Tiểu luận Vai trò của kinh tế nhà nước với sự phát triển xã hội chủ nghĩa

Theo Trung tâm thông tin và dự báo kinh tế-xã hội quốc gia, Bộ Kế hoạch đầu tư, báo cáo 4-2008, vốn đầu tư của khu vực kinh tế nhà nước luôn chiếm tỷ trọng cao trong tổng số vốn đầu tư phát triển toàn xã hội.

Từ năm 2000 đến năm 2003, tỷ trọng này luôn chiếm trên 50%, cụ thể, năm 2000, vốn đầu tư của khu vực kinh tế nhà nước chiếm 59,14%; năm 2001 chiếm 59,81%; năm 2002 chiếm 57,33% và năm 2003 chiếm 52,9%, và có giảm trong những năm tiếp theo (năm 2004: 48,06%; năm 2005: 47,11% và năm 2006: 46,4%) nhưng vẫn chiếm một phần lớn trong tổng vốn đầu tư phát triển toàn xã hội.

 

Tổng lượng vốn đầu tư toàn xã hội thực hiện năm 2007 theo giá thực tế ước tính đạt 461,9 nghìn tỷ đồng, trong đó vốn khu vực Nhà nước 200 nghìn tỷ đồng, chiếm 43,3% tổng vốn; vốn khu vực ngoài Nhà nước 187,8 nghìn tỷ đồng, chiếm 40,7% ; vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài 74,1 nghìn tỷ đồng, chiếm 16% và tăng 17,1%.

Vốn đầu tư từ ngân sách nhà nước thực hiện tăng 88,9%. Vốn đầu tư toàn xã hội thực hiện năm 2009 theo giá thực tế ước tính tăng 15,3% so với năm 2008 và bằng 42,8% GDP(kế hoạch là 39,5%), trong đó khu vực Nhà nước tăng 40,5%; khu vực ngoài Nhà nước tăng 13,9%; khu vực có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài giảm 5,8%. chỉ số ICOR lên đến 8 là quá cao, so với mức 6,6 của năm 2008. Trong vốn đầu tư của khu vực Nhà nước, vốn từ ngân sách Nhà nước chiếm 21,8% tổng vốn đầu tư cả nước, đạt 106,8% kế hoạch năm.

 

doc17 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 1959 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tiểu luận Vai trò của kinh tế nhà nước với sự phát triển xã hội chủ nghĩa, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ng coi vai trò chủ đạo của kinh tế quốc doanh là điều mặc nhiên mà phải gắn với việc “sắp xếp lại, đổi mới công nghệ và tổ chức quản lý, kinh doanh có hiệu quả, liên kết và hỗ trợ các thành phần kinh tế khác, thực hiện vai trò chủ đạo và chức năng của một công cụ điều tiết vĩ mô của Nhà nước. Các xí nghiệp quốc doanh hoạt động theo nguyên tắc tự chủ kinh doanh, tự trang trải và tích luỹ trong môi trường hợp tác, cạnh tranh; Nhà nước chỉ tài trợ có thời hạn cho một số cơ sở thật sự cần thiết' Kinh tế nhà nước vẫn đóng vai trò "bà đỡ" cho các doanh nghiệp vào những giai đoạn khó khăn, nhất là trong chuyển giao công nghệ, liên doanh góp vốn với nước ngoài. 2.2.1.1 Cơ cấu ngành : Từ các hình thức sở hữu cơ bản: “sở hữu toàn dân sở hữu tập thể và sở hữu tư nhân, hình thành nhiều thành phần kinh tế với những hình thức sở hữu kinh doanh đa dạng, đan xen, hỗn hợp “ Các thành phần kinh tế được nêu lên gồm kinh tế nhà nước, kinh tế tập thể, kinh tế cá thể, tiểu chủ, kinh tế tư bản tư nhân, kinh tế tư bản nhà nước. Thành phần kinh tế hợp tác đã có nhiều thay đổi, phát triển hơn, phù hợp với nguyên tắc hoạt động của thành phần kinh tế tập thể (nói rõ hơn về bản chất sở hữu, bao gồm nhiều hình thức hợp tác đa dạng trong đó hợp tác xã vẫn là hình thức chủ yếu) thành phần kinh tế có vồn đầu tư nước ngoài góp phần quan trọng trong nền kinh tế quốc dân và ngày càng phát triển hơn trong những năm gần đây bao gồm vốn do nươc ngoài đầu tư vào nước ta 100% hoặc do liên doanh liên kết. Nhìn chung nền kinh tế Việt Nam có những chuyển biến tích cực, tỷ lênh ngành dịch vụ (42%)và công nghiệp trong GDP tăng lên đáng kể, nông nghiệp có xu hướng giảm. Song cốt lõi vần là công nông và dịch vụ . 