Tiểu luận Vai trò của nhà nước đối với hệ thống tài chính

PHỤ LỤC

A. MỞ ĐẦU 1

B. NỘI DUNG 3

I. Hệ thống tài chính 3

II. Vai trò của nhà nước đối với hệ thống tài chính 3

1.Vai trò của Nhà nước đối với thị trường tài chính 3

a. Khái niệm và bản chất của thị trường tài chính 3

b. Phân loại thị trường tài chính: 5

c. Vai trò của nhà nước trên thị trường tài chính 6

2. Vai trò của nhà nước đối với các trung gian tài chính. 13

a, Khái niệm trung gian tài chính 13

b, Vai trò của nhà nước đối với các trung gian tài chính. 13

3. C ơ sở hạ tầng pháp lý, kỹ thuật 18

4. Vai trò của các tổ chức có nhiệm vụ giám sát và điều hành hệ thống tài chính ở Việt Nam: 24

a, Vai trò của hệ thống giám sát tài chính ở Việt Nam. 24

b, Những thách thức, khó khăn, bất cập đối với việc giám sát tài chính quốc gia của Việt Nam hiện nay. 26

c, Những bất cập của hệ thống giám sát tài chính hiện tại 29

d, Một số giải pháp cơ bản: 31

 

 

doc34 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 6926 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tiểu luận Vai trò của nhà nước đối với hệ thống tài chính, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
h phủ đã ra quyết định thành lập Uỷ ban Giám sát tài chính quốc gia. Uỷ ban này có chức năng giám sát chung thị trường tài chính và tham mưu, tư vấn cho Thủ tướng trong điều phối hoạt động giám sát thị trường tài chính. Như vậy, TTTC là một trong những phần quan trọnghệ thống tài chính. Sự tạo lập và phát triển TTTC đóng một vai trò không thể thay thế trong sự nghiệp phát triển kinh tế của các nước có nền kinh tế thị trường. Một thị trường tài chính hoạt động có hiệu quả sẽ tận dụng được ở mức cao nhất mọi nguồn vốn tiềm tang trong nước và từ nước ngoài để phát triển kinh tế và cải thiện đời sống của nhân dân. Vai trò của nhà nước đối với TTTC vô cùng quan trọng, nhưng không thể ép buộc hoàn toàn nền kinh tế dưới sự chỉ huy của Nhà nước mà vẫn phải để cho thị trường tự điều tiết, để thị trường tài chính phát triển một cách hoàn thiện nhất trong xu hướng của nền kinh tế thị trường hiện nay. 2. Vai trò của nhà nước đối với các trung gian tài chính. a, Khái niệm trung gian tài chính Trung gian tài chính là các tổ chức tài chính chuyên nghiệp cung ứng các dịch vụ tài chính bằng cách huy động các nguồn vốn tạm thời nhàn rỗi dưới nhiều hình thức khác nhau rồi dùng các nguồn vốn này để đầu tư (chủ yếu là cho vay) nhằm mang lại lợi ích cho các bên giao dịch. Các trung gian tài chính gồm các ngân hàng thương mại, các tổ chức tín dụng, công ty bảo hiểm, công ty tài chính, quỹ hưu trí, các quỹ đầu tư…Mỗi loại hình trung gian tài chính đều có phân khúc thị trường riêng. Các ngân hàng thương mại huy động vốn thông qua việc huy động tiền gửi mà chủ yếu là tiền tiết kiệm để cho vay. Công ty tài chính huy động vốn chủ yếu qua hình thức phát hành trái phiếu để cho vay dưới hình thức thuê mua, cho vay tiêu dùng. Các công ty bảo hiểm huy động vốn chủ yếu qua việc thu bảo hiểm phí từ bán các sản phẩm bảo hiểm và chịu trách nhiêm khi có rủi ro xảy ra theo hợp đồng bảo hiểm. Quỹ hưu trí huy động vốn từ việc đóng góp một phần thu nhập hàng tháng của người lao động để chi trả khi người lao động mất hoặc hết khả năng lao động. Nguồn tài chính nhàn rỗi của quỹ này cũng sử dụng để đầu tư nhưng chỉ trong những