Tiểu luận Vấn đề bảo vệ quyền phụ nữ khi ly hôn theo pháp luật Việt Nam

Khi chia tài sản chung của vợ chồng, phải bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của vợ và con chưa thành niên, hoặc con đã thành niên mà bị tàn tật hoặc mất năng lực hành vi dân sự, không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình, đảm bảo cho họ được ổn định cuộc sống(điểm b, khoản 2, Điều 95 Luật HN&GĐ2000). Như vậy, để thực hiện tốt quy định này nhằm bảo vệ quyền của phụ nữ cần phải quán triệt nguyên tắc “dù đã ly hôn, mỗi bên đều có quyền có nhà ở; việc tạo điều kiện về nhu cầu cư trú cho mỗi bên có chỗ ở ổn định cuộc sống, nhất là đối với các con và bất kỳ trong trường hợp nào cũng không được để vợ và các con ra khỏi nhà khi họ thật sự chưa có chỗ ở”.

doc12 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 2884 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tiểu luận Vấn đề bảo vệ quyền phụ nữ khi ly hôn theo pháp luật Việt Nam, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
của mình vào xu thế phát triển chung của xã hội. Xuất phát từ mục tiêu đó, “bảo vệ quyền con người nói chung, bảo vệ quyền phụ nữ bằng pháp luật nói riêng trước hết phải được hiểu là sự ghi nhận các quyền con người bằng pháp luật và phải bảo đảm cho quyền đó được thực hiện. Mặt khác, do phụ nữ là một nhóm xã hội đặc biệt, bởi vậy, quyền phụ nữ phải được xem xét và ghi nhận dựa trên cơ sở của những yếu tố đặc thù về giới, nghĩa là pháp luật phải ghi nhận quyền phụ nữ dựa trên cơ sở của vấn đề bình đẳng giới”. (Trích Bùi Thị Mừng - bảo vệ Quyền phụ nữ theo Luật HN&GĐ Việt Nam 2000, Luận văn Thạc sĩ luật học 2003). 2. Các khái niệm về ly hôn: Khái niệm ly hôn: Khái niệm ly hôn được quy định tại khoản 8 Điều 8 Luật hôn nhân và gia đình năm 2000: “Ly hôn là chấm đứt quan hệ hôn nhân do Tòa án công nhận hoặc quyết định theo yêu cầu của vợ hoặc của chồng hoắc của cả hai vợ chồng.” Căn cứ ly hôn theo Luật hôn nhân và gia đình Việt Nam năm 2000. * Căn cứ ly hôn do một bên vợ hoặc chồng nộp đơn xin ly hôn: - Điều 89. Luật hôn nhân gia đình - Căn cứ cho ly hôn: “ 1. Tòa án xem xét yêu cầu ly hôn, nếu xét thấy tình trạng trầm trọng,đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được thì Tòa án quyết định cho ly hôn. 2. Trong trường hợp vợ hoặc chồng của người bị Tòa án tuyên bố mất tích xin ly hôn thì Tòa án giải quyết cho ly hôn” - Nghị quyết 02/2000/NQ -HĐTP ngày 23-12-2000 của Tòa án nhân dân tối cao có một số qui định nhằm làm rõ cụm từ “tình trạng trầm trọng,đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được”. Được coi là tình trạng trầm trọng của vợ chồng khi: Vợ chồng không thương yêu, quí trọng, chăm sóc, giúp đỡ nhau như: Người nào chỉ biết bổn phận người đó, bỏ mặc người vợ hoặc người chồng muốn sống ra sao thì sống, đã được bà con thân thích của họ hoặc cơ quan tổ chức, đoàn thể nhắc nhở, hòa giải nhiều lần; Vợ chồng luôn có hành vi ngược đãi, hành