Tiểu luận Vai trò quản lí của nhà nước trong nền kinh tế thị trường

-Nền kinh tế nước ta hiện nay, các nguồn lực sản chưa được khai thác một cách có hiệu quả , thị trường vừa yếu, vừa vô tổ chức, khi chúng ta chuyển đổi nền KT sang cơ chế thị trưòng có sự quản lí của nhà nước vừa cho phép chúng ta sử dụng có hiệu quả các nguồn lực khan hiếm, vừa khắc phục tinh vô tổ chức và những khuyết tật của cơ chế thị truờng, đảm bảo mang lại công bằng , phát triển kinh tế, phát triển xã hội.

-Đồng thời khi tăng cuờng vai trò quản lí của nhà nướclà tăng cường sự tác động của chính trị XHCN đối với KTTT, nhằm thúc đẩy KTTT phát triển đúng định hướng XHCN. Song song với quá trình này sẽ là tất yếu phải là sự thay đổi chỉnh đốn phương thức lãnh đạo, phưong pháp hoạt động,cải cách hành chính,đổi mới tổ chức của nhà nứoc để đáp ứng đòi hỏi của xã hội. Từ đó sẽ là cả một chu trình phát triển đổi mới liên tục của nhà nước, mang lại hiệu quả lâu dài cho xã hội.

 

doc19 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 8976 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tiểu luận Vai trò quản lí của nhà nước trong nền kinh tế thị trường, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
đề nan giải . Nó khó có thể tránh khỏi những thăng trầm , khủng hoảng kinh tế có tính chu kì và thất nghiệp. Thực tế phát triển kinh tế thị trường trong mấy thập kỉ qua chỉ rõ rằng: Không một nước nào trong một thời gian dài mà giải quyết được căn bệnh kinh niên là lạm phát và việc làm. Điều này thực ra mới được mọi người thừa nhận cách đây 60 năm , từ khi xuất hiện cuộc đaị suy thoái 1929-1933. Còn trước năm 1930 người ta tin rằng : không thể có thất nghiệp lớn và lâu dài xảy ra trong nền KTTT, họ cho rằng KTTT có thể tự điều khiển mà không cần có sự can thiệp của chính phủ. Cuộc đại suy thoái 1929-1933 bắt đầu từ Anh vào năm 1921 và nhanh chóng lan ra tất cả các nước TBCN khác gây nên hậu quả trầm trọng. Đứng trước vấn đề đó các nhà kinh tế lúc này mới thừa nhận nhược điểm của KTTT và thừa nhận rằng nếu không có sự can thiệp của nhà nước thì nền KTTT không thể phát triển bền vững được. +Thứ 2: Do mục đích hoạt động của các doanh nghiệp trong nền KTTT là tối đa hoá lợi nhuận, nên họ thường không quan tâm đến vấn đề tài nguyên môi trường của cả cộng đồng xã hội. Nên nếu chúng ta chỉ nhìn vào những chỉ tiêu kinh tế đạt được, những vấn đề nan giải như việc làm ,lạm phát trong một thời gian ngắn thì hẳn chúng ta sẽ không khỏi ngạc nhiên trước những thành tựu đạt được. Nhưng cái mà chúng ta sẽ nhận được sau đó sẽ là gì? Đó chắc chắn sẽ là sự ô nhiễm môi trường trầm trọng, sức khoẻ con ngưòi đi xuống, tình trạng kinh tế bất ổn…Mà tự bản thân cơ chế thị trường sẽ không thể khắc phục được. +Thứ 3: Cơ chế thị trường gây sự phân phối không công bằng, hầu hết các tài sản của xã hội tập trung trong tay một số người, còn đại đa số nhân dân lao động lại sống khổ cực. Đào sâu hố ngăn cách giàu nghèo, sự phân cực về của cải tác động xấu đến đạo đức và tình người. Sự phân hoá này xảy ra với không chỉ với những người sản xuất trong một nước, mà còn giữa các quốc gia với nhau cũng xuất hiện tình trạng cá lớn nuốt cá bé, sự phụ thuộc của các quốc gia kém phát triển với những quốc gia phát triển hơn. +Thứ 4: Cơ chế thị trường chỉ thể hiện đầy đủ trong cạnh tranh hoàn hảo, hki xuất hiện cạnh tranh không hoàn hảo thì hiệu lực kinh tế của cơ chế thị trường sẽ giảm xuống. Ví dụ khi xuất hiện độc quyền, các nhà độc do không phải cạnh tranh nên có thể giảm sản lượng của họ xuống ,tăng giá để thu được lợi nhuận cao hơn, và đồng thời họ sẽ không có động lực để đổi mới kĩ thuật, chất lượng, mẫu mã sản phẩm nữa. +Thứ 5: trong cơ chế thị trường luôn tồn tại những nghành kinh tế kém sức cạnh tranh.