2.2.1.2 Kinh tế đối ngoại : Nước ta đã mở cửa nền kinh tế liên kết với kinh tế khu vực và kinh tế thế giới với xu hướng ngày càng mạnh mẽ. Hoạt động xuất nhập khẩu phát triển khá nhanh. Năm 2007 kim ngạch xuất khẩu của cả nước như sau: Khu vực doanh nghiệp 100% vốn trong nước đạt kim ngạch 11,717 tỷ USD chiếm 43,4 % tổng kim ngạch xuất khảu của cả nước ( cùng kỳ năm 2006, tỷ lệ này là 41,9%) khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài đạt kim ngạch 15,073 tỷ USD, chiếm 46,6% tổng kim ngạch xuất khẩu của cả nước.Tổng kim ngạch nhập khẩu đạt 32,243 tỷ USD, tăng 29,8% so với cùng kỳ năm trước( cùng kỳ năm 2006 đạt 24,77 tỷ USD tăng 16,5% so với cùng kỳ năm 2006) Riêng tháng 7 đạt 5,05 tỷ USD, tiếp tực tăng so với tháng 6 năm 2007. Trong đó kim ngạch nhập khẩu của các doanh nghiệp 100% vốn trong nước đạt 20,823 tỷ USD, tăng 31,8% so với cùng ký năm 2006, chiếm tỷ trọng 64,6% tổng kim ngach nhập khẩu của các doanh nghiệp có vốn đầu từ nước ngoài đạt 11,42 tỷ USD, tăng 26,3% so với cùng kỳ năm 2006, chiếm 35,4% tổng kim ngạch nhập khẩu của cả nước ( cùng kỳ năm 2006 đạt 9 tỷ USD, chiếm tỷ trọng 36,5% tổng kim ngạch nhập khẩu của cả nước , tăng 18,1% so với cùng kỳ năm 2005) Tổng xuất nhập khẩu hàng hóa trong năm 2008 đặt 143,4 tỷ USd tăng 28,9% so với năm 2007, trong đó xuất khảu đạt 62,69 % tỷ USD tăng29,1% so với năm trước, vượt 7% kế hoạch năm và nhập khẩu là 80,71 tỷ USD ,tăng 28,8% thấp hơn tốc độ tăng xuất khẩu. Hết tháng 12 năm 2008 nhập siêu của Việt Nam là 18,03 tỷ USD đạt con số kỷ lục từ trước tới nay, tăng 27,7% so với con số 14,12 tỷ USD của năm 2007. Tổng kim ngạch xuất nhập khẩu hàng hoá trong năm 2008 đạt 143,4 tỷ USD, tăng 28,9% so với năm 2007, trong đó xuất  khẩu đạt 62,69 tỷ USD, tăng 29,1% so với năm trước, vượt 7% kế hoạch năm và nhập khẩu là 80,71 tỷ USD, tăng 28,8%, thấp hơn tốc độ tăng xuất khẩu. Theo Bộ Kế hoạch – Đầu tư, kim ngạch xuất khẩu cả nước năm 2009 ước đạt 56,7 tỷ USD giảm 9,5% so với năm 2008, kim ngạch nhập khẩu ước đạt 68,7 tỷ USD giảm 14,9%so với năm 2008. Tỷ trọng nhập siêu của Việt Nam năm 2009 chiếm 21,1% kim ngạch xuất khẩu. Tỷ lệ này cho thấy, Việt Nam không đạt mục tiêu đề ra là nhập siêu phải có tỷ trọng dưới 20% so với tổng kim ngạch xuất khẩu cả nước. So với năm 2008, một số mặt hàng công nghiệp nhập khẩu chủ yếu tăng mạnh như phân bón, nhập 4,3 triệu tấn tăng gần 42%, chất dẻo nguyên liệu nhập 2,2 triệu tấn, tăng 25,8%; sợi các loại nhập 495 nghìn tấn, tăng 19,5%; sắt thép nhập 9,6 triệu tấn, tăng 13,8%, máy vi tính và linh kiện điện tử, đạt kim ngạch tới 3,9 tỷ USD tăng 5,8%; dược phẩm nhập trên 1 tỷ USD tăng 27%... Theo báo cáo công bố tình hình kinh tế xã hội tháng 3 và Quý I năm 2010 của Bộ Kế hoạch và Đầu tư tại cuộc họp Báo Chính phủ ngày 1/4/2010, mặc dù đứng trước nhiều khó khăn, thách thức, nhưng trong quý I/2010 nền kinh tế nước ta vẫn tiếp tục đà phục hồi của những quý cuối năm 2009 với tốc độ tăng tổng sản phẩm trong nước đạt 5,83%, gấp gần 1,9 lần tốc độ tăng trong quý I/2009. Đáng chú ý là sự phục hồi diễn ra ở hầu hết các ngành, các lĩnh vực kinh tế then chốt: Tổng kim ngạch xuất khẩu: Quý I/2010 ước đạt 14,01 tỷ USD, giảm 1,6% so với cùng kỳ năm 2009; trong đó kim ngạch xuất khẩu của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài (không kể dầu thô) ước đạt 6,68 tỷ USD, tăng 40,5%. Riêng yếu tố tăng giá làm tăng kim ngạch xuất khẩu khoảng 1 tỷ USD. Nếu loại trừ yếu tố tăng đột biến xuất khẩu vàng Quý I/2009, kim ngạch xuất khẩu 3 tháng đầu năm 2010 tăng khoảng 11,9% so với cùng kỳ năm 2009. Tổng kim ngạch nhập khẩu: Quý I/2010 ước đạt 17,5 tỷ USD, tăng 37,6% so với cùng kỳ năm 2009; trong đó nhập khẩu của các doanh nghiệp FDI ước đạt 7,1 tỷ USD, tăng 53,1%.   