lĩnh vực đầu tư an toàn. b, Vai trò của nhà nước đối với các trung gian tài chính. Can thiệp vào các lĩnh vực hoạt động của ngân hàng để kiểm soát rủi ro qua các quy định giới hạn lĩnh vực công việc. Với xu thế phát triển cao của thị trường, ranh giới giữa các trung gian tài chính và các thị trường ngày càng mờ nhạt. Chẳng hạn, các công ty bảo hiểm cũng có thể cho vay, các quỹ đầu tư cũng cũng có thể tài trợ vốn cho dự án, các công ty bảo hiểm cũng có thể bán các sản phẩm hưu trí tự nguyện. Điều tai hại ở chỗ trung gian tài chính lao vào cuộc đầu tư tài chính với vai trò là một nhà đầu tư để kiếm lợi nhuận từ sự chênh lệch. Luồng vốn không được đổ vào kinh doanh mà vào việc mua bán trên thị trường vốn. Để thực hiện chức năng can thiệp vào các lĩnh vực hoạt động của Ngân hàng để kiểm soát rủi ro qua các quy định giới hạn lĩnh vực công việc, Ngân hàng Nhà nước đã đưa ra những quyết định đối với hoạt động đầu tư của Ngân hàng thương mại và các tổ chức tín dụng. Ví dụ: Theo Luật tổ chức tín dụng năm 2010, các hoạt động huy động vốn của các tổ chức phi ngân hàng trong lĩnh vực chứng khoán, dịch vụ đầu tư tài chính sẽ phải chấm dứt từ đầu năm 2011. Năm 2011 Ngân hàng Nhà nước vừa đưa ra dự thảo lần thứ 2 của thông tư hướng dẫn điều kiện, hồ sơ, trình tự và thủ tục góp vốn, mua cổ phần của tổ chức tín dụng. Dự thảo lần này quy định kỹ lưỡng và có phần chặt chẽ hơn về điều kiện để các Ngân hàng góp vốn mua cổ phần dưới dạng công ty liên doanh, liên kết hoặc dưới dạng doanh mục đầu tư. Việc kiểm soát và hạn chế các ngân hàng thương mại thành lập công ty con, công ty liên kết là cần thiết để tránh tình trạng thông qua các công ty liên kết lách luật cho vay nội bộ lẫn nhau. Điều này cũng giúp cho hệ thống ngân hàng tránh được tình trạng rủi ro khi đẩy mạnh đầu tư vào lĩnh vực kinh doanh khác. Kiểm soát chặt chẽ tỷ lệ lãi suất Nhìn vào nền kinh tế Việt Nam năm 2008, lãi suất cơ bản được tăng lên 12%/năm (tháng 5/2008) và 14%/năm(tháng 6/2008) lúc này các nhà đầu tư và cộng đồng doanh nghiệp ở Việt Nam thực sự cảm thấy sức nóng từ các cỗ máy kinh doanh đang cạn kiệt dầu bôi trơn tín dụng. Các trung gian tài chính nhảy vào cuộc với vai trò của nhà đầu tư, trong khi các tập đoàn công bố báo cáo tài chính thì hầu hết các ngành nghề tài chính đều thua lỗ trong khi phần thuchủ yếu từ đầu tư tài chính. Trong khi đó, các Tổng công ty tập đoàn có vốn nhà nước thường xuyên “kêu” thiếu vốn đầu tư cho các dự án thì vẫn thành lập ra hàng loạt các công ty tài chính để nhằm mục đích đầu tư tài chính. Trung gian tài chính ở nước ta phát triển quá nóng về số lượng ngân hàng thương mại, công ty chứng khoán. Sự phát triển quá nhanh của các công ty chứng khoán trong một thời gian ngắn khiến cho khối này đang bộc lộ nhiều bất cập. Một số công ty chứng khoán không đảm bảo hiệu quả hoạt động, gây rủi ro tiềm ẩn. Năng lực về nghiệp vụ, nhân sự và tài chính của các công ty chứng khoán còn hạn chế, đặc biệt là năng lực về tài chính. Trong 10 năm qua, hệ thống ngân hàng đang bộc lộ một số khó khăn, thách thức như, chất lượng tài sản suy giảm; rủi ro thanh khoản gia tăng; năng lực vốn tự có còn thấp; khả năng quản trị rủi ro và quản trị doanh nghiệp chưa đáp ứng thông lệ quốc tế và tương xứng với tốc độ phát triển về quy mô....Nhận thấy những bất cập từ sự phát triển