Đó là những nghành liên quan đến các vấn đề công cộng mang lại nhiều lợi ích thiết thực cho cả cộng đồng, nhưng đòi hỏi vốn đầu tư cao mà vốn thu hồi lại chậm hoặc thu hồi không hết được.Do vậy sẽ không có nhiều doanh nghiệp muốn đầu tư dẫn đến sự thiếu hụt của các dịch vụ công cộng. Ngòai ra dưới cơ chế thị trường công bằng xã hội, phúc lơị xã hội cũng khômg được giải quyết thoả đáng. 2.Tất yếu vai trò kinh tế của nhà nước - Chúng ta cần phải nhấn mạnh một điều là : sự lãnh đạo cuả Đảng cộng sản và vai trò quản lí của nhà nước đối với nền KTTT ở nước ta hiện nay là tất yếu vì: +Theo Đại hội lần thứ IX của Đảng cộng sản Việt Nam đã khẳng định chủ trương phát triển nền KTTT định hướng XHCN ở Việt Nam,đây là mô hình tổng quát trong thời kì quá độ đi lên CNXH của nước ta .Chúng ta phải vận dụng những thành tựu mà nhân loại đã đạt được trong nền KTTT, chúng ta thừa nhận những gì mà CNTB đạt được trong KTTT, nhưng KTTT không phải là phát minh của CNTB. Nền kinh tế hàng hoá vận hành theo cơ chế thị trường mang lại cho nhân loại nhiều điều kì diệu, nhưng đồng thời cũng chứa đựng quá nhiều khuyết tật xuất phát từ chế độ tư hữu về sản xuất, và do bản chất của CNTB mang lại như: thúc đẩy sự phân hoá giàu nghèo, khuyến khích lối sống thực dụngvị kỉ, chạy theo đồng tiền làm băng hoại những giá trị đạo đức. Những khuyết tật này đi ngược lại với bản chất của nhà nước XHCN Việt Nam. Có thể nói KTTT như một con dao hai lưỡi trong tiến trình xây dựng XHCN vừa là con đường dẫn giàu có văn minh là bạn đồng hành của CNXH. Nhưng đồng thời nó lại có thể dẫn đến chệch hướng XHCN, tự phát đi theo con đường phát triển TBCN trái với nguyện vọng của đông đảo quần chúng nhân dân Việt Nam. Với mục tiêu tốt đẹp mà Đảng và nhà nước ta đã lựa chọn. Vì vậy việc định hướng phát triển cho nền KTTT ở Việt Nam theo cơ chế thị trường có sự quản lí của nhà nước là một tất yếu khách quan, đáp ứng xu thế của thời cuộc , và phù hợp với qui luật đã được hình thành trong thực tiễn. Và nhiệm vụ này chỉ có thể được thực hiện khi có sự lãnh đạo đúng đắn, phù hợp của nhà nước và Đảng cộng sản bằng: các chính sách, pháp luật, công cụ quản lí vĩ mô(tài chính, kế hoạch, qui hoạch… ) mới có thể hạn chế tính tự phát của CNTB, đảm bảo được tính định hướng XHCN cho sự phát triển kinh tế đất nước, thực hiện được sự kết hợp thông nhất giữa tăng trưởng kinh tế với công bằng-tiến bộ xã hội ngay trong mỗi bước phát triển của nền kinh tế. -Hơn thế nữa Việt Nam là một nứơc ngheò, trình độ xã hội thấp, xuất phát điểm đi lên CNXH thấp, sau chiến tranh là tình trạng đói kém và lạm phát kéo dài , hơn nữa Viêt Nam laị chậm chuyển đổi cơ chế. Cơ chế kế hoạch tập trung bao cấp trong một thời gian tương đối dài , từ khi hoà bình lập lại ở miền Bắc(1954) cho đến tận cuối những năm 80 và đầu những năm 90 của thế kỉ 20, nhân đây cũng phải khẳng định rằng cơ chế kế hoạch hoá tập trung bao cấp đã từng phát huy tác dụng tích cực trong kháng chiến. Tuy nhiên sai lầm của chúng ta là ở chỗ sau khi đất nước thống nhất (1975) trong một thời gian dài chúng ta đã phủ nhận nền KTTT, thực hiên kế hoạch hoá tập trung dẫn đến tình trạng khủng hoảng kinh tế-xã hội những năm sau đó. Đúng như lời V.I Lênin đã nói những ưu điểm của ngày hôm qua kéo dài quá mức sẽ dẫn đến những nhược điểm của ngày hôm nay. Điều này dẫn đến cơ chế quản lí của chúng ta không tránh khỏi sức ỳ rất cao, hệ thống ngân hàng, tín dụng …với tư cách là công cụ quản lí của nhà nước còn mang tác phong kinh tế chưa cao,điều này còn thể hiện cả trong các cán bộ quản lí và người dân khô. Tệ quan liêu, tham nhũng, sách nhiễu các doanh nghiệp … xảy ra nhiều. Chính vì hoàn cảnh đặc biệt này của nền kinht tế Việt Nam đòi hỏi nhà nước ta phải nỗ lực quản lí chặt chẽ nhằm xoá những tồn tại không tốt như trên của cơ chế cũ, có như vậy mới tạo điều kiện cho nền KTTT phát triển được một cách mạnh mẽ ở Việt Nam. Như đã nói nền kinh tế nước ta đang trong thời kì phát triển, KTTT sẽ không thể đảm cho một nền kinh tế phat triển ổn định và và vững chắc , đồng thời cũng không thể duy trì sự bảo hộ hoàn toàn của nhà nước, trong những trường hợp nói trên có thể ví như sự mâu thuẫn, lệch lạc như người ta định “vỗ tay bằng một bàn tay” vậy, và nó sẽ không thể giúp chúng ta cải tạo được cơ cấu kinh tế lạc hậu của mình. Như vậy cần phải có sự can thiệp của nhà nước vào nền kinh tế ở một chừng mực nào đó mới có thể chuyển đổi nền kinh tế từ nông nghiệp lạc hậu sang nền công nghiệp, tăng được mức tích luỹ tư bản, đầu tư và cải tạo cơ cấu đầu tư theo hướng chuyển đổi cơ cấu để thực hiện công nghiệp, hiện đại hoá đất nước. -Ngoài ra trong cơ sở hạ tầng của nước ta hiện nay còn tồn tại nhiều loại hình kinh tế đan xen với nhau, hoà nhập lại với nhau như: kinh tế tự cung tự cấp, kinh tế quản lí tập trung, kinh tế hàng hoá nhỏ. Theo qui luật của lịch sử kinh tế tự nhiên và kinh tế tự cung tự cấp sẽ vươn tới kinh tế hàng hóa mà đỉnh cao sẽ là KTTT. Còn nền kinh tế quản lí tập trung ở nước ta chưa hình thành đầy đủ, chính vì vậy mà nhất thiết phải có sự quản lí của nhà nước trong nền KTTT. -Nền kinh tế nước ta hiện nay, các nguồn lực sản chưa được khai thác một cách có hiệu quả , thị trường vừa yếu, vừa vô tổ chức, khi chúng ta chuyển đổi nền KT sang cơ chế thị trưòng có sự quản lí của nhà nước vừa cho phép chúng ta sử dụng có hiệu quả các nguồn lực khan hiếm, vừa khắc phục tinh vô tổ chức và những khuyết tật của cơ chế thị truờng, đảm bảo mang lại công bằng , phát triển kinh tế, phát triển xã hội. -Đồng thời khi tăng cuờng vai trò quản lí của nhà nướclà tăng cường sự tác động của chính trị XHCN đối với KTTT, nhằm thúc đẩy KTTT phát triển đúng định hướng XHCN. Song song với quá trình này sẽ là tất yếu phải là sự thay đổi chỉnh đốn phương thức lãnh đạo, phưong pháp hoạt động,cải cách hành chính,đổi mới tổ chức của nhà nứoc để đáp ứng đòi hỏi của xã hội. Từ đó sẽ là cả một chu trình phát triển đổi mới liên tục của nhà nước, mang lại hiệu quả lâu dài cho xã hội. 3.Vai trò chức năng quản lí kinh tế của nhà nước a.Vai trò -Như đã phân tích ở trên cơ chế thị trường là cơ chế tốt nhất để điều tiết nền KTTT tuy nhiên nó cũng mang lại hàng loạt vấn đề khó khăn đòi hỏi sự giải quyết của nhà nước. Vì vậy hiện nay không một quốc gia nào dù là chưa công nghiệp hoá hay hay là đã ở thời kì hậu công nghiệp mà không có sự can thiệp của nhà nươc vào nền kinh tế theo nhiều lí do khác nhau (kể cả Mỹ) , tất cả các quốc gia trên thế giới đêù sử dụng nền kinh tế hỗn hợp, đấy là sự kết hợp giữa “bàn tay vô hình” và “bàn tay hữu hình” để nền kinh tế phat tiển ổn định, và tuỳ theo đường lối chính trị mà mỗi nhà nước đã lựa chọn, mà sự can thiệp của nhà nước dừng lại ở những mức độ khác nhau. Đối với nhà nước XHCN Việt Nam sự quản lí của nhà nước nhằm mục tiêu xây dựng dân giàu,nước mạnh, xã hội công bằng văn minh, kết hợp tất cả các ưu thế của kinh tế thị trường để nâng cao phúc lợi xã hội và phân phối công bằng hơn về thu nhập giữa các nhóm xã hội. -Có thể thấy rõ mục tiêu quản lí của nhà nước ta thông qua 4 chức năng sau của nhà nước sau: +Thứ 1: Sự quản lí của nhà nước ta nhằm bảo đảm sự ổn định kinh tế, chính trị, xã hội bằng cách tạo ra một khuôn khổ pháp lí phù hợp, đáp ứng nhu cầu của nền kinh tế, nhằm điều chỉnh hành vi của các chủ thể kinh tế . +Thứ 2: Sự quản lí của nhà nước sẽ định hướng phát triển lâu dài cho nền kinh tế, thực hiện điều tiết nền kinh tế theo đúng các nguyên tắc của thị trường.Xây dựng các chiến lược và qui hoạch phát triển. Đồng thời sử dụng các chính sách tài chính và tiền tệ để ổn định môi trường kinh tếvĩ mô, đưa nền kinh tế tránh khỏi những thăng trầm vốn có của cơ chế thị trường. +Thứ 3: Đảm bảo cho nền kinh tế hoạt động một cách hiệu quả và lâu dài .Vì lợi nhuận trước mắt các doanh nghiệp dễ lạm dụng tài nguyên, gây ô nhiễm môi trường . Vì vậy nhà nước cần phải thực hiện nhiều biện pháp ngăn chặn các hoạt động này . Ngoài ra nhà nước cũng có chức năng chống các hiện tượng độc quyền để nâng cao tính hiệu quả của thị trường. +Thứ 4: Nhà nước thực hiện hạn chế khắc phục những mặt tiêu cực của cơ chế thị trường, đảm bảo công bằng xã hội. Đem lại đời sống ấm no cho toàn thể nhân dân b.Các nội dung quản lí kinh tế của nhà nước ta hiện nay -Trong nền kinh tế thi trừơng định hướng xã hội chủ nghiã ở nước ta hiện nay, việc xác định các nội dung hoạt động của nhà nước nhằm điều tiết nền kinh tế có vai trò hết sức quan trọng, có tính quyết định đến thành công của nhà nước bởi nó sẽ cho thấy mức độ can thiệp của nhà nước vào nền kinh tế . Nhìn chung nội dung quản lí kinh tế nhà nước ta bao gồm: +Quyết định chiến lược phát triển kinh tế xã hội: Nhà nước đề ra các đường lối và chiến lượcphát triển kinh tế cho toàn bộ nền kinh tế. Việc xây dựng này phải trên cơ sở thực trạng của nền kint tế – xã hội đất nước, trên cơ sở mục tiêu đã chọn.Để làm được điều này nhà nước phải thực hiện dân chủ hoá thể chế hoá quyết sách, khoa học khoá, đảm bảo sự đồng thuận của tât cả các thành phần kinh tế. + Kế hoạch: Nhà nước đề ra các kế hoạch nhằm xác định mục tiêu dài hạn, trung hạn và ngắn hạn. Kế hoạch ở đây là là kế hoạch thực hiện mục tiêu của của quyết định chiến lược. +Tổ chức: Là việc nhà nước bố trí cơ cấu hợp lí, xác dịnh rõ chức năng, quyền hạn, trách nhiệm của các tổ chức nhằm đảm bảo thực hiên kế hoạch đã định. +Chỉ huy và phối hợp : Nhà nước đảm bảo sự thống nhất chỉ huy các cấp để đảm bảo sự phối hợp nhịp nhàng của nền sản xuất xã hội. +Khuýên khích và trừng phạt : bằng các đòn bẩy kinh tế và động viên về tinh thần, nhà nước khuýên khích hoạt động theo kế hoạch. Có chế độ thưởng phạt rõ ràng. c.Các công cụ quản lí vĩ mô của nhà nước. Để thực hiện được những chưc năng như trên, nhà nước phải sử dụng các công cụ sau: +Thứ 1: Kế hoạch hoá Nền KTTT có sự quản lí của nhà nước theo định hướng XHCN đòi hỏi phải có sự kết hợp giữa kế hoạch với thi trường. Đây là hai công cụ quản lí không thể tách rời nhau mà là sự vân dụng qui luật phát triển có kế hoạch để điều tiết qui luật giá trị , vận dụng qui luật giá trị nhằm quản lí kinh tế phát triển theo kế koạch. Chúng ta cần phải khẳng định rằng việc chuyển đổi cơ chế kế hoạch hoá tập trung quan liêu bao cấp sang cơ chế thị trường có sự quản lí của nhà nước không có nghĩa là chúng ta sẽ từ bỏ kế hoạch hoá. Mà chẳng qua chỉ là chuyển kế hoạch hoá thuần tuý sang kế hoạch hoá định hướng là chủ yếu, sử dụng các đòn bẩy kinh tế và lực lượng vật chất trong tay nhà nước để đảm bảo tỉ lệ cân đối trong nền kinh tế quốc dân -Kế hoạch hoá của nhà nước ta bao gồm: .Kế hoạch dài hạn: thông qua đó nhà nước thể chế hoá chiến lược phát triển kinh tế – xã hội. .Kế hoạch ngắn hạn: từ kế hoạch dài hạn, nhà nước vạch các chương trình kinh tế có mục tiêu để định hướng đầu tư, điều tiết các hoạt đọng kinh tế và đề ra các chính sách kinh tế thích hợp. +Thứ 2: Pháp luật Nhà nước phải sử dụng pháp luật như một công cụ đắc lực để điều tiết hoạt động của các tổ chức kinh tế thuộc mọi thành phần kinh tế.Việc xây dựng hệ thống pháp luật hoàn chỉnh đối với nước ta là một quá trình lâu dài.Vì thị trường luôn biến động không ngừng, nên hệ thông pháp luật cũng phải nhanh chóng sửa đổi cho phù hợp với tình hình thực tế. Nhìn chung hệ thống pháp luật phải bao trùm mọi mặt của của hoạt động kinh tế- xã hội, trong đó đặc biệt là các lĩnh vực sau: . Phải xác định được các chủ thể pháp lí, tạo cho họ các quyền hạn và hành động thống nhất. . Qui định các quyền về kinh tế . Qui định rõ ràng về các hợp đồng kinh tế , các nguyên tắc cơ bảm của hợp đồng kinh tế dựa trên cơ sở sự thoả thuận. . Về sự đảm bảo của nhà nước với các điều kiện chung của nền kinh tế có các luật bảo hộ lao động , luật môi trường… .Về luật kinh tế đối ngoại phải phù hợp với các thông lệ kinh tế. + Thứ 3: Các công cụ điều tiết kinh tế đối ngọai Để thực hiện tốt chiến lược kinh tế mở, xúc tiến các quan hệ đối ngoại, nhà nước phải sử dụng nhiều công cụ, trong đó chủ yếu là : thuế xuất nhập khẩu hạn ngạch (quota), tỷ giá hối đoái, bảo đảm tín dụng xuất khẩu… Thông qua các công cụ này, nhà nước tiến hành khuyến khích xuất, nhập khẩu , đồng thời lại có thể bảo hộ một cách hợp lí nền sản xuất nội địa, nâng cao sức cạnh tranh của hàng hoá nội, giữ vững độc lập chủ quyền quốc gia,lợi ích dân tộc theo định hướng XHCN. +Thứ 4: Chính sách tài chính và tiền tệ -Hệ thống thuế: với chính sách thuế đúng đắn sẽ tạo nguồn thu cho ngân sách nhà nước. Đồng thời khuyến khích sản xuất , xuất khẩu, điều tiết tiêu dùng, thu hút nhiều vốn đầu tư của nước ngoài. -Ngân sách nhà nước: là hình thức cơ bản để hình thành và sử dụng có kế hoạch quĩ tiền tệ tập trung, nhằm mở rộng sản xuất. Ngân sách nhà nước dùng để khuyến khích sử dụng một cách hợp lí tài nguyên trong tất cả các ngành sản xuất xã hội , phát huy mặt tích cực của ngân sách thị trường. Không chỉ đảm bảo sự phát triển của nền