Nhập siêu Quý I/2010 ước đạt 3,5 tỷ USD, bằng 25% so với tổng kim ngạch xuất khẩu.      Tuy nhiên, nền kinh tế vẫn còn tồn tại nhiều khó khăn vừa có tính trước mắt vừa có tính lâu dài. Chất lượng, hiệu quả tăng trưởng hạn chế, sức cạnh tranh của nền kinh tế nói chung và của nhiều ngành, nhiều loại sản phẩm hàng hóa, dịch vụ còn thấp. Một số cân đối kinh tế vĩ mô chưa được cải thiện đáng kể, thiếu tính bền vững, nhất là cân đối xuất nhập khẩu hàng hóa, dịch vụ, cân đối thu chi ngân sách Nhà nước, cân đối vốn đầu tư phát triển, chỉ số giá tiêu dùng tăng cao (Chỉ số giá tiêu dùng tháng 3 năm 2010 tăng 0,75% so với tháng 2 năm 2010. So với tháng 12/2009, chỉ số giá tiêu dùng tháng 3/2010 tăng 4,12%. Chỉ số giá Quý I năm 2010 tăng 8,51% so với cùng kỳ năm 2009). Các mặt hàng xuất khẩu nước ta vẫn ở dạng thô, giá trị thấp, sức cạnh tranh kém, các doanh nghiệp nhập khẩu nhiều do hệ thống luật pháp của Việt Nam còn nhiều thiếu sót, các doanh nghiệp Việt Nam chưa làm tốt công tác xúc tiến thương mại, chưa có chiến lược xuất khẩu dài hạn ổn định lâu dài, thương mại điện tử còn chưa phát triển mạnh điều đó hạn chế khả năng tham gia hội nhập nền kinh tế thế giới của các doanh nghiệp Việt Nam, đòi hỏi Nhà nước phải có giải pháp trong quá trình hội nhập sao cho thu được nhiều hiệu quả tốt. 2.2.2 Những biểu hiện về vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước : 2.2.2.1 Là lực lượng vật chất để Nhà nước thực hiện chức năng điều tiết và quản lý vĩ mô. Nhà nước sử dụng chung tất cả các biện pháp có thể can thiệp vào kinh tế nhằm hạn chế những khuyết tật của kinh tế thị trường, tạo môi trường kinh doanh lành mạnh, phân bổ nguồn lực tối ưu và thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, phát triển xã hội một cách hài hoà phù hợp với giá trị truyền thống và văn hoá đất nước. Trong kinh tế, mỗi đơn vị kinh doanh là một chủ thể kinh tế, trực tiếp đối mặt với thị trường để quyết định các vấn đề kinh tế cơ bản : sản xuất cái gì? sản xuất như thế nào? sản xuất cho ai? theo mục tiêu tối đa hoá lợi nhuận. Điều này tất yếu dẫn đến kết cục là ở đâu, khi nào, đối với mặt hàng nào có thể đem lại lợi nhuận cao thì ở đó, khi đó các doanh nghiệp có khả năng sẽ đổ xô vào sản xuất và kinh doanh mặt hàng đó. Ngược lại, nếu ở đâu, khi nào và đối với mặt hàng nào không có lời hoặc lỗ vốn thì ở đó, khi đó sẽ có nhiều doanh ngiệp có khả năng sẽ rút khỏi thị trường sản xuất và kinh doanh mặt hàng đó. Do sự hạn chế của mỗi dịch vụ về việc thu thập cũng như xử lý các thông tin cần thiết về thị trường để quyết định có tham gia hay rút khỏi một thị trường nào đó, tất cả sẽ dẫn đến nguy cơ có thể phát sinh mâu thuẫn giữa cung và cầu ở mọi lúc, mọi nơi và đối với mọi mặt hàng. Để chống lại nguy cơ đó Nhà nước phải thực hiện chức năng điếu tiết bằng nhiều công cụ khác nhau. Trong đó doanh nghiệp Nhà nước được coi là một công cụ. Với tư cách là công cụ điều tiết luôn được Nhà nước thực hiện