và có khả năng giành thắng lợi trước CMVS ở chính quốc Tầm quan trọng của Cách mạng thuộc địa :Đế quốc xâm lược thuộc địa để củng cố duy trì địa vị của cả chính quốc trên toàn thế giới .Cách mạng thuộc địa thắng lợi sẽ làm suy yếu Đế quốc và tạo điều kiện cho thế giới phát triển . Người dân thuộc địa có khả năng làm cách mạng to lớn ,là lực lượng hùng hậu vì vậy phải phát triển tinh thần tự chủ ,tự cường của các dân tộc đứng lên thực hiện đấu tranh tự giải phóng mình .Hồ Chí Minh đã nêu cao tinh thần tự lực cánh sinh của dân tộc ,động viên nhân dân phát huy tính chủ động của mình.Nếu không phát huy được tính chủ động ấy thì đất nước và dân tộc vẫn chìm đắm trong ách nô lệ,Người nói “ một dân tộc không tự lực cánh sinh mà cứ ngồi chờ dân tộc khác giúp đỡ thì cũng không xứng đáng được độc lập” Quan hệ giữa Cách mạng thuộc địa và cách mạng chính quốc : Đó là quan hệ bình đẳng của những lực lượng cách mạng trên thế giới đã đấu tranh chống lại kẻ thù SV Trần Minh Tuyến-KT2A  12  Tiểu luận Tư tưởng Hồ Chí Minh chung là chủ nghĩa đế quốc và những thế lực phản động vì những mục tiêu của thời đại .Đó là quan hệ hợp tác giúp đỡ lẫn nhau ,đồng thời khẳng định các dân tộc thuộc địa phải xuất phát từ điều kiện lịch sử của mình từ tiềm năng của dân tộc ,huy động vào cuộc đấu tranh và có thể giành được thắng lợi trước cách mạng vô sản ở chính quốc Ngay từ năm 1924, Người đã sớm cho rằng : CM thuộc địa không những không phục thuộc vào CMVS ở chính quốc mà có thể giành thắng lợi trước cách mạng vô sản ở chính quốc ,đồng thời tác động trở lại cách mạng chính quốc. Đây là một luận điểm sáng tạo của Hồ Chí Minh về mối quan hệ giữa giải phóng dân tộc với cách mạng vô sản: Theo Mac- Ănghen: cách mạng vô sản ở chính quốc là cần thiết và được thực hiên trước. Theo Lênin: cách mạng ở thuộc địa phụ thuộc vào cách mạng vô sản ở chính quốc. Còn theo Hồ Chí Minh: Cách mạng giải phóng dân tộc phải được tiến hành chủ động và có khả năng giành thắng lợi trước cách mạng vô sản ở chính quốc. Cơ sở đưa ra luận điểm: Hồ Chí Minh vận dụng những nguyên lý mà C.Mác đưa ra: " Sự giải phóng của giai cấp công nhân chỉ có thể thực hiện được bởi giai cấp công nhân" để đưa đến khẳng định: " Công cuộc giải phóng anh em chỉ có thể thực hiện được bằng sự nỗ lực của bản thân anh em".Vì thế nên công cuộc giải phóng các dân tộc thuộc địa phải do chính các dân tộc đó thực hiện.- Đại hội V quốc tế cộng sản 1924. Hồ Chí Minh nhận thấy sự tồn tại và phát triển của CNTB là dực trên sự bóc lột giai cấp vô sản ở chính quốc và nhân dân các dân tộc thuộc địa vì vậy cuộc đấu tranh của giai cấp vô sản ở chính quốc phải kết hợp chặt chẽ với cuộc đấu tranh của các dân tộc thuộc địa thì mới tiêu diệt được hoàn toàn CNTB. Hơn nữa theo đánh giá của HCM trong giai đoạn ĐQCN sự tồn tại, phát triển của CNTB chủ yếu dựa vào việc bóc lột nhân dân các nước thuộc địa vì vậy cuộc CMVS ở chính quốc trước chẳng khác nào đánh rắn đằng đuôi. Theo HCM chính CMGPDT ở thuộc địa có sức bật thuận lợi hơn vì: SV Trần Minh Tuyến-KT2A  13  Tiểu luận Tư tưởng Hồ Chí Minh Chính sách khai thác thuộc địa hết sức tàn bạo của CNĐQ là mâu thuẫn giữa nhân dân thuộc địa với CNĐQ ngày càng gay gắt vì vậy mà tiêm năng cách mạng của các dân tộc bị áp bức là rất to lớn. Tinh thần yêu nước và CNDT chân chính của các dân tộc thuộc địa là một sức mạnh tiềm ẩn của CMGPDT. Sức mạnh đó nếu được chủ nghĩa Mac- Lênin giác ngộ và soi đường thì CMGPDT ở các nước