quá nóng này, bộ tài chính đã phải có những biện pháp để điều tiết lại thị trường. Ngày 17/03/2008, Bộ Tài chính ban hành một nghị quyết mà theo đó các Ngân hàng thương mại buộc phải mua 20.300 tỷ đồng tín phiếu bắt buộc. Chính điều này đã một lúc “ép” các ngân hàng thiếu vốn khả dụng, buộc họ phải tìm mọi cách thu hút lượng tiền gửi từ dân cư. Hành động của Bộ Tài chính có tác dụng thắt chặt tiền tệ, kiểm soát lạm phát. Việc ban hành quyết định phát hành tín phiếu đã hút khỏi thị trường một lượng vốn khồng lồ. Hành động này Nhà nước kỳ vọng sẽ kiểm soát được tình trạng phát triển quá nóng của thị trường tài chính. Song kịch bản thị trường đã có nhiều điểm thăng trầm! Do hành động quá mạnh tay, nhiều ngân hàng rơi vào tình trạng thiếu hụt nguồn vốn khả dụng nghiêm trọng. Và khi đó diễn ra cuộc cạnh tranh khốc liệt trên thị trường vốn giữa các Ngân hàng. Các Ngân hàng liên tục hút người gửi tiền bằng hình thức chạy đua lãi suất huy động. Có nhiều ngân hàng thương mại thậm chí đã đẩy mức lãi suất huy động lên tới hơn 20%/năm. Điều này ngay lập tức tác động lớn đến tâm lý của công chúng đầu tư. Một lượng vốn lớn bị rút khỏi thị trường chứng khoán: Thị trường chứng khoán bị down liên tục, phá vỡ tất cả các ngưỡng hỗ trợ mặc cho Bộ Tài chính liên tục có những sự động viên. Các công ty chứng khoán, quỹ đầu tư rơi vào tình trạng heo hắt khi mà giao dịch cực thấp, lượng nhà đầu tư đóng băng tài khoản rất lớn. Sự ngừng hoạt động (giải thể) hoặc rút bớt nghiệp vụ của các công ty chứng khoán là một tất yếu được dự báo trước. Một hệ quả tất yếu nữa là các doanh nghiệp càng ngày càng gặp khó khăn qua các phương án tăng vốn bằng hình thức phát hành cổ phiếu. Mà việc tiếp cận với nguồn vốn ngân hàng thì rất khó khăn bởi lãi suất giải ngân rất lớn. Nhiều doanh nghiệp xuất nhập khẩu đã bị mất những đơn hàng quan trọng. Nhiều doanh nghiệp sản xuất kinh doanh bị đình đốn. Vào thời điểm gần nửa cuối năm 2008, thị trường tài chính Việt Nam gặp khủng hoảng. Các doanh nghiệp Việt Nam bị co cụm thu hẹp sản xuất. Nhiều doanh nghiệp ngành may mặc, chế biến sa thải công nhân ồ ạt. Lượng người bị mất việc ở các khu công nghiệp cộng thêm số lao động bị mất việc ở nước ngoài trở về nước đã trở thành “gánh nặng” lớn đối với nền kinh tế đất nước. Bước sang năm 2009, nền kinh tế thế giới chính thức rơi vào khủng hoảng với sự bắt đầu ở Mỹ khi thị trường nhà đất Mỹ bị đóng băng và sự phá sản của hàng loạt Ngân hàng lớn. Cơn bão khủng hoảng lập tức lan nhanh ra khắp thế giới. Ở Việt Nam, cuộc khủng hoảng này kéo theo suy thoái kinh tế. Mục tiêu phát triển kinh tế cả năm khó có khả năng hoàn thành, vì thế Chính phủ đã chấp nhận mức điều chỉnh tỷ lệ tăng trưởng kinh tế hạ xuống dưới 6% so với mục tiêu tăng trưởng được đặt ra đầu năm là 8.5%. Tất cả Chính phủ các quốc gia đều rất nỗ lực trong công cuộc cứu vãn, đối phó với cơn bão khủng hoảng. Chính sách được hầu hết các quốc gia đưa ra mà đi dầu là Mỹ và EU là các gói hố trợ kinh tế khổng lồ. Ở các nước này, chính phủ chủ trương bơm thêm tiền vào thị trường tài chính thông qua hệ thống Ngân hàng: Cho các doanh nghiệp vay ưu đãi sản xuất, hỗ trợ cho vay xuất nhập khẩu, cho vay tiêu dùng. Ở Việt Nam, chính phủ công bố gói hỗ trợ lãi suất đối với các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh là hơn 1 tỷ USD