theo phương châm : ở đâu, khi nào nền kinh tế quốc dân đang mở rộng sản xuất kinh doanh một mặt hàng cụ thể nào đó mà các doanh nghiệp dân doanh hoặc không có đủ sức kinh doanh hoặc từ chối thì ở đó và khi đó cần sự có mặt của doanh nghiệp Nhanườc. Đến lúc nào đó, khi các doanh nghiệp dân doanh đủ sức đáp ứng nhu cầu thị trường, doanh nghiệp Nhà nước có thể rút khỏi thị trường đó, nhường chỗ cho các doanh nghiệp dân doanh. Quá trình diễn ra liên tục, lặp lại ở mọi lĩnh vực của nền kinh tế quốc dân hình thành vai trò điều tiết của doanh nghiệp Nhà nước. Chức năng này còn thể hiện ở trong phạm vi từng vùng đặc biệt quan trọng với các vùng xa, vùng sâu. Như vậy, chức năng điều tiết nền kinh tế quốc dân đòi hỏi Nhà nước phải sử dụng doanh nghiệp Nhà nước như một công cụ cần thiết bảo đảm cho nền kinh tế hoạt động một cách thông suốt, đảm bảo lợi ích xã hội. 2.2.2.2 Làm đòn bẩy nhanh tăng trưởng kinh tế và giải quyết những vấn đề xã hội. Để nền kinh tế nước ta phát triển một cách nhanh chóng thì cần phải có những bước tăng trưởng. Do vậy, cần có một lực lượng có sức mạnh kinh tế làm đòn bẩy để thúc đẩy các lực lượng khác cùng phát triển. Doanh nghiệp Nhà nước hiện nay chưa đủ khả năng chi phối toàn bộ nền kinh tế nhưng có một thực lực to lớn nên chỉ có doanh nghiệp Nhà nước mới có thể thực hiện được chức năng đòn bẩy. Những vấn đề xã hội đang là một hạn chế lớn của nước ta. Muốn phát triển kinh tế - xã hội Nhà nước phải giải quyết triệt để những vấn đề đó. Để thực hiện được điều này chúng ta cần có thực lực về kinh tế. Trong điều kiện nền kinh tế nhiều thành phần như hiện nay thì chỉ có thành phần kinh tế Nhà nước mới có thể đảm nhận được vai trò làm lực lượng chủ lực cho Nhà nước giải quyết các vấn đề xã hội. 2.2.2.3 Mở đường hướng dẫn, hỗ trợ cho các thành phần kinh tế khác cùng phát triển, tạo nền tảng cho chế độ xã hội mới. Kinh tế nhà nước kiểm soát các thị trường của hoạt động vốn và thị trường tiền tệ để bảo đảm khả năng ổn định kinh tế vĩ mô của nhà nước. Các công cụ tài chính tiền tệ, tín dụng là các công cụ chính yếu của nhà nước trong quản lý kinh tế vĩ mô. Thành phần kinh tế nhà nước thể hiện vai trò chủ đạo chi phối các thành phần kinh tế khác, làm biến đổi các thành phần kinh tế khác theo đặc tính của mình, tạo cơ sở hạ tầng cho mỗi kinh tế hàng hoá, chiếm giữ các ngành then chốt và trọng yếu xã hội, làm đòn bảy nhanh tăng trưởng kinh tế gắn với công bằng xã hội. Đóng góp phần lớn vào tổng sản phẩm quốc nội (GDP) của toàn xã hội. 2.3 Thực trạng của kinh tế nhà nước trong nền kinh tế thị trường định hướng Xã Hội Chủ Nghĩa tại Việt Nam hiện nay : Kinh tế Nhà nước ở nước ta có một thực lực to lớn, chiếm hơn 3/4 tài sản quốc gia, nắm giữ các đài chỉ huy và các vị trí then chốt trong nền kinh tế, đó chính là nền tảng, là cơ sở và sức mạnh để định hướng xã hội chủ nghĩa toàn bộ nền kinh tế quốc dân. Tại Việt Nam, khu vực kinh tế Nhà nước thu hút phần lớn các nguồn lực; từ tài chính, đầu tư, đến lao động, tài nguyên, và được hưởng nhiều ưu đãi. Nhưng xét về mặt hiệu quả thì khả năng đem lại phúc lợi không bao nhiêu và chính điều này đang làm suy yếu tính định hướng, dẫn dắt, nêu gương của nó với các thành phần kinh tế khác. Tỉ lệ 40% GDP mà các tập đoàn, công ty Nhà nước tạo ra đã được thống kê chính thức của Việt Nam nói đến, là một con số quá cao so với thực tế. Ví dụ : - Giá trị sản xuất công nghiệp