hạ nhau như: Thường xuyên đánh đập hoặc có hành vi khác xâm phạm đến danh dự, nhân phẩm và uy tín của nhau, đã được bà con thân thích của họ hoặc cơ quan, tổ chức, đoàn thể nhắc nhở, hòa giải nhiều lần; Vợ chồng không chung thủy với nhau như: Có quan hệ ngoại tình, đã được người vợ hoặc người chồng hoặc bà con thân thích của họ hoặc cơ quan, tổ chức nhắc nhở, khuyên bảo nhưng vẫn tiếp tục có quan hệ ngoại tình. Để có những cơ sở nhận định đời sống chung của vợ chồng không thể kéo dài được thì phải căn cứ vào tình trạng hiện tại của vợ chồng đã đến mức trầm trọng như đã phân tích ở trên. Nếu thực tế cho thấy đã được nhắc nhở, hòa giải nhiều lần, nhưng vẫn tiếp tục có quan hệ ngoại tình hoặc vẫn tiếp tục sống ly thân, bỏ mặc nhau hoặc vẫn tiếp tục có hành vi ngược đãi, hành hạ, xúc phạm nhau, thì có căn cứ để nhận định rằng đời sống chung của vợ chồng không thể kéo dài được. Mục đích của hôn nhân không đạt được là không có tình nghĩa vợ chồng; không bình đẳng về nghĩa vụ và quyền giữa vợ, chồng; không tôn trọng danh dự, nhân phẩm, uy tín của vợ, chồng; không tôn trọng quyền tự do tín ngưỡng tôn giáo của vợ, chồng; không giúp đỡ, tạo điều kiện cho nhau phát triển về mọi mặt. - Khoản 2 Điều 89 Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 qui định căn cứ thứ hai: để tòa án giải quyết việc ly hôn: “Trong trường hợp vợ hoặc chồng của người bị tòa án tuyên bố mất tích xin ly hôn thì tòa án giải quyết cho ly hôn”. Trong thực tiễn xét xử các án kiện ly hôn nhiều năm qua ở nước ta, khi chưa có Bộ luật dân sự năm 1995 tòa án vẫn giải quyết ly hôn theo yêu cầu của đương sự khi vợ, chồng của họ đã bị tuyên bố mất tích”.Khi Tòa án giải quyết cho ly hôn với người bị tuyên bố mất tích thì cần chú ý giải quyết việc quản lí tài sản của người bị tuyên bố mất tích theo đúng qui định tại Điều 89 Bộ luật dân sự 1995. * Trường hợp thuận tình ly hôn - Điều 90.Thuận tình ly hôn: “Trong trường hợp vợ chồng cùng yêu cầu ly hôn mà hòa giải tại Tòa án không thành, nếu xét thấy hai bên thật sự nguyện ly hôn và đã thỏa thuận về việc chia tài sản, việc trông nom, nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục con thì Tòa án công nhận thuận tình ly hôn và sự thỏa thuận về tài sản và trên cơ sở bảo đảm quyền lợi ích chính đáng của vợ và con; nếu không thỏa thuận được hoặc tuy có thỏa thuận nhưng không bảo đảm quyền lợi ích chính đáng của vợ và con thì Tòa án quyết định” Như vậy, việc pháp luật qui định và công nhận sự thuận tình ly hôn của hai vợ chồng là nhằm giải quyết và chấm dứt những mâu thuẫn, xung đột trầm trọng trong cuộc sống vợ chồng mà từ đó, mục đích của hôn nhân không đạt được, ảnh hưởng đến cuộc sống của con cái và các thành viên khác trong gia đình. Tuy nhiên, vợ chồng không thể xin ly hôn một cách tùy tiện,vô trách nhiệm mà phải phù hợp với yêu cầu của pháp luật và chuẩn mực đạo đức xã hội trên cơ sở cân nhắc đến lợi ích chung của gia đình con