được giải ngân thông qua hệ thống Ngân hàng. Mức hố trợ lên tới 4%/ năm Sự can thiệp của chính phủ phần nào có tác dụng tốt tới thị trường tài chính. Các ngân hàng bớt sự khó khăn trong vấn đề huy động vốn. Các doanh nghiệp vui mừng sẽ được tiếp cận được luồng vốn rẻ. Tuy nhiên, thực tế diễn ra không phải lúc nào cũng như mong đợi của Chính phủ. Các doanh nghiệp vốn vừa và nhỏ gặp nhiều khó khăn trong việc tiếp cận nguồn vốn hỗ trợ này bởi những điều kiện chặt chẽ do Ngân hàng đề ra. Còn các doanh nghiệp tập đoàn lớn thì nhu cầu về vốn không quá bức thiết. Việc nguồn vốn hỗ trợ chưa thực sự đến “tận tay” những đối tượng cần vốn phần nhiều đã giảm tác dụng của gói kích cầu do chính phủ đề ra. Tháng 6 năm 2009, Việt Nam tuyên bố thoát khỏi khủng hoảng kinh tế nhưng nhiều chuyên gia còn khá thận trọng khi đề cập đến vấn đề này. Việc giải ngân vốn rất dễ gây ra hiện tượng lạm phát cho Việt Nam trong tương lai gần. Sự kiềm chế lạm phát của chính phủ trong những tháng vừa qua sẽ là vô nghĩa nếu như để hiện tượng lạm phát quay trở lại. Trong các buổi hội thảo, tọa đàm, Chính phủ luôn đề cao vai trò của các trung gian tài chính, trong đó chủ chốt là ngành Ngân hàng trong việc điều tiết lượng cung cầu vốn trên thị trường. Vai trò của các trung gian tài chính rất to lớn đối với sự phát triển của nền kinh tế. Nó đảm bảo được sự thanh khoản trong nền kinh tế cũng như có tác động tốt tới việc cung ứng vốn, điều tiết vốn. Tin rằng trong thời gian tới, thị trường tài chính sẽ có sự phát triển mạnh mẽ hơn, góp phần thúc đẩy sự phát triển đi lên của nền kinh tế. Từ các việc phân tích các ví dụ trên ta có thể thấy được tác động của Chính Phủ vào hệ thống tài chính nói chung và trung gian tài chính nói riêng là không thể thiếu được. Những chính sách sẽ làm giảm bớt sự phát triển quá nóng của thị trường, và sẽ giúp cho nền kinh tế thoát khỏi những khó khăn, vượt qua khủng hoảng và định hướng phát triển cho nền kinh tế. Tuy nhiên trong thực tế thì những chính sách này vẫn tồn tại một số bất cập do sự nhúng tay quá sâu của Nhà nước vào nền kinh tế. Sự điều chỉnh là cần thiết nhưng hãy tôn trọng vai trò tự điều chỉnh của kinh tế thị trường. 3. C ơ sở hạ tầng pháp lý, kỹ thuật Là khuôn khổ các luật lệ và hệ thống các thông tin làm nền tảng để các bên (người có vốn, người cần vốn) lập kế hoạch và thực hiện các giao dịch tài chính. Cơ sở hạ tầng cung cấp các chuẩn mực kế toán, một hệ thống pháp luật đảm bảo cho việc thực hiện các hợp đồng và bảo về quyền sở hữu tài sản, các quy định về phá sản, các quy định về giao dịch… cơ sở hạ tầng vững chắc mới giúp cho hệ thống tài chính phát triển mạnh và bền vững. Cơ sở hạ tầng tài chính bao gồm: Hệ thống pháp luật và quản lý nhà nước; Nguồn lực và cơ chế giám sát, thực thi; Cung cấp thông tin; Hệ thống thanh toán và hỗ trợ giao dịch chứng khoán. Vai trò của Nhà nước trong việc xây dựng hệ thống cơ sở hạ tầng pháp lý kỹ thuật Hệ thống pháp luật và quản lý nhà nước: Hệ thống pháp luật là công cụ có từ sớm nhất và chung nhất để quản lý nhà nước ở mọi quốc gia. Tính đến thời điểm hiện tại, với bối cảnh và điều kiện thực tiễn ở Việt Nam thì hệ thống pháp luật được đánh giá là tương đối đầy đủ để HTTC hoạt động. Ở Việt Nam, các luật để giúp nhà nước quản lý hệ thống tài chính gồm: Luật Ngân sách Nhà nước; Luật Ngân hàng Nhà nước, Luật các tổ chức tín dụng, Luật bảo hiểm, Luật chứng khoán. Luật Ngân sách Nhà nước số 01/2002/QH 11, ngày 16/12/2002 được ban hành nhằm quản lý thống nhất nền tài chính quốc gia, nâng cao tính chủ động và trách nhiệm của các cơ quan, tổ chức, cá nhân trong việc quản lý và sử dụng ngân sách nhà nước, củng cổ kỹ thuật tài chính, sử dụng tiết kiệm, có hiệu quả ngân sách và tài sản nhà nước. Ngân sách nhà nước Việt Nam với các công cụ thuế và chi tiêu có thể điều tiết sự phát triển của hệ thống tài chính trong những trường hợp cụ thể nhất định. Chẳng hạn, để đối phó với tình trạng giảm phát và suy giảm kinh tế, ngày 16/01/09 thường trực chính phủ đã thông qua phương án sử dụng kích cầu từ 17000 tỷ đồng, trong đó hỗ trợ lãi suất cho vay là 14% ( thời hạn tối đa là 12 tháng) đối với 1 số đối tượng thông qua các Ngân hàng thương mại. Với động thái này, các doanh nghiệp sẽ giảm bớt được khó khăn, tiếp cận được nguồn vốn ngân hàng với chi phí hợp lý, tạo động lực cho hệ thống ngân hàng, các tổ chức tín dụng mở rộng hoạt động huy động vốn và cung ứng vốn cho kinh tế. Luật Ngân hàng nhà nước số 06/1997/QHX ngày 12/12/1997; Luật sửa đổi bổ sung số 10/2003/QH11 ngày 17/06/03. Luật này được ban hành nhằm xây dựng và thực thi có hiệu quả chính sách tiền tệ quốc gia; tăng cường quản lý nhà nước và hoạt động ngân hàng; góp phần thúc đẩy nền kinh tế phát triển. Chính sách tiền tệ quốc gia là một bộ phận của chính sách kinh tế - tài chính của Nhà nước nhằm ổn định giá trị đồng tiền, kiềm chế lạm phát, góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh và nâng cao đời sống của nhân dân. Ở Việt Nam, sau khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế toàn cầu (2008-2009), tăng trưởng GDP của Việt Nam đã được đẩy nhanh trong năm 2010 (6,8%) nhờ sự hồi phục của xuất khẩu và những điều tiết phù hợp về chính sách. Tuy nhiên, lạm phát năm 2010 của Việt Nam cũng đã tăng cao lên mức hai con số (11,8%) vào cuối năm 2010 và tiền đồng Việt Nam (VND) bị trượt giá. Những tháng đầu năm 2011 chỉ số giá tiêu dùng CPI của Việt Nam cũng đã tăng khá cao đe dọa mục tiêu kiềm chế lạm phát trong năm dưới mức hai con số. Chỉ số tiêu dùng CPI trong hai năm 2010 & 2011. Diễn biến nêu trên đã ảnh hưởng tiêu cực tới niềm tin của người dân, thị trường và các nhà đầu tư. Để khắc phục những hạn chế, yếu kém về kinh tế vĩ mô, tháng 2/2011 Chính phủ Việt Nam đã có Nghị quyết 11 tập trung “ưu tiêm kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, đảm bảo an sinh xã hội” với 6 gói các biện pháp chính sách, bao gồm: “Thắt chặt chính sách tiền tệ; thắt chặt chính sách tài chính; kìm hãm thâm hụt thương mại; tăng giá điện đồng thời với việc hỗ trợ người nghèo và sử dụng một cơ chế mang tính thị trường hơn đối với việc định giá xăng dầu; tăng cường an sinh xã hội; nâng cao hiệu quả việc phổ biến thông tin chính sách”. Việc thực hiện Nghị quyết 11 sẽ làm chậm lại tốc độ tăng trưởng kinh tế của Việt Nam trong năm 2011 (dự kiến xuống ở mức 6,1%). Tuy nhiên, triển vọng phát triển của nền kinh tế Việt Nam trong trung hạn vẫn rất tốt nếu điều kiện kinh tế vĩ mô được duy trì ổn định. Việt Nam vẫn sẽ là một điểm đến hấp dẫn đối với các nhà đầu tư nước ngoài. Luật các tổ chức tín dụng sửa đổi bổ sung số 20/2004/QH11 ngày 15/06/04 có hiệu lực từ ngày 01/10/04. Luật