thuộc địa sẽ có một sức bật rất lớn và có khả năng chủ động cao so với CMVS ở chính quốc. Thuộc địa là khâu yếu của CNTB nên CMGPDT ở thuộc địa dễ dàng giành chính quyền hơn. Ý nghĩa: Đây là luận điểm có ý nghĩa thực tiễn to lớn giúp CMGPDT ở Việt Nam không thụ động, ỷ lại chờ sự giúp đỡ từ bên ngoài mà luôn phát huy tính độc lập tự chủ, tự lực, tự cường nhờ đó mà CMVN giành thắng lợi vĩ đại. Góp phần định hướng cho phong trào GPDT ở các nước khác trên thế giới trong thời kỳ đó. Luận điểm có giá trị lý luận và thực tiễn to lớn , một cống hiến rất quan trọng của Hồ Chí Minh vào kho tang lý luận của chủ nghĩa Mác –Lênin ,đã được thắng lợi của phong trào cách mạng giải phóng dân tộc trên toàn thế giới trong gần một thế kỷ qua chứng minh là hoàn toàn đúng đắn. 2.5-CM gpdt phải được thực hiện bằng con đường bạo lực, kết hợp lực lượng chính trị của quần chúng với lực lượng vũ trang trong nhân dân. Bạo lực cách mạng: được hiểu dưới hình thức khởi nghĩa vũ trang kết hợp với bãi công chính trị của quần chúng. Bạo lực cách mạng cũng có thể được tiến hành bằng cuộc đấu tranh chính trị một cách hoà bình của quần chúng nhân dân lao động, những lực lượng cách mạng, đi đầu là giai cấp công nhân dưới sự lãnh đạo của đảng cộng sản. Con đường đấu tranh hoà bình đó phát triển đến mức đủ áp lực buộc giai cấp tư sản phải giao chính quyền nhà nước cho giai cấp công nhân và nhân dân lao động. Phương pháp đấu tranh này đỡ đổ xương máu, đỡ gây tổn thất cho quần chúng SV Trần Minh Tuyến-KT2A  14  Tiểu luận Tư tưởng Hồ Chí Minh nhân dân lao động, rất quí và hiếm. Thực tế, cho tới nay, chưa có nước xã hội chủ nghĩa nào giành được chính quyền bằng con đường trên. Tuy nhiên, các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác-Lênin vẫn dự báo khả năng trên và cho rằng, chỉ khi tương quan so sánh lực lượng hoàn toàn có lợi cho phía cách mạng, thì khả năng trên mới có thể xảy ra . Bạo lực cách mạng trong cách mạng giải phóng dân tộc ở Việt Nam :Đánh giá đúng bản chất của chủ nghĩa đế quốc, Hồ Chí Minh đã xác định: " Trong cuộc đấu tranh gian khổ chống kẻ thù của giai cấp và của dân tộc, cần dùng bạo lực cách mạng chống lại bạo lực phản cách mạng, giành lấy chính quyền và bảo vệ chính quyền". Hình thức của bạo lực cách mạng bao gồm cả đấu tranh chính trị và đấu tranh vũ trang. Hồ Chí Minh cũng chỉ rõ: " tùy tình hình cụ thể mà quyết định những hình thức đấu tranh cách mạng thích hợp, sử dụng đúng và khéo kết hợp các hình thức đấu tranh vũ trang và đấu tranh chính trị để giành thắng lợi cho cách mạng". Để giành chính quyền phải bằng bạo lực, trước hết là khởi nghĩa vũ trang của quần chúng. Trong thời đại mới, thời đại CM vô sản thì cuộc khởi nghĩa vũ trang phải có sự ủng hộ của CM vô sản thế giới, CM Nga, thậm chí với CM vô sản Pháp. Cuộc khởi nghĩa của quần chúng phải có t/chất 1 cuộc khởi nghĩa vũ trang chứ không phải là nổi loạn. Do đó phải được chuẩn bị trong quần chúng, nổ ra ở thành phố, theo kiểu cách mạng châu âu. Phải được nước Nga ủng hộ, phải trùng hợp với cách mạng vô sản pháp, phải gắn mật thiết với sự nghiệp CMVS thế giới. Tháng 5/1941, Hội nghị TW8 khóa 1 nhận định: cuộc cách mạng Đông Dương kết thúc bằng 1 cuộc khởi nghĩa vũ trang, mở đầu có thể là cuộc khởi nghĩa từng phần, từng địa

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docxtu tuong HCM ve vddt cach mang giai phong dt.docx
  • pdftu tuong HCM ve vddt cach mang giai phong dt.pdf
Tài liệu liên quan