tháng 3 năm 2010 ước tăng 17,8% so với tháng 2 năm 2010 và tăng 14% so với cùng kỳ năm 2009. Tính chung Quý I/2010, giá trị sản xuất công nghiệp tăng 13,6% cao hơn so với kế hoạch năm 2010 (12%), trong đó: khu vực kinh tế ngoài Nhà nước tăng 14,6%, chiếm tỷ trọng 36,3% toàn ngành và khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài tăng 16,4%, chiếm tỷ trọng 41,8% toàn ngành. Vậy khu vực kinh tế nhà nước chiếm tỷ trọng 21,9% toàn ngành. - Ngành xây dựng tiếp tục đạt tốc độ tăng cao. Giá trị sản xuất ngành xây dựng (theo giá thực tế) Quý I/2010 ước tăng 17,4% so với cùng kỳ năm 2009, trong đó: khu vực doanh nghiệp nhà nước tăng 17,9% (chiếm tỷ trọng 27,5% toàn ngành), khu vực ngoài nhà nước tăng 17,3% so với cùng kỳ năm trước (chiếm tỷ trọng 69,9% toàn ngành). 2.3.1 Sử dụng vốn : - Vốn đầu tư : Theo Trung tâm thông tin và dự báo kinh tế-xã hội quốc gia, Bộ Kế hoạch đầu tư, báo cáo 4-2008, vốn đầu tư của khu vực kinh tế nhà nước luôn chiếm tỷ trọng cao trong tổng số vốn đầu tư phát triển toàn xã hội. Từ năm 2000 đến năm 2003, tỷ trọng này luôn chiếm trên 50%, cụ thể, năm 2000, vốn đầu tư của khu vực kinh tế nhà nước chiếm 59,14%; năm 2001 chiếm 59,81%; năm 2002 chiếm 57,33% và năm 2003 chiếm 52,9%, và có giảm trong những năm tiếp theo (năm 2004: 48,06%; năm 2005: 47,11% và năm 2006: 46,4%) nhưng vẫn chiếm một phần lớn trong tổng vốn đầu tư phát triển toàn xã hội. Tổng lượng vốn đầu tư toàn xã hội thực hiện năm 2007 theo giá thực tế ước tính đạt 461,9 nghìn tỷ đồng, trong đó vốn khu vực Nhà nước 200 nghìn tỷ đồng, chiếm 43,3% tổng vốn; vốn khu vực ngoài Nhà nước 187,8 nghìn tỷ đồng, chiếm 40,7% ; vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài 74,1 nghìn tỷ đồng, chiếm 16% và tăng 17,1%. Vốn đầu tư từ ngân sách nhà nước thực hiện tăng 88,9%. Vốn đầu tư toàn xã hội thực hiện năm 2009 theo giá thực tế ước tính tăng 15,3% so với năm 2008 và bằng 42,8% GDP(kế hoạch là 39,5%), trong đó khu vực Nhà nước tăng 40,5%; khu vực ngoài Nhà nước tăng 13,9%; khu vực có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài giảm 5,8%. chỉ số ICOR lên đến 8 là quá cao, so với mức 6,6 của năm 2008. Trong vốn đầu tư của khu vực Nhà nước, vốn từ ngân sách Nhà nước chiếm 21,8% tổng vốn đầu tư cả nước, đạt 106,8% kế hoạch năm. - Vốn kinh doanh : Theo một nghiên cứu mới đây của Viện Quản lý Kinh tế Trung ương (CIEM), tổng số vốn kinh doanh (theo giá ghi sổ) của doanh nghiệp ở Việt Nam đã tăng nhanh trong thời gian qua và tổng số vốn năm 2006 là 3062,7 nghìn tỷ đồng, tăng gấp hơn 3 lần so với năm 2000. Về thành phần kinh tế, thì trong cùng thời gian, số vốn của doanh nghiệp nhà nước đã tăng gần 2,4 lần (từ khoảng 670 ngàn tỷ đồng lên 1601 ngàn tỷ đồng) số vốn của doanh nghiệp tư nhân trong nước tăng khoảng 8,7 lần, từ 98,4 ngàn tỷ lên 857 ngàn tỷ VNĐ. Số vốn của doanh nghiệp FDI tăng lên khoảng 2,6 lần, từ 229,8 lên 604,6 ngàn tỷ VNĐ. Như vậy, đến năm 2006, tuy số lượng doanh nghiệp nhà nước giảm mạnh, số vốn của doanh nghiệp nhà nước vẫn lớn gần gần 2 lần số vốn của doanh nghiệp tư nhân trong nước. Cơ cấu vốn của doanh nghiệp theo thành phần kinh tế cũng đã thay đổi đáng kể. Tỷ trọng vốn kinh doanh của doanh nghiệp nhà nước đã giảm xuống từ khoảng 67% vào năm 2000 xuống còn khoảng 53% năm 2006; tỷ trọng của doanh nghiệp tư nhân và doanh nghiệp FDI tăng lên tương ứng từ khoảng 10 và 23% vào năm 2000 lên 28 và 19,7% năm 2006. Như vậy, doanh nghiệp nhà nước vẫn tiếp tục năm giữa hơn ½ tổng số vốn của các doanh nghiệp trong nền kinh tế.  - Đánh giá : Về tài sản hiện thời mà các doanh nghiệp nhà nước quản lý ước tính cho rằng nhóm này hiện nắm giữ 60% nguồn vốn cho vay của các Ngân hàng thương mại nhưng chỉ đóng góp được 40% vào GDP hàng năm. Theo Tiến sỹ Nguyễn Quang A thì tỷ lệ này còn thấp hơn rất nhiều: chỉ khoảng 30%. Như vậy, có thể thấy nguồn lực mà các doanh nghiệp nhà nước này sử dụng nhiều hơn về mặt tỷ lệ so với những gì mà nhóm này đóng góp cho nền kinh tế. Thậm chí các khoản nợ xấu trong hệ thống ngân hàng thương mại thì nhóm doanh nghiệp nhà nước cũng có tỷ lệ cao nhất. Ví dụ : Trong mức tăng của tổng mức bán lẻ hàng hoá và doanh thu dịch vụ tiêu dùng năm 2009, khu vực kinh tế cá thể tăng 20,3%; kinh tế tư nhân tăng 22,9%; kinh tế Nhà nước tăng 1,4%; kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài tăng 9,5%; kinh tế tập thể tăng 18,8%. Có thể nói, số vốn đầu tư huy động hàng năm chiếm tỷ trọng cao trong GDP nhưng chủ yếu đầu tư cho khu vực kinh tế nhà nước. Thực tế cho thấy :Vốn đầu tư kinh doanh cho khu vực kinh tế nhà nước tuy nhiều nhưng hoạt động kinh doanh chưa hiệu quả. 2.3.2 Xuất nhập khẩu : Định hướng chính sách phát triển kinh tế của Việt Nam là thúc đẩy xuất khẩu. Tuy nhiên qua thống kê cho thấy tỷ lệ xuất khẩu của khối nội và khối ngoại (FDI) như sau: Năm % kim ngạch xuất khẩu 2006 2007 2008 2009 FDI 62,8% 60,3% 55% 52,8% thành phần kinh tế trong nước 37,2% 39,7% 45% 47,2% Như vậy, xuất khẩu của các doanh nghiệp trong nước chiếm chưa đến 50%, và đương nhiên con số của các doanh nghiệp nhà nước còn thấp hơn rất nhiều. Một điều hết sức đáng lưu ý là khu vực kinh tế trong nước liên tục nhập siêu với mức độ ngày càng tăng suốt 14 năm, từ 1995 đến năm 2009, trong khi khu vực kinh tế FDI liên tục xuất siêu cũng với nhịp độ ngày càng tăng. 2.3.3 Tài sản cố định Về giá trị tài sản cố định của doanh nghiệp, tổng giá trị tài sản cố định của doanh nghiệp đã tăng lên 3,51 lần trong thời kỳ 2000-2006, trong đó doanh nghiệp nhà nước tăng hơn 3,53 lần, doanh nghiệp tư nhân trong nước tăng hơn 8,8 lần và doanh nghiệp FDI tăng gần 2,3 lần. Tuy vậy, giá trị tăng thêm về tài sản cố định của doanh nghiệp nhà nước trong thời kỳ nói trên vẫn chiếm hơn một nửa số giá trị tăng thêm về tài sản cố định của các doanh nghiệp và cao gấp hơn 2 lần so với doanh nghiệp tư nhân trong nước. Về cơ cấu giá trị tài sản cố định, trong thời kỳ 2000-2006, tỷ trọng của DNNN giảm nhẹ sau đó lại tăng lên nhưng hầu như không thay đổi; trong khi đó, tỷ trọng của doanh nghiệp tư nhân trong nước đã tăng mạnh từ 8,3% năm 2000 lên 20,7% năm 2006; và tỷ trọng của doanh nghiệp FDI giảm tương ứng từ 35,9% xuống còn 23,3% trong cùng thời kỳ. 2.3.4 Đóng góp cho GDP Bảng sau cho thấy đóng góp của các thành phần kinh tế vào GDP. Bảng 2: Tỷ lệ đóng góp vào GDP của các thành phần kinh tế (%) Năm: 2000 2001 2002 2003 2004 2005 2006 Khu vực kinh tế Nhà nước 38,52 38,40 38,38 39,08 39,10 38,40 37,32 Khu vực kinh tế tư nhân 48.20 47.84 47.86 46.45 45.77 45.61 45.66 Khu vực kinh tế FDI 13.27 13.76 13.76 14.47 15.13 15.99 17.02 Theo số liệu thống kê suất từ năm 1999 – 2007 ,kinh tế nhà nước đóng góp gần 40%. Nhưng từ năm 2008 tới nay sự đóng góp đã giảm xuống dưới 35%. Có thể thấy đóng góp vào GDP của khu vực kinh tế nhà nước không tương xứng với nguồn lực mà nó sử dụng. Khu vực tư nhân nói chung (trong nước và FDI) tạo ra gần 2/3 GDP. Sự đóng góp của kinh tế nhà nước cho GDP đang có sự giảm sút. Đóng góp của “kinh tế nhà nước” cho GDP, theo thống kê, bao gồm cả đóng góp của nhà nước trong các lĩnh vực quản lý nhà nước, an ninh quốc phòng (đóng góp 3,28% năm 1998 và 2,77% năm 2008); giáo dục đào tạo (3,66% năm 1998 và 2,61% năm 2008); y tế cứu trợ, văn hóa thể thao, đảng và đoàn thể (2,11% năm 1998 và 1,8% năm 2008) tổng cộng là 9,05% năm 1998 và 7,18% năm 2008. Với nguồn lực to lớn của đất nước mà các tập đoàn sử dụng(vốn đầu tư, vốn kinh doanh, tài sản cố định), thành tích đóng góp cho GDP và tạo công ăn việc làm từ các tập đoàn này là vẫn còn hạn chế. Cải tổ triệt để các tập đoàn, tổng công ty nhà nước phải là một trong những nhiệm vụ hàng đầu của công cuộc tái cơ cấu nền kinh tế. 2.3.5 Công ăn việc làm Theo quan điểm của giáo sư Nguyễn Quang A, nguồn tạo ra công ăn việc làm cho người lao động Việt Nam là những công ty tư nhân chứ không phải là nhờ vào khu vực kinh tế Nhà nước. Thành tích tạo công ăn việc làm là một chỉ số quan trọng. Theo báo cáo đã nhắc tới của CIEM, tổng số lao động làm việc tại các doanh nghiệp năm 2006 là 6722,2 nghìn người, tăng 3184,7 nghìn người so với năm 2000. Trong đó, số lao động làm việc trong doanh nghiệp nhà nước đã giảm mất 181,5 ngàn người; trong doanh nghiệp tư nhân tăng thêm 2329 ngàn người và trong các doanh nghiệp FDI tăng thêm 1037,7 ngàn người. Như vậy, doanh nghiệp nhà nước trong 7 năm qua không tạo thêm công ăn việc làm mới cho người lao động; mà ngược lại, đã mất đi hơn 181 nghìn chỗ làm việc. Như vậy, số lao động làm việc trong doanh nghiệp tư nhân trong nước đã tăng hơn 3 lần trong những năm 2000-2006, từ hơn 1 triệu lên hơn 3 triệu người. Tương tự, số lao động làm việc trong các doanh nghiệp FDI đã tăng hơn 3 lần, từ hơn 407 ngàn người năm 2000 đã tăng lên hơn 1,4 triệu người năm 2006. Số lao động làm việc trong các doanh nghiệp nhà nước chỉ còn chiếm 28% tổng số lao động trong doanh nghiệp; giảm hơn một nửa (59,1%) so với năm 2000. Trong khi đó, tỷ trọng lao động của doanh nghiệp tư nhân trong nước và doanh nghiệp FDI đã tăng lên tương ứng từ 29,4 và 11,5% năm 2000 lên 50,1 và 21,5% vào năm 2006. Có thể thấy thành tích về tạo công ăn việc làm của các doanh nghiệp nhà nước rất tồi và hoàn toàn không tương xứng với những nguồn lực to lớn mà nó sử dụng. Nếu so với tổng số lao động của cả nước, 43,35 triệu lao động, thì số lao động trong các doanh nghiệp nhà nước chỉ chiếm dưới 4,4% trong năm 2006 (nếu tính số lao động của toàn bộ khu vực nhà nước thì tỷ lệ trên tổng số lao động là gần 9%). Tuyệt đại bộ phận người lao động (trên 95,6%) gồm nông dân, những người lao động tự do và những người lao động trong các doanh nghiệp tư nhân và FDI sử dụng khoảng ½ tổng đầu tư của xã hội còn chưa đến 4,4% lao động trong khu vực kinh tế nhà nước lại sử dụng gần ½ tổng đầu tư xã hội. 2.3.6 Trình độ khoa học Kỹ thuật: Nhìn chung hiện nay trình độ khoa học công nghệ nước ta so với các nước láng giềng chúng ta còn kém xa, chúng ta chậm 10 năm so với Trung Quốc, chậm từ 20-30 năm so với Đài Loan ở thời điểm bắt đầu công nghiệp hóa. Các thành phần Kinh tế nhà nước cũng đang hướng sự phát triển vào những ngành, lĩnh vực có trình độ khoa học kỹ thuật công nghệ hiện đại như: tin học, sinh học, vật liệu mới, tự động hoá. 2.3.7 