này quy định: Thống nhất quản lý mọi hoạt động của Ngân hàng, xây dựng hệ thống các tổ chức tín dụng hiện đại, đủ sức đáp ứng nhu cầu vốn và dịch vụ ngân hàng cho nền kinh tế và dân cư, góp phần thực hiện chính sách tiền tệ quốc gia, bảo đảm an toàn hệ thống các tổ chức tín dụng, bảo vệ lợi ích hợp pháp của người gửi tiền; đầu tư vốn và các nguồn lực khác để phát triển các tổ chức tín dụng nhà nước, tạo điều kiện cho các tổ chức này giữ vai trò chủ đạo và chủ lực trên thị trường tiền tệ; Nhà nước thành lập các ngân hàng chính sách hoạt động không vì mục đích lợi nhuận để phục vụ người nghèo và các đối tượng chính sách khác; phục vụ miền núi, hải đảo, vùng sâu, vùng xa, vùng có điều kiện kinh tế - xã hội khó khăn; phục vụ nông nghiệp, nông thôn và nông dân nhằm thực hiện các chính sách kinh tế - xã hội của Nhà nước. Chính phủ quy định chính sách tín dụng ưu đãi về vốn, lãi suất, điều kiện, thời hạn vay vốn. Luật kinh doanh bảo hiểm số 24/2000/QH10 ngày 09/12/2000. Luật này ra đời nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các tổ chức, các nhân tham gia bảo hiểm; đẩy mạnh hoạt động kinh doanh bảo hiểm; góp phần thúc đẩy và duy trì sự phát triển bền vững của nền kinh tế xã hội, ổn định đời sống nhân dân; tăng cường hiệu lực quản lý nhà nước đối với hoạt động kinh doanh bảo hiểm. Luật chứng khoán số 70/2006/QH11 ngày 29/06/06. Luật này quy định về hoạt động chào bán chứng khoán ra công chúng, niêm yết, giao dịch, kinh doanh, đầu tư chứng khoán, dịch vụ về chứng khoán và thị trường chứng khoán. Luật chứng khoán xác định rõ 5 nguyên tắc hoạc động chứng khoán và thị trường chứng khoán đó là: Tôn trọng quyền tự do mua, bán, kinh doanh và dịch vụ chứng khoán của tổ chức, cá nhân; công bằng, công khai, minh bạch; bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của nhà đầu tư; tự chịu trách nhiệm về rủi ro; tuân thủ quy định của pháp luật. Tuy nhiên vấn đề quản lý chưa thực sự đồng bộ và đồng nhất. Một số tổ chức có quy mô hoạt động tín dụng rất lớn nhưng không chịu sự chi phối của luật các tổ chức tín dụng và chịu dự giám sát của Ngân hàng Nhà nước như Quỹ hỗ trợ phát triển và các quỹ đầu tư phát triển địa phương. Tổng tài sản của Quỹ hỗ trợ phát triển có thể lớn hơn tổng tài sản của Ngân hàng thương mại lớn nhất Việt Nam là Ngân hàng Nhà nước và phát triển nông thôn. Nguồn lực và hệ thống giám sát: Nguồn lực và cơ chế giám sát thực thi có ảnh hưởng quyết định đến hiệu quả của hệ thống pháp luật. Hệ thống pháp luật dù có đầy đủ và hoàn thiện nhưng hiểu không đúng, thực hiện không tốt, giám sát không hiệu quả sẽ làm hệ thống tài chính phát triển không bền vững. Nguồn lực và hệ thống giám sát chưa đáp ứng nhu cầu cho Hệ thống tài chính hoạt động lành mạnh, phát triển bền vững và hội nhập quốc tế. Nguồn nhân lực cho hệ thống tài chính ở Việt Nam trong thời gian gần đây đã được chú trọng cả về số lượng và chất lượng nhưng vẫn chưa đáp ứng được nhu cầu về nguồn nhân lực có chất lượng cao. Hệ thống pháp luật đôi khi chưa bắt kịp với sự phát triển của thị trường cũng như còn có sự chồng chéo nhất định đã gây khó khăn cho vấn đề giám sát, kiểm tra. Chẳng hạn, Kiểm toán độc lập ở Việt Nam hiện nay: Với nghị định 105/2004/NĐ-CP ngày 30/3/2004 và Nghị định 133/2005/NĐ-CP ngày 31/10/2005 sửa đổi bổ sung một số điều của Nghị định 105 đã tạo cơ sở pháp lý căn bản cho hoạt động kiểm toán độc lập ở nước ta. Tuy nhiên, kiểm toán độc lập là hoạt động dịch vụ có tính pháp lý cao, góp phần quan trọng làm lành mạnh hóa môi trường đầu tư ở Việt Nam và công khai, minh bạch nền tài chính quốc gia, với tốc độ phát triển cao và trong xu thế hội nhập, Nghị định của Chính phủ về kiểm toán độc lập đã bộc lộ các hạn chế hoặc còn thiếu so với thông lệ quốc tế và đòi hỏi của thị trường Việt Nam nên cần sửa đổi, bổ sung và nâng lên thành luật cho phù hợp với xu hướng phát triển kinh tế ở nước ta trong thời gian tới. Cung cấp thông tin: Hiện nay các Ngân hàng nói riêng và các tổ chức tài chính nói chung đang từng bước áp dụng các chuẩn mực kế toán quốc tế. Các quy định về kiểm toán vẫn chưa thực sự đầy đủ và tuân thủ một cách nghiêm ngặt. Hiện vẫn chưa có hệ thống lưu trữ thông tin tín dụng và tổ chức xếp loại tín dụng đủ độ tin cậy. Hệ thống thanh toán và hỗ trợ giao dịch chứng khoán: Là một nghiệp vụ thanh toán không dùng tiền mặt do các ngân hàng trung gian cung cấp để phục vụ cho các dịch vụ chứng khoán trên thị trường chứng khoán. Hệ thống này thường do một ngân hàng đứng ra đảm nhận (ở Việt Nam là Ngân hàng Đầu tư và phát triển) với mục tiêu tạo ra thuận lợi trong việc đối chiếu, kiểm soát khi thanh toán và giảm thời gian thanh toán cho các giao dịch. Trước năm 2000, hầu hết các tổ chức tài chính ở Việt Nam sử dụng hệ thống thanh toán phân tán. Nhưng từ năm 2000 đến nay, các tổ chức tài chính, nhất là các Ngân hàng thương mại đã sử dụng hệ thống thanh toán tập trung. Từ năm 2002, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam đã triển khai hệ thống thanh toán liên ngân hàng. Đây là một bước tiến trong việc áp dụng công nghệ thanh toán của hệ thống tài chính Việt Nam. 4. Vai trò của các tổ chức có nhiệm vụ giám sát và điều hành hệ thống tài chính ở Việt Nam: a, Vai trò của hệ thống giám sát tài chính ở Việt Nam. Sơ đồ: Mô hình giám sát tài chính hiện nay của Việt Nam Ủy ban giám sát tài chính quốc gia: Đây là cơ quan quan trọng nhất của việc giám sát hệ thống tài chính. Ủy ban giám sát sẽ làm theo chế độ thủ tướng, chịu sự chỉ đạo của nhà nước, nhà nước có vai trò đẩy mạnh chức năng giám sát, tăng quyền hạn cho ủy ban giám sát trong quá trình xây dựng chính sách cũng như chiến lược phát triển, tăng vai trò của nhiệm vụ ủy ban. Vai trò tác động của nhà nước sẽ giúp ủy ban phân tích dự báo, cảnh báo mức độ thong tin thị trường, định hướng phát triển rõ ràng hơn, chính xác hơn. Ngân hàng trung ương( Ngân hàng nhà nước): là cơ quan trực thuộc chính phủ thực hiện chức năng quản lý nhà nước về tiền tệ ngân hàng và quản lý ngân hàng. Mọi hoạt động của ngân hàng như lãi suất, biến động tỷ giá phải được cho phép của thủ tướng. Ngày nay nhà nước tác động mạnh đến chức năng của ngân hàng trung ương đó là trao them quyền và tăng tính chủ động cho ngân hàng trung ương nhằm nâng cao hiệu quả thực hiện chính sách tiền tệ, đảm bảo an toàn cho hoạt động ngân hàng. Bộ tài chính: là cơ quan của chính phủ, thực hiện chức năng về tài chính của chính phủ bao gồm: Ngân sách nhà nước, thuế, phí , đầu tư tài chính, tài chính doanh nghiệp, hải quan, kế toán…thực hiện đại diện chủ sở hữu phần vốn của nhà nước theo quy định của pháp luật. Vừa qua chính phủ đã có những quy định như giao quyền tự chủ về tài chính và sử dụng các công cụ quản lý nhà nước, qua kiểm toán, qua công cụ thuế…nhưng luôn luôn phải gắn với tăng cường cơ chế tự chủ, cơ chế giám sát. Nhà nước cũng có những chính sách thuế phù hợp để bình ổn giá, sử dụng nguồn dự trữ tài chính để ổn định kinh tế, hạn chế suy giảm kinh tế trước khủng hoảng kinh tế toàn cầu. Ủy ban chứng khoán nhà nước: là tổ chức thuộc bộ nhà nước thực hiện chức năng quản lý nhà nước về chứng khoán và thị trường chứng khoán. Trong nền kinh tế thị trường hiện nay trước sự biến động của khủng hoảng kinh tế toàn cẩu nhà nước đã tăng cường đẩy mạnh công tác quản lý, giám sát với tổ chức trung gian của ủy ban chứng khoán nhà nước nhằm góp phần giữ vững, ổn định thị trường chứng khoán, tăng cường hợp tác quốc tế chứng khoán và thị trường chứng khoán, tổ chức nghiên cứu khoa học về chứng khoán và thị trường chứng khoán cho ủy ban chứng khoán, đẩy mạnh hoạt động thống kê dự báo về chứng khoán và thị trường chứng khoán. Trung gian tài chính đặc biệt: bao gồm ngân hàng chính sách xã hội và ngân hàng phát triển. Nhà nước ta đã nâng cao vai trò và chức năng của hai hệ thống ngân hàng trên. Nhà nước giúp quá trình huy động vốn của ngân hàng, tăng cường các biện pháp, các công cụ cho vay vốn với các đối tượng làm trung gian tài chính đặc biệt được phát huy. Trước đây ngân hàng chính sách xã hội huy động vốn khó, và phải được sự dồng ý của bộ tài chính. Nhưng hiên nay bộ kế hoạch và đầu tư thong báo đã giao toàn bộ kế hoạch cho ngân hàng chính sách xã hội, năm 2006 vốn của ngân hàng chính sách xã hội là 5 nghìn tỷ, nhà nước tạo điều kiện cho ngân hàng chính sách xã hội có thể đi vay vốn nước ngoài hoặc nguồn vốn ODA với lãi suất ưu đãi để hoạt động của ngân hàng được dễ dàng. Với ngân hàng phát triển thủ tướng đã ban hành quy chế quản lý tài chính đối với ngân hàng phát triển Việt Nam, theo đó hoạt động của ngân hàng không vì mục đích lợi nhuận, tỷ lệ dự trữ bắt buộc bằng 0, không tham gia bảo hiểm tiền gửi, ngân sách nhà nước cấp bù chênh lẹch lãi suất và chi phí quản lý đối với hoạt động tín dụng, đầu tư phát triển và tín dụng phát triển của nhà nước. Việc huy động vốn theo điều số 43 nghị định 151/2006/NĐ-CP ngày 20/12/2006 với lãi suất thị trường chỉ cho vay theo nguyên tắc chỉ huy động khi đã sử dụng tối đa nguồn vốn không lãi suất hoặc lãi suất rất thấp, được chính phủ đảm bảo khả năng thanh toán, miễn nộp thuế và các khoản nộp ngân sách nhà nước với hoạt động tín dụng đầu tư phát triển xuất khẩu. Các tổ chức tài chính quốc tế: như quỹ tiền tệ IMF, ngân hàng thế giới WB, ngân hàng phát triển châu á ADB, nhà nước tạo điều kiện để triển khai các dịch vụ tài chính do các tổ chức tài chính cung cấp, tìm mọi khả năng để đạt được yêu cầu theo nguyên tắc quy định để nhận được sự ưu đãi trong các dịch vụ tài chính. Về mặt số lượng và các hình thức có thể thấy rằng các tổ chức giám sát và điều hành có mặt tại khắp các ngõ ngách trong tổng thể nền kinh tế Việt Nam. b, Những thách thức, khó khăn, bất cập đối với việc giám sát tài chính quốc gia của Việt Nam hiện nay. Đối với Việt Nam, mặc dù cũng có thể coi là đã vượt qua thời điểm khó khăn nhất do tác động của khủng hoảng

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docVai trò của nhà nước đối với hệ thống tài chính là gì.doc
Tài liệu liên quan