kinh tế mà cả của nền văn hoá -xã hội. các công cụ tiền tệ: tiền tệ đóng vai trò vô cùng quan trọng, việc nhà nước thắt chặt hay nới lỏng cung ứng tiền tệ, kiềm chế lạm phát thông qua hoạt động của ngân hàng sẽ tác động trực tiếp đến tình hình kinh tế . +Thứ 5: Lực lượng kinh tế nhà nước Nhà nước quản lí nền kinh tế còn thông qua lực lượng kinh tế tập thể , tạo điều kiện để cho chúng dần trở thành nền tảng của nền kinh tế, thúc đẩy các thành phần kinh tế khác phát triển theo định hướng XHCN, qua đó nhà nước sẽ có sức mạnh vật chất để thực hiện vai trò quản lí của mình. III. Thực trạng vai trò của nhà nước trong nền kinh tế nước ta 1. Những thành tựu đạt được -Về tổng thể trong hơn 10 năm qua, từ khi Việt Nam bước vào thực hiện mô hình KTTT định hườn XHCN, nên kinh tế nước ta dưới sự quản lí đúng đắn của nhà nước ta đã đạt được nhiều thành tựu đáng mừng, làm thay đổi rõ ràng tình hình đất nước. Kinh tế ra khỏi khủng hoảng hoạt động ngày càng năng động và có hiệu quả, của cải xã hội ngày càng nhiều, hàng háo ngày càng phong phú, đời sống nhân dân ngày càng được cải thiện, tình hình chính trị của đất nước ổn định và có những bước phát triển, mặc dù trên thế giới tình hình kinh tế chính trị có nhiều biến động sâu sắc. Tổng sản phẩm trong nước (GDP) tăng bình quân 7%/năm, nông nghiệp phát triển liên tục đặc biệt về sản xuất lương thực, nuôi trồng và khai thác thuỷ sản. Giá trị sản xuất công nghiệp tăng 13,5%/năm. Hệ thống kết cấu hạ tầng được tăng cường, các ngành dịch vụ, xuất khẩu và nhập khẩu phát triển. Quan hệ kinh tế đối ngoại, hội nhập kinh tế không ngừng được tăng cường, có quan hệ làm ăn với nhiều nước trên thế giới. Chúng ta đã ký kết được nhiều hiệp định song phương và đa phương về kinh tế, chính trị có lợi cho chúng ta, thu hút được một lượng lớn đầu tư nước ngoài, qua đó chúng ta đã học hỏi được nhiều kinh nghiệm quản lý quý báu từ các nước TBCN, giảm bớt sự căng thẳng về vốn trong nền kinh tế, làm cho Việt Nam trở nên hấp dẫn hơn trên trường quốc tế. Chính sự thành công về kinh tế của hơn 10 năm qua cũng đã làm dịu đi phản ứng của một số nhà lý luận kinh tế phương Tây về định hướng XHCN mà Việt Nam đã lựa chọn. Nguyên nhân của sự tăng trưởng và phát triển tương đối cao như trên, xuất phát từ việc quản lí thành công của nhà nước ta về kinh tế, mà cụ thể là việc nhà nước đã tăng cường được vai trò của mình thông qua việc thực hiện nâng cao chất lượng của các công cụ quản lí của mình. Cụ thể như sau: Về pháp luật: Từ khi có dường lối đổi mới của Đảng, hệ thống pháp luật nước ta nhất là hệ thống pháp luật kinh tế đã có những bước phát triển vượt bâc, phát huy vai trò to lớn của mình trong việc nâng cao hiệu lực quản lí của nhà nước. Điều này phản ánh đâỳ đủ thành 15 điều trong chương “chế độ kinh tế ”. So với hiến pháp1980, chương chế độ kinh tế của hién pháp 1992 có 15 điều thì có tới 7 điều mới(là các điều 15,16,19,20,22,24,26 ) còn lại 8 điều đều được sửa đổi. Vào năm 2002 nhà nước ta đã tiến hành sửa đổi hiến pháp 1992, nới rộng hành lang pháp lí cho các thành phần kinh tế tham gia vào hoạt động sản xuất kinh doanh, sửa đổi bổ sung nhiều văn bản luật về kinh tế. Tạo sự an tâm về môi trường kinh doanh của Việt Nam cho các nhà dầu tư. Kế hoạch hoá: sau 15 năm chuyển đổi từ cơ chế kế hoạch hoá tập trung quan liêu bao cấp sang cơ chế thị trường có sự quản lí của nhà nước, có sự thay đổi đáng kể về tính chất và nội dung của kế hoạch hoá, có sự thích ứng ngày càng với cơ chế thị trườnglà công cụ đắc lực của nhà nước trong thực hiện kiểm tra, phân tích,tổng kết tình hình quản lí của nhà nước. Về chính sách tài chính và tiền tệ: trong những năm qua dưới sự lãnh đạo của nhà nước, hệ thống thuế của Việt Nam có nhiều cải thiện đáng kể tạo điều kiện thu hút vốn đầu tư trong và ngòai nước,khuyến khích sản xuất và tiêu dùng, đòng thời đóng góp đáng kể vào ngân sách của nhà nước, từ đó giúp nhà nước có thực lực vật chất để điều chỉnh vĩ mô với toàn bộ đời sống xã hội,kinh tế, an ninh quốc gia, những năm qua nhà nước ta đã giữ được giá của đồng nội tẹ ở mức tương đối ổn định…đảm bảo môi trường kinh doanh thuận lợi cho doanh nghiệp. Về các hoạt động kinh tế đối ngoại: Nhà nước ta chủ trương chính sách đối ngoại cởi mở, bảo đảm được ngày càng tốt môi trường chính trị, xã hội ổn định và điều kiện thuận lơi cho quan hệ giao lưu hợp tác với bên ngoài. 2.Những hạn chế và hứơng giải quyết. Trong quá trình phát triển kinh tế, sự quản lí của nhà nước ta cũng khó tránh khỏi được nhưng sai lầm, hạn chế gây cản trở cho quá trình phát triển của nền KTTT ở nước ta. Nguyên nhân của những hạn chế đó xuất phát từ những tồn tại của các công cụ quản kí mà nhà nứoc sử dụng chưa thật sự hiệu quả. Cụ thể như sau: Về pháp luật: Hệ thống pháp luật kinh tế nứoc ta còn nhiều nhược điểm như: vẫn còn thiếu nhiều văn bản phap luạt quan trọngmà nếu chậm ban hành thì sẽ không đủ cơ sơ pháp lí giải quyết ( cụ thể là: luật bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp, luật canh tranh và chống độc quyền, luật trợ cấp thât nghiệp… ) các văn bản cụ thể hoá, hướng dẫn ban hành còn chậm, nhiêù thủ tục phiền hà không phù hợp với nguyên tắc kinh doanh, mức độ hoà nhập với luật pháp quốc tế chưa cao. Tình trạng này có cả nguyên nhân chủ quan và khách quan, để giải quyết cần đẩy mạnh hơn nữa công tác làm luât ,tăng cường tyuên truyền và phổ biến gíao dục, tăng cường công tác kiểm tra , giám sát , xử lí, đẩy mạnh công tác tư vấn và dịch vụ luật…. Về lực lượng kinh tế: nhà nước ta thực hiện bao cấp quá nhiều đối với các doanh nghiệp nhà nước, làm giảm tính cạnh tranh trên thị truờng giữa các thành phần kinh tế và cả động lực thúc đẩy các doanh nghiệp, còn mang tính phân biệt giữa các thành phần kinh tế trong nhà nươc ta như:kinh tế quốc doanh với thành phần kinh tế ngoài quốc doanh. giữa thành phần kinh tế trong nước và ngoài nước như: mức thuế suất ưu đãi của khu vực kinh tế nước ngoài thuận lợi hơn rất nhiều… Về hoạt động đối ngọai: ở nước ta việc mở rộng kinh tế đối ngoại trong thời gian qua mặc dù mang lại nhiều thành tựu .Nhưng so với các nước trong khu cực và so với tiềm năng của chúng ta thì nhìn chung hoạt động kinh tế đối ngoại của chúng ta còn nhiều yếu kém. Cho đến năm 1990 bình quân đầu người về xuất khẩu mới chỉ 28USD, nhập khẩu chỉ 37USD. Cơ cấu xuất nhập còn nặng về mặt hàng thô và hàng tiêu dùng. Chất lượng hang xuất khẩu kém khả năng cạnh tranh, tốc độ phát triển còn chậm và tổ chức bộ máy còn kém hợp lí. Để đảm bảo cho hoạt động đối ngoại nhà nứoc cần tập trung vào quản lí giải quyết các vấn đề: đảm bảo được ổn định kinh tế, chính trị xã hội. Có hệ thống pháp luật đồng bộ phù hợp với thông lệ và luật pháp quốc tế. Xây dựng kết cấu hạ tầng sản xuất và xã hội , trước hết là giao thông, dịch vụ. Có đội ngũ cán bộ giỏi… IV. Giải pháp nâng cao hiệu quả quản lí của nhà nước 1. Giải pháp Tiếp tục hoàn thiện hệ thống pháp luật về kinh tế Tăng trưởng kinh tế và ổn định xã hội là ước vọng của nhân dân Việt Nam, là mối quan tâm sâu sắc của Đảng và Nhà nước ta. Để tăng trưởng kinh tế và ổn định xã hội thì Nhà nước phải có nhiều yếu tố và giải pháp đồng bộ, phải sử dụng và phát huy tốt các nguồn lực cho sự phát triển, phải cải tạo các điều kiện cơ bản như: Sự ổn định về chính trị – xã hội, sự đầu tư đúng hướng cho khoa học… Để làm được những điều này Nhà nước sử dụng pháp luật như là một công cụ đắc lực, đồng thời cũng sử dụng pháp luật để đảm bảo vai trò của mình. Pháp luật là sự biểu hiện của văn minh và văn hoá xã hội, nó thể chế hoá những quan điểm, đường lối kinh tế thành hệ thống các quy phạm pháp luật, tạo cơ sở pháp lý để xác lập, củng cố và định hướng phát triển. Thực tế cho thấy rằng trong bất cứ chế độ kinh tế nào cũng cần có sự điều tiết của Nhà nước bằng pháp luật để giải quyết những vấn đề mà tự thân cơ chế kinh tế không thể tự giải quyết được. Nhà nước ta dùng pháp luật nhằm đảm bảo ba mục tiêu cơ bản là: Bảo đảm hiệu quả kinh tế; Giảm bớt bất công xã hội; Tạo ra sự ổn định kinh tế - chính trị. Trong thời gian qua, Nhà nước Việt Nam đã ban hành nhiều Bộ luật, luật và các văn bản hướng dẫn thi hành để đáp ứng, nâng cao hiệu quả quản lý của Nhà nước trong điều kiện đổi mới của nền kinh tế. Tuy nhiên đến nay hệ thống pháp luật kinh tế của Việt Nam còn thiếu, chưa đồng bộ, thường xuyên phải sửa đổi, điều chỉnh và bổ sung. Vì vậy, trước mắt Nhà nước phải tiếp tục khẩn trương hoàn thiện hệ thống pháp luật để tăng cường hiệu quả quản lý của Nhà nước đối với nền kinh tế thị trường của Việt Nam. Đồng thời bổ sung, sẳ đổi các luật, pháp lệnh hiện hành để chúng phù hợp với thực tiễn vận động nhanh chóng của nền kinh tế thị trường. Ví dụ Luật cạnh tranh, Luật chứng khoán và thị trường Chứng khoán… Cần cải tiến công tác làm luật, tăng cường vai trò của Quốc hội, các Uỷ ban của Quốc hội và các Đại biểu Quốc hội chuyên trách trong tiến trình xây dựng, đưa ra và phê chuẩn các dự án Luật. Đảm bảo chúng sát với thực tế đòi hỏi của nền kinh tế. b. Đảm bảo phát triển nền kinh tế nhiều thành phần,trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo Phải tiếp tục thực hiện nhất quán chính sách phát triển kinh tế nhiều thành phần như Đại hội lần thứ sáu của Đảng Cộng sản Việt Nam (tháng 12/1986) đã thừa nhận. Coi các thành phần kinh tế kinh doanh theo pháp luật đều là bộ phận cấu thành quan trọng của nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa cùng phát triển lâu dài, hợp tác và cạnh tranh lành mạnh. Không nên có thái độ định kiến và kỳ thị với bất kỳ thành phần kinh tế nào (theo Hiến pháp 1992). Đây là vấn đề cốt lõi đòi hỏi sự quan tâm đúng mức của nhà nước, tránh sai lầm trước đây không thừa nhận thành phần kinh tế tư nhân, mà đi theo mô hình kinh tế của Liên Xô trước đây và các nước Xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu đã khiến chúng

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docVai trò quản lí của nhà nước trong nền kinh tế thị trường.doc
Tài liệu liên quan