Nông lâm ngư nghiệp Trong khu vực này vai trò của khu vực kinh tế nhà nước và FDI là không đáng kể. Năm 2009, doanh thu các tổng công ty nhà nước thuộc Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn đạt 79.361 tỉ đồng, lợi nhuận trước thuế 5.360 tỉ đồng nhưng tập trung chủ yếu vào Tập đoàn Công nghiệp cao su Việt Nam và hai tổng công ty lương thực, còn lại các tổng công ty khác lãi thấp hoặc thua lỗ. Một số đơn vị có lãi nhưng chủ yếu do thu cổ tức, lãi chia liên doanh từ phần vốn nhà nước đầu tư tại các công ty con, công ty liên kết nộp về. Đặc biệt, có một số tổng công ty chưa khắc phục được lỗ lũy kế như Tổng công ty Dâu tằm tơ (lỗ 61 tỉ đồng), Tổng công ty Muối (lỗ 15 tỉ đồng), lỗ nặng như Tổng công ty Cà phê Việt Nam tới 420 tỉ đồng. 2.3.8 Thương mại nội địa Tổng mức bán lẻ hàng hoá và doanh thu dịch vụ tiêu dùng theo giá thực tế năm 2007 ước đạt 726,1 nghìn tỷ đồng, tăng 23,3% so với năm 2006, trong đó kinh tế cá thể chiếm 56,2% và tăng 25,9%; kinh tế tư nhân chiếm 28,8% và tăng 30,3%; khu vực kinh tế Nhà nước chiếm 10,9%, giảm 1,3% so với năm 2006. Trong mức tăng của tổng mức bán lẻ hàng hoá và doanh thu dịch vụ tiêu dùng năm 2009, khu vực kinh tế cá thể tăng 20,3%; kinh tế tư nhân tăng 22,9%; kinh tế Nhà nước tăng 1,4%; kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài tăng 9,5%; kinh tế tập thể tăng 18,8%. Xét theo ngành kinh doanh thì kinh doanh thương nghiệp tăng 18,6%; khách sạn, nhà hàng tăng 18,4%; dịch vụ tăng 20,3%; du lịch tăng 1,9%. Có thể nói vai trò của khu vực kinh tế nhà nước trong thương mại nội địa không lớn và theo xu hướng tái cơ cấu rất đáng khích lệ này vai trò của khu vực kinh tế nhà nước trong thương mại nội địa sẽ trở nên không đáng kể trong tương lai. 2.4 Đánh giá chung tình hình phát triển kinh tế xã hội của Việt Nam và khu vực Trung tâm thông tin và dự báo kinh tế-xã hội quốc gia, Bộ Kế hoạch đầu tư, 4-2008: khu vực kinh tế nhà nước là khu vực đi đầu trong việc gây ra mất cân đối nghiêm trọng. Rõ ràng hàng công nghiệp nhẹ chủ yếu do các doanh nghiệp tư nhân và FDI xuất khẩu, hàng tiểu thủ công nghiệp do khu vực tư nhân trong nước làm ra. Các mặt hàng nông sản, thủy sản và lâm sản chủ yếu do khu vực tư nhân trong nước xuất khẩu. Các khoản này chiếm khoảng 2/3 xuất khẩu. Nói cách khác phần xuất khẩu của khu vực tư nhân trong nước hẳn là đáng kể. Về nhập khẩu: chủ yếu là tư liệu sản xuất (luôn hơn 92%) trong đó nhiên liệu chỉ do các doanh nghiệp nhà nước nhập khẩu, nguyên vật liệu và máy móc cả 3 khu vực đều nhập (song FDI luôn xuất siêu, nên không ảnh hưởng gì) và rất có thể khu vực tư nhân trong nước nếu không xuất siêu thì tỷ lệ nhập siêu cũng không thể lớn. Nói cách khác khu vực kinh tế nhà nước là tác nhân gây nhập siêu chính (dầu, than, ..) một phần hàng Công nghiệp nhẹ là do các doanh nghiệp nhà nước xuất; trừ các thứ này hầu như mọi thứ nhập khẩu của các tập đoàn đều phục vụ cho sản xuất các hàng hóa thay thế nhập khẩu; tỷ lệ nhập khẩu hàng tiêu dùng chỉ ở mức 6-8% minh chứng cho chính sách thay thế hàng nhập khẩu vẫn rất thịnh hành . Bên cạnh những doanh nghiệp hoạt động kinh doanh không hiệu quả, nhiều doanh nghiệp nhà nước kinh doanh có hiệu quả và những doanh nghiệp nhà nước hoạt động trong lĩnh vực công ích đang góp phần thể hiện rõ vai trò chủ đạo củ

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docbith7843olu7853n.doc
Tài liệu liên quan