cái.Cũng theo Điều 90 Luật hôn nhân và gia đình năm 2000, trong việc thuận tình ly hôn, ngoài ý chí thật sự tự nguyện của cả hai vợ chồng, đòi hỏi vợ chồng còn phải có sự thỏa thuận với nhau về việc chia tài sản, việc trông nom, nuôi dưỡng, giáo dục con chưa thành niên trên cơ sở bảo đảm quyền lợi ích chính đáng của vợ và con; nếu vợ chồng không thể thỏa thuận được, hoặc tuy có thỏa thuận được, hoặc tuy có thỏa thuận nhưng không bảo đảm quyền lợi ích chính đáng của vợ và con thì Tòa án quyết định.Bên cạnh những trường hợp vợ chồng thuận tình ly hôn, còn có nhiều trường hợp việc ly hôn chỉ xuất phát từ ý chí của một bên vợ chồng mà không có sự thuận tình của bên kia vì những lí do khác nhau: do không nhận thức được mâu thuẫn vợ chồng đã sâu sắc, trầm trọng, quan hệ hôn nhân đã tan vỡ hoặc có thể nhận thức được nhưng vẫn không muốn ly hôn vì động cơ nào đó như quyền lợi con cái …Theo qui định tại Điều 91, khi một bên vợ hoặc chồng yêu cầu xin ly hôn mà hòa giải tại Tòa án không thì Tòa án xem xét, giải quyết việc ly hôn.Về nguyên tắc Tòa án chỉ xét xử cho ly hôn nếu xét thấy quan hệ vợ chồng đã ở vào “tình trạng trầm trọng đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được”. Như vậy, xét về bản chất giải quyết việc ly hôn trong trường hợp thuận tình ly hôn hoặc mội bên vợ chồng yêu cầu là giống nhau. II. Vấn đề bảo vệ quyền phụ nữ trong việc ly hôn: 1. Nguyên nhân của việc bảo vệ Quyền của phụ nữ trong việc ly hôn. Thứ nhất, với những tư tưởng lạc hậu về hôn nhân và gia đình, về vấn đề giới, vẫn còn hiển hiện trong cuộc sống gia đình thời hiện đại. Điều này, đòi hỏi chúng ta phải loại bỏ triệt để nó ra khỏi đời sống xã hội, điều đầu tiên chúng ta phải làm là định hướng lại những tư tưởng của xã hội về vấn đề giới, về hôn nhân gia đình- chính là tồn tại xã hội, bởi đây là nguyên nhân dẫn đến sự bất bình đẳng về giới, dẫn đến bạo lực gia đình và mâu thuẫn gia đình nảy sinh, ly hôn là điều không thể tránh khỏi. Nhưng vấn đề ly hôn xảy ra, nạn nhân phải hứng chịu hậu quả không ai khác là phụ nữ. Như vậy, trước hết bảo vệ quyền của phụ nữ trong giải quyết ly hôn, phải xuất phát từ việc khắc phục những tổn thương mà người phụ nữ phải hứng chịu. Thứ hai, sau khi ly hôn, vấn đề ổn định cuộc sống là một bài toán nan giải đặt ra với các cặp vợ chồng, nhất là đối với người phụ nữ, vì họ là bộ phận đặc biệt của xã hội, khả năng tự lập không thể cao bằng những người đàn ông, họ rất dễ nhạy cảm về những hoàn cảnh khách quan và chủ quan của gia đình và xã hội. Theo báo cáo công tác xét xử của TANDTP Hà Nội năm 2003, toàn ngành đã thụ lý 3936 vụ án hôn nhân và gia đình và đã giải quyết 3803 vụ, đạt tỷ lệ 96,6%, (số liệu cụ thể trong bảo vệ Quyền phụ nữ theo Luật HN&GĐ Việt Nam2000- Bùi Thị Mừng) Như vậy, có thể nói, thành công trong công tác xét xử cũng có sự đóng góp của Luật HN&GĐ. Theo đó, những bản án thấu tình đạt lý, bảo vệ quyền lợi cho người phụ nữ, sẽ giúp họ tự tin trước cuộc sống, tin tưởng rằng pháp luật luôn bên cạnh họ, bảo vệ quyền lợi cho họ. Thứ ba, trên thực tế, vấn đề tài sản và xác định tài sản khi có tranh chấp xảy ra là vấn đề hết sức phức tạp, nhất là đối với việc xác định tài sản của vợ chồng khi ly hôn, theo đó, một mặt chúng ta vừa phải bảo đảm quyền của người chồng, mặt khác vừa phải bảo vệ quyền của phụ nữ- nhóm quan hệ xã hội đặc biệt. Nếu việc xác định tài sản chung của vợ chồng không chính xác là nguyên nhân dẫn đến cách giải quyết không đúng, không bảo vệ được quyền lợi của các đương sự, nhất là đối với người phụ nữ- đối tượng luôn được hưởng sự quan tâm từ phía Nhà nước, gia đình và xã hội. Bên cạnh đó, vấn đề xác định công sức đóng góp cho các bên khi giải quyết việc ly hôn cũng là vấn đề phức tạp, ảnh hưởng đến việc bảo vệ quyền lợi của phụ nữ. Do vậy, Luật HN&GĐ2000 cũng có quy định nguyên tắc chia tài sản chung “căn cứ vào công sức đóng góp”, nhằm thực hiện việc bảo vệ tốt quyền lợi của phụ nữ. Như vậy, nguyên nhân tiếp theo của việc bảo vệ quyền của phụ nữ trong việc giải quyết hậu quả pháp lý của ly hôn là nhằm tạo ra sự hoàn thiện của pháp luật về chế định HN&GĐ, từ đó, tạo ra cơ sở pháp lý cho người phụ nữ có thể tham gia tốt các lĩnh vực của xã hội, nhằm hoàn thiện bản thân để có thể đối mặt với vấn đề ly hôn đang diễn biến phức tạp- một trong những mặt trái của hôn nhân, tiềm ẩn trong chính cuộc sống của người phụ nữ, cũng như là để bảo vệ người phụ nữ khỏi những tệ nạn xã hội khi hôn nhân chấm dứt và người phụ nữ phải tự mình bươn trải cho cuộc sống của mình. Thứ tư, Luật HN&GĐ2000 có quy định: trong trường hợp vợ chồng ly hôn, việc nuôi con do hai bên tự quyết định theo thỏa thuận, trong trường hợp không thỏa thuận được thì yêu cầu tòa án giải quyết. Nếu sau khi ly hôn, mà giao con cho người vợ nuôi, thì bên còn lại (người chồng) có nghĩa vụ cấp dưỡng. Với quy định này của pháp luật, pháp luật đã bảo vệ quyền lợi của phụ nữ đối với thiên chức làm mẹ của họ. Như vậy, một nguyên nhân nữa của việc bảo vệ là phải bảo đảm thiên chức làm mẹ của người phụ nữ, bởi vì, người phụ nữ luôn là đối tượng có đời sống nội tâm sâu sắc, hiểu biết tâm tư, nguyện vọng của các con hơn ai hết, do vậy, việc giao con cho người phụ nữ chăm sóc, nuôi dưỡng một mặt, đảm bảo quyền của phụ nữ, mặt khác cũng bảo đảm sự phát triển bình thường về tâm sinh lý các con. Thứ năm, như chúng ta đã biết, quyền tự do kết hôn, tự do yêu cầu ly hôn là quyền nhân thân của vợ chồng. Vậy bảo vệ quyền của phụ nữ trong việc giải quyết hậu quả pháp lý của ly hôn còn là phải bảo vệ quyền nhân thân cho người phụ nữ và cụ thể trong trường hợp này là bảo vệ quyền yêu cầu ly hôn của người phụ nữ. Như vậy, trên đây là một số nguyên nhân dẫn đến việc phải bảo vệ quyền của phụ nữ trong giải quyết hậu quả pháp lý của ly hôn. Trên cơ sở những nguyên nhân này, chúng ta phải đặt ra vấn đề bảo vệ quyền của phụ nữ trong thực tế giải quyết các vụ án ly hôn, cũng như những phương diện cần bảo vệ quyền của phụ nữ trong giải quyết ly hôn hay nói cách khác, bảo vệ quyền của phụ nữ trên những lĩnh vực nào trong giải quyết ly hôn. 2. Những lĩnh vực bảo vệ quyền của phụ nữ trong việc ly hôn. a) Bảo vệ phụ nữ thế hiện qua quyền yêu cầu ly hôn. Điều 85 Luật hôn nhân gia đình2000quy định quyền yêu cầu Toà án giải quyết việc ly hôn: “1. Vợ, chồng hoặc cả hai người có quyền yêu cầu Toà án giải quyết việc ly hôn; 2. Trong trường hợp vợ có thai hoặc đang nuôi con dưới mười hai tháng tuổi thì chồng không có quyền yêu cầu xin ly hôn.” Quy định này là hoàn toàn cần thiết. Các nhà làm luật muốn gắn trách nhiệm của người chồng với người vợ đang mang thai hoặc nuôi con dưới 12 tháng tuổi. Thiên chức làm mẹ của người phụ nữ gắn liền với quá trình mang thai, chăm sóc và nuôi dưỡng con. Nhận định được điều này, luật hôn nhân gia đình Việt Nam hiện hành dành sự quan tâm đặc biệt đến quyền lợi của bà mẹ và trẻ em trong thời kỳ phụ nữa mang thai và nuôi con dưới 12 tháng tuổi. Người phụ nữ trong thời kỳ này là thời kỳ rất nhạy cảm, thay đổi về tâm sinh lý, gặp nhiều khó khăn về vật chất cũng như tinh thần trong cuộc sống. Một người chồng ở bên cạnh là rất cần thiết để giúp người phụ nữ hoàn thành trọng trách thiêng liêng của một người mẹ. Đứa trẻ trong thời kỳ này cũng cần sự chăm sóc đặc biệt hơn vì tình trạng non yếu, mong manh của nó. Hạn chế quyền xin ly hôn của người chồng trong thời kỳ này là hoàn toàn phù hợp, bởi ly hôn thường để lại cho người phụ nữ và trẻ em những gánh nặng tâm lý. Hậu quả xã hội của ly hôn tác động đến cuộc sống của người phụ nữ, làm cho họ không đảm bảo sức khỏe sinh sản để mang thai và làm mẹ an toàn, tác động nghiêm trọng đến cuộc sống vật chất và tinh thần của trẻ nhỏ, nên hạn chế quyền xin ly hôn của người chồng là hoàn toàn cần thiết. Điều luật không được áp dụng trong trường hợp người xin ly hôn lại là người vợ. Điều này tạo điều kiện cho người vợ, một khi quan hệ vợ chồng trở nên căng thẳng phức tạp và chỉ làm cho người vợ thêm đau khổ, thì vợ có quyền lựa chọn và xin ly hôn. Đây là điểm hợp lý, cho người vợ có quyền chọn và quyết định trong mọi trường hợp. Nhưng cũng chính vì điểm này liên quan đến vấn đề nhân thân, tình cảm của các cặp vợ chồng là chính, nên khi giải quyết vấn đề ly hôn trong trường hợp này, các cán bộ xét xử lại càng phải điều tra rõ thực chất mối quan hệ vợ chồng như thế nào và xem xét đến lợi ích của người đang mang thai và nuôi con nhỏ, để khi quyết định ly hôn hay bác đơn ly hôn của người vợ là thực sự xuất phát từ việc bảo vệ quyền, lợi ích của bà mẹ và trẻ em. Phải đảm bảo áp dụng để làm sao quy định này thực sự vừa giải phóng phụ nữ, vừa đảm bảo ảnh hưởng ít nhất đến việc nuôi dưỡng con nhỏ và thai nhi Điều luật không được áp dụng trong trường hợp người xin ly hôn lại là người vợ, tuy nhiên vì chồng không có quyền yêu cầu ly hôn, có vