Tiểu luận Vai trò của thanh niên – sinh viên trong sự nghiệp Công nghiệp hoá - Hiện đại hoá đất nước,

MỤC LỤC

LỜI MỞ ĐẦU 1

NỘI DUNG 2

1. Công nghiệp hoá - Hiện đại hoá là gì ? 2

2. Mục tiêu và quan điểm chỉ đạo. 3

3. Nội dung của công nghiệp hoá, hiện đại hoá. 5

4. Tiền đề thực hiện thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá

xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam. 6

5. Nguồn nhân lực. 8

KẾT LUẬN 11

TÀI LIỆU THAM KHẢO 12

 

doc13 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 5232 | Lượt tải: 3download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tiểu luận Vai trò của thanh niên – sinh viên trong sự nghiệp Công nghiệp hoá - Hiện đại hoá đất nước,, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Lời mở đầu Hiện nay, trên thế giới, các cuộc cách mạng khoa học và công nghệ vẫn tiếp tục phát triển nhanh chóng với trình độ ngày càng cao, thúc đẩy quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế thế giới, quốc tế hoá nền kinh tế và đời sống xã hội. Nền kinh tế Việt Nam – với xuất phát điểm thấy kém nền công nghiệp, lạc hậu, để có được tốc độ tăng trưởng cao hơn, cần có một lực đẩy mạnh mẽ hơn nữa – lực đẩy đó chỉ có thể có được nhờ đẩy mạnh công cuộc Công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, tạo ta một sự chuyển đổi căn bản trong cơ cấu kinh tế theo hướng hiện đại. Nhận thức được điều đó, tại hội nghị đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ của Đảng vào tháng 1/1994 đã đề ra những nhiệm vụ chủ yếu, trong đó. Thúc đẩy sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng Công nghiệp hoá, hiện đại hoá được coi là nhiệm vụ quan trọng hàng đầu, là một đòi hỏi khách quan của sự phát triển kinh tế – xã hội ở nước ta trong giai đoạn hiện nay – giai đoạn quá độ lên Chủ nghĩa xã hội. Công nghiệp hóa, hiện đại hoá là một cuộc cải biến cách mạng từ xã hội Công nghiệp trở thành xã hội công nghiệp, đồng thời đó cũng là cuộc cải biến cách mạng trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội. Vì vậy để triển khai thuận lợi và thực hiện thành công sự nghiệp này đòi hỏi phải có những tiền đề cần thiết, và một trong những tiền đề cần thiết nhất, chính là nguồn nhân lực khẳng định vai trò quan trọng cảu nguồn nhân lực, tại đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII đã nêu : “ Sự nghiệp phát triển kinh tế đặt con người vào vị trí trung tâm, thống nhất tăng trưởng kinh tế với công bằng và tiến bộ xã hội”. Tuy nhiên trong nguồn nhân lực ấy thì thanh niên – sinh viên lại giữ một vị trí quan trọng và có tính quyết định đối với sự phát triển nói chung và đối với sự nghiệp Công nghiệp hoá - Hiên đại hoá đất nước nói riêng. Bởi họ là những chủ nhân tương lại của đất nước nói riêng, họ là đội ngũ tri thức trẻ có khả năng tiếp thu nhanh nhạy nhất, những tiến bộ của thời đại, sự phát triển như vũ bão của khoa học công nghệ. Nội dung Để hiểu được vai trò của thanh niên – sinh viên trong sự nghiệp Công nghiệp hoá - Hiện đại hoá đất nước, ta cần phải để cập đến một số khía cạnh sau: 1. Công nghiệp hoá - Hiện đại hoá là gì ? Công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở nước ta là quá trình chuyển đổi căn bản, toàn diện các hoạt động sinh viên kinh doanh, dịch vụ và quản lý kinh tế, xã hội từ sử dụng sức lao động thủ công là chính sang sử dụng một cách phổ biến sức lao động với công nghệ, phương tiện và phương pháp tiến hành, hiện đại, tạo ra năng suất lao động – xã hội cao. Thực chất, công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở nước ta là quá trình tạo ra những tiến đề về vật chất, kỹ thuật, về con người, công nghệ, phương tiện, phương pháp – những yếu tố cơ bản của lực sản xuất (Lực lượng sảng xuất) cho Chủ nghĩa xã hội. Nội dung cốt lõi của công nghiệp hoá, hiện đại hoá là cải tiến lao động thủ công, lạc hậu, thành lao động sử dụng kỹ thuật tiên tiến, hiện đại để đạt tới năng suất nghĩa xã hội là một tất yếu khách quan và được thực hiện thông qua công nghiệp háo, hiện đại hoá. Bởi cơ sở vật chất kỹ thuật là điều kiện trọng yếu nhất, quyết định nhất có liên quan tới sự phát triển về chất đối với lực lượng sản xuất và năng suất lao động xã hội, đối với việc đáp ứng nhu cầu ngày càng tăng mọi thành viên trong xã hội và đối với sự thắng lợi cuối cùng của chủ nghĩa xã hội. Trong khi tiến hành công nghiệp hoá, hiện đại hoá cần có những bước đi, cách làm và phương pháp thích hợp như : Công nghiệp hoá phải gắn liền với hiện đại hoá, công nghiệp hoá cần theo cơ chế mới, cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước ; Công nghiệp hoá hiện đại hoá là sự nghiệp của toàn dân, với sự tham gia tích cực của các thành phần kinh tế ; Công nghiệp hoá, hiện đại hoá theo xu thế quốc tế hoá và hội nhập kinh tế thế giới. Nhờ có cách làm, phương pháp và bước đi thích hợp mà nền kinh tế nước ta đã giành được những thành tựu đáng kể và đang tạo ra những tiền đề đưa đất nước chuyển dần sang một thời kỳ phát triển mới. Điều đó đã được khẳng định rất rỏ trong “ văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII” Khi tổng kết mười năm đổi mới. Trong tác phẩm : “ Đẩy mạnh sự nghiệp đổi mới CNXH” Tổng bí thư Đỗ Mười cũng có nhận định rằng : Công nghiệp hoá, hiện đại hoá phải tạo ra những điều kiện cần thiết về vật chất, kỹ thuật, về con người và khoa học công nghệ, thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế, nhằm huy động và sử dụng có hiệu quả mọi nguồn lực, không ngừng tăng năng xuất lao động – xã hội, làm cho nền kinh tế tăng trưởng nhanh và bền vững, nâng cao đời sống vật chất và văn hoá của nhân dân, thực hiện công bằng và tiến bộ xã hội bảo vệ và cải thiện môi trường sinh thái”. Như vậy chúng ta không nên hiểu Công nghiệp hoá chỉ đơn thuần là tăng tốc độ và tỷ trọng của sản xuất công nghiệp trong nền kinh tế mà là quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế gắn với hiệu quả cao của toàn bộ nền kinh tế quốc dân. Trong khi cuộc cách mạng khoa học và công nghệ phát triển như vũ bão chúng ta phải gắn công nghiệp hoá với hiệnđại hoá. Một mặt áp dụng những bước tiến tuần tự về công nghệ. Mặt khác tranh thủ những cơ hội đi tắt, đón đầu hình thành những mũi nhọn phát triển theo trình độ tiên tiến của khoa học – công nghệ thế giới. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá là phương tiện chứ không phải là mục đích. Nó là nhiệm vụ của chiến lược kinh tế tổng quát nhằm khai thác tối ưu lợi thế của các ngành, các lĩnh vực, các vùng cụ thể nhằm thúc đẩy tằng trưởng kinh tế. Do đó Đảng ta đã đề ra những mục tiêu và quan điểm chỉ đạo sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá của đất nước. 2. Mục tiêu và quan điểm chỉ đạo. Xuất phát từ thực trạng kinh tế của nước ta, hội nghị đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ (khoá VII) của Đảng quyết định : “Từ nay đến cuốc thập kỷ phải rất quan tâm đến công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp và kỹ thuật nông thôn, phát triển toàn diện Nông – Lâm – Ngư nghiệp gắn với công nghiệp chế biến nông – lâm – thuỷ sản, công nghiệp sản xuất hàng tiêu dùng và hàng xuất khẩu. Mở rộng thương nghiệp, du lịch, dịch vụ...Xây dựng có chon lọc một số cơ sở công nghiệp nặng trong những ngành trọng yếu mà nhu cầu đòi hỏi bức bách và có điều kiện về vốn, công nghệ, thị trường để phát huy tác dụng nhanh và có hiệu quả cao...” Đến Đại hội VIII, mục tiêu đó đã được đề cập đến cụ thể hơn, rõ ràng hơn. Có mục tiêu dài hạn trung hạn và ngắn hạn. Trong đó mục tiêu dài hạn của công nghiệp hoá, hiện đại hoá có nội dung là xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội dựa trên một nền khoa học và công nghệ tiên tiến tạo ra lục lượng sản xuất mới với quan hệ sản xuất ngày càng tiến bộ phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, cải thiện đời sống vật tinh thần của nhân dân, củng cố an ninh quốc phòng, nâng cao hiệu quả hợp tác, phát triển với bên ngoài. Thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng văn minh. Trong quá trình tiến hành công nghiệp hoá, hiện đại hoá cần phải thấu suốt các quan điểm chỉ đạo mà Đại hội VIII đã đề ra : Một là, giữ vững độc lập tự chủ đi đôi với mở rộng hợp tác quốc tế, đa phương hóa, đa dạng hoá quan hệ với nước ngoài. Dựa vào nguồn lực trong nước là chính, xây dựng nền kinh tế mở, hội nhập với khu vực và quốc tế, hướng mạnh về xuất khẩu, đồng thời thay thế nhập khẩu bằng những sản phẩm trong nước sản xuất có hiệu quả. Hai là, công nghiệp hoá, hiện đại háo là sự nghiệp của toàn dân của mọi thành phần kinh tế, trong đó kinh tế nhà nước là chủ đạo, được vân hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước. Ba là, lấy việc phát huy nguồn lực con người làm yếu tố cơ bản cho sự phát triển nhanh và bền vững. Bốn là, khoa học công nghệ là động lực của công nghiệp hoá, hiện đại hoá kết hợp công nghệ truyền thống với công nghệ hiện đại, tranh thủ đi nhanh vào hiện đại ở những khâu quyết định. Năm là, lấy hiệu quả Kinh tế – Xã hội làm tiêu chuẩn cơ bản để xác định phương án phát triển, lựa chọn dự án đầu tư vào công nghệ. Sáu là, kết hợp kinh tế với quốc phòng an ninh. Bên cạnh việc đề ra những mục tiêu và quan điểm chỉ đạo, Đảng ta còn đưa ra những nội dung cơ bản và nội dung cụ thể của sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở nước ta, thể hiện trong văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII”. 3. Nội dung của công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Trước hết Đảng ta đã đưa ra nội dung cơ bản của công nghiệp hoá, hiện đại hoá đó là : Phát triển mạnh mẽ lực lượng sản xuất bằng việc cơ khí hoá nền sản xuất xã hội trên cơ sở áp dụng những thành tựu cảu cách mạng khoa học công nghệ. Cốt lõi của công nghiệp hoá, hiện đại hoá là cải biến lao động thủ công lạc hậu thành lao động sử dụng kỹ thuật tiên tiến hiện đại để đạt năng xuất lao động xã hội cao. Quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá là quá trình chuyển đổi cơ cấu kinh tế theo hướng hiện đại, hợp lý và hiệu quả hơn. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế từ lạc hậu, què quặt, ít hiệu quả sang một cơ cấu ngày càng phù hợp với su hướng phát triển của nền sản xuất hiện đại, do sự tác động của cách mạng khoa học va công nghệ. Củng cố và tăng cường địa vụ chủ đạo của quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa, tiến tới xác lập địa vị thống trị của quan hệ sản xuất – xã hội chủ nghĩa trong toàn bộ nền kinh tế quốc dân. Cùng với nội dung cơ bản, Đảng ta cũng đã đề ra nội dung cụ thể và bước đi trước mắt trong những năm tới, đó là : Đặc biệt coi trọng công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp và nông thông ngành chế biến lương thực thực phẩm, sản xuất hàng tiêu dùng, hàng xuất khẩu công nghệ điện tử và công nghệ thông tin. Cải tạo, mở rộng, nâng cấp và xây dựng mới có trọng điểm kết cấu hạ tầng vật chất ở những khâu đang cản trở sự phát triển. Phát triển nhanh du lịch, các dịch vụ hàng không, kiểm toán, bảo hiểm, công nghệ pháp lý, thông tin...và các dịch vụ phục vụ cuộc sống của nhân dân. Từng bước đưa đất nước ta trở thành một trung tâm du lịch, thương mại – dịch vụ có tầm cỡ trong khu vực. Phát triển hợp lý các vùng lãnh thổ C. Mở rộng và nâng cao hiệu quả kinh tế đối ngoại. Đẩy mạnh xuất khẩu, coi xuất khẩu là hướng ưu tiên và là trọng điểm của kinh tế đối ngoại. Thiết lập từng bước Quan hệ sản xuất – Xã hội chủ nghĩa từ thấp đến cao với sự đa dạng về hình thức sở hữu. Thực hiện nhiều hình thức phân phối, lấy phân phối theo kết quả lao động và hiệu quả kinh tế là chủ yếu. Việc xây dụng quan hệ sản xuất mới phải phù hợp với sự phát triển của lực lượng sản xuất. Tóm lại, nội dung công nghiệp hoá, hiện đại hoá phải được thực hiện theo quy hoạch thống nhất nhằm bảo đảm được cả nhu cầu trước mắt và mục tiêu lâu dài, kết hợp được cả điểm và diện, kinh tế và quốc phòng, công nghiệp, nông nghiệp và dịch vụ. Công nghiệp hoá, hiện đại hoá là một cuộc cải biến cách mạng từ xã hội nông nghiệp trở thành xã hội chủ nghĩa. Đó cũng là cuộc cải biến cách mạng trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội. Vì vậy để triển khai thuận lợi và thực hiện thành công sự nghiệp này đòi hỏi phải có những tiền đề cần thiết. 4. Tiền đề thực hiện thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam. Xuất phát từ thực trạng kinh tế – xã hội ở nước ta, để đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đật nước đòi hỏi phải không ngừng xây dựng và phát triển những tiền đề sau : Trước hết, để thực hiện được công nghiệp hoá, hiện đại hoá cần huy động được vốn và sử dụng vốn có hiệu quả cao ở cả trong và ngoài nước. Trong đó nguồn vốn trong nước là quyết định, nguồn vốn ngoài nước là quan trọng. ở nước ta hiện nay, để tăng năng suát lao động xã hội, tạo nên nguồn vốn cho tích luỹ, trước hết và chủ yếu là phải khai thác và sử dụng tốt quỹ lao động, tập trung sức phát triển Nhà nước, công nghiệp hàng tiêu dùng và sản xuất hàng xuất khẩu. Đồng thời cũng phải tận dụng mọi khả năng để thu hút tối đa các nguồn vốn bên ngoài. Tuy nhiên, không nên kỳ vọng quá lớn vào nguồn bên ngoài, ỷ lại, trông chờ vào đó, trong khi lại không tận lực khai thác nguồn vốn sẵn có bên trong. Tiếp theo là cần phải có một nguồn nhân lực dồi dào về số lượng và chất lượng. Sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hoá đòi hỏi một nguồn nhân lực rất lớn để sử dụng vào quản lý cơ sở vật chất kỹ thuật, một nguồn nhân lực có trình độ, kỹ năng và thói quen lao động, muốn có được nguồn nhân lực ấy chúng ta phải đào tạo họ bằng cách nâng cao dân trí đào tạo nhân tài, bồi dưỡng lao động. Phải tạo được nguồn lao động cho Khoa học – Xã hội, khoa học tự nhiên và công nhân lành nghề để tương xứng với sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Chính vì thế phải đặt giáo dục là quốc sách hàng đầu. Bên cạnh đó cũng cần phải có tiềm lực về khoa học và công nghệ : đó là động lực công nghiệp hoá, hiện đại háo, có vai trò quyết định lợi thế cạnh tranh và tốc độ phát triển kinh tế nói chung, công nghiệp hoá, hiện đại hoá nói riêng của các quốc gia. Suy đến cùng tiềm lực khoa học và công nghệ là tiềm lực trí tuệ và sáng tạo của cả dân tộc (đó là một công việc hết sức khó khăn và lâu dài). Hơn nữa, quan hệ kinh tế đối ngoại cũng là một tiền đề rất quan trọng để thực hiện công nghiệp hoá, hiệnđại hoá ở đất nước ta. Quan hệ kinh tế đối ngoại càng rộng rãi và có hiệu quả bao nhiêu thì sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước càng thuận lợi và rộng nhanh chóng bấy nhiêu. Thực chất của việc mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại là việc thu hút nhiều nguồn vốn bên ngoài, là việc tiêp thu nhiều kỹ thuật là công nghệ hiện đại, là việc mở rộng thị trường cho sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá được thuân lợi. Tiền đề cuối cùng, đó là sự lãnh đạo của Đảng và quản lý của Nhà nước. Đây là tiền đề quyết định thắng lợi của sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở nước ta. Dĩ nhiên, đó phải do một Đảng Cộng Sản tiên phong lãnh đạo, một Đảng dày dạn kinh nghiệm chiến đấu, tự đổi mới không ngừng và một Nhà nước của dân, do dân và vì dân, trong sạch, vững mạnh và có hiệu lực quản lý thì công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước – nhiệm vụ trung tâm của thời kỳ quyết định tiến lên Chủ nghĩa xã hội mới có thể hoàn thành được. Nhìn chung, công nghiệp hoá, hiện đại hoá giữ vị trí vô cùng quan trọng trong chiến lược phát triển kinh tế xã hội của Nhà nước ta, nó là nhiệm vụ trọng tâm, là sợi chỉ đỏ xuyên suốt trong thời kỳ quyết định tiến lên chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản ở nước ta. Có lẽ do nhận thức được tầm quan trọng của chúng mà tại Đại hội lần thứ VIII, Đảng ta đã coi : Công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước là giải pháp quyết định đưa đất nước ta sớm ra khỏi nghèo nàn lạc hậu, khắc phục nguy cơ tụt hậu xa hơn về kinh tế, tiến kịp các nước trong khu vực và trên thế giới, cải thiện đời sống nhân dân tăng cường tiềm lực quốc phòng an ninh, củng cố vững chắc chủ quyền dân tộc . Qua đây ta có thể thấy những tiền đề, cơ sở hay xuất phát điểm giữ một vai trò rất quan trọng, có thể nói nó có một ý nghĩa quyết định đốivới sự thắng lợi của công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Trong những tiền đề ấy thì nguồn nhân lực đã đóng góp một phần đáng kể vào sự thành công đó, đặc biệt là thế hệ trẻ – những thanh niên sinh viên đang ra sức đóng góp phần nhỏ bé của mình vào công cuộc xây dựng đất nước. 5. Nguồn nhân lực. Nếu hiểu theo nghĩa rộng thì đó là nguồn lực về con người với tư cách là nguồn cung cấp sức lao động cho xã hội, nó bao gồm toàn bộ dân cư có cơ thể bình thường. Còn nếu hiểu theo nghĩa hẹp thì đó là nhóm dân cư trong độ tuổi lao động, có khả năng lao động. Vậy nguồn nhân lực nói lên khả năng lao động của xã hội khi nghiên cứu nguồn nhân lực phải nghiên cứu cả số lượng và chất lượng. Mặt số lượng có tầm quan trọng đối với nền kinh tế nông nghiệp chưa công nghiệp hoá. Nhưng khi tiến hành công nghiệp hoá thì có thể mặt chất lượng, cơ cấu và cơ chế sử dụng nguồn nhân lực lại có tầm quan trọng hơn. Nếu một quốc gia không có đội ngũ các nhà kỹ thuật, công nhân hiện đại, nguy cơ quốc gia đó trở thành bãi thải công nghiệp là có thể hiểu được. Chất lượng của nguồn nhân lực là do chính hệ thống giáo dục và chăm sóc sức khoẻ qui định. Phải có chính sách ưu tiên lựa chọn, đào tạo và sử dụng các nhân tài – những tinh hoa của dân tộc trên mọi lĩnh vực, đặc biệt là trong lĩnh vực kinh tế và công nghệ. Như vậy, chất lượng nguồn nhân lực đóng vai trò hết sức quan trọng trong việc tạo ra của cải vật chất và tinh thần cho xã hội, đặc biệt trong thời đại hiện nay khi khoa học công nghệ và nền kinh tế tri thức phát triển thì chất lượng lao động là rất quan trọng. Đất nước ta đang trong thời kỳ xây dựng Chủ nghĩa xã hội, hiện đaị hoá đòi hỏi phải có những con người mới và tạo nên những con người mới đó. Muốn nâng cao sản xuất công nghiệp và nông nghiệp mà chỉ có các phương tiện công nghệ thì chưa đủ mà còn cần phải phát triển một cách tương xứng năng lực của con người sử dụng những phương tiện đó nữa. Nguồn nhân lực đáp ứng nhu cầu công nghiệp hoá, hiện đại hoá phải là những người có đức, có tài, ham học hỏi, thông minh, sáng tạo, làm việc quên mình vì nền độc lập và sự phồn vinh của Tổ quốc, được tổ chức về kiến thức văn hoá, được đào tạo thành thạo về kỹ năng nghề nghiệp về năng lực sản xuất kinh doanh, về điều kiện vĩ mô nền kinh tế và toàn xã hội, có trình độ khoa học kỹ thuật phát triển vươn lên ngang tầm thế giới. Nguồn nhân lực ấy có thể là ai khác ngoài thế hệ trẻ, thế hệ tương lai của đất nước – những thanh niên, sinh viên – do đó thanh niên, sinh viên giữ một vị trí vô cùng quan trọng trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá, sự nghiệp phát triển kinh tế, xã hội cuả đất nước. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng nói : “Muốn có Chủ nghĩa xã hội phải có con người xã hội chủ nghĩa”. Vậy để có con người xã hội chủ nghĩa chúng ta phải làm gì? Chúng ta phải đào tạo nên những con người vừa có đức, vừa có tài, vừa hồng lại vừa chuyên do Đảng ta đã đưa ra mục tiêu của giáo dục trong 20 năm tới là : Nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực và bồi dưỡng nhân tài. Đảng ta đã đề ra mục tiêu bồi dưỡng nhân tài bởi lẽ đó là động lực của sự phát triển và có tác dụng thúc đẩy sản xuất kinh doanh quản lý, là động lực tạo nên các thế mạnh trong hợp tác và cạnh tranh quốc tế. Bên cạnh việc giáo dục tri thức cho thanh niên, sinh viên cần có những biện pháp tích cực nhằm giáo dục tư tưởng chính trị cho nguồn nhân lực trẻ, tạo cho họ có quan điểm, thái độ và cách nhìn đúng đắn với lịch sử dân tộc, với chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, đối với Chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Hiện nay Đảng ta đang lãnh đạo đổi mới xây dụng đất nước trong bối cảnh quốc tế và trong khu vực hết sức phức tạp, đòi hỏi mỗi thanh niên, sinh viên không chỉ có kiến thức mới trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội đặc biệt là kinh tế, mà còn phải có đạo dức cách mạng vững vàng để không chỉ thích nghi mà còn làm chủ kinh tế thị trường giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa, đưa đất nước tiến lên. Hồ Chí Minh trong khi luôn coi trọng tài năng Người nhấn mạnh : Đạo đức là gốc của cạch mạng, Người nói : “ Cũng như sông có nguồn mới có nước, không có nguồn thì sông cạn. Cây phải có gốc, đạo đức, nếu không có đạo đức thì dù có tài giỏi đến mấy cũng không lãnh đạo được nhận dân”. Đạo đức, đó không phải như từ trên trời rơi xuống mà nó do đấu tranh hàng ngày, vì thế phải rèn luyện như “ngọc càng mài càng sáng, vàng càng luyện càng trong”. Kết luận Thanh niên – sinh viên là một lực lượng được Đảng và Nhà nước hết sức quan tâm, họ được đào tạo, được giáo dục một cách ký lưỡng trên tất cả các mặt, có thể nói họ đã, đang và sẽ là những nhân tài của đất nước . Tuy nhiên. chỉ có tài thôi thì chưa đủ, mà xã hội còn yêu cầu họ phải là những con người có đạo đức, có nhân cách. Bởi như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng nói : “ Có tài mà không có đức là người vô dụng, có đức mà không có tài làm việc gì cũng khó”. Nhận thức được điều đó tự bản thân mỗi thanh niên – sinh viên phải không ngừng học hỏi, tiếp nhận tri thức mới đồng thời tự rèn luyện bản thân để trở thành những con người xã hội chủ nghĩa để đóng góp một phần nhỏ bé của mình vào sự triển chung, vào sự phồn vinh của đất nước./. Tài liệu tham khảo 1. Công nghiệp hoá - Hiện đại hoá và sự phát triển giai cấp công nhân (NXB Chính trị Quốc gia - PGS. Cao Văn Lượng) 2. Tạp chí nghiên cứu kinh tế, số 254, 7 - 1999 Mục lục

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc50301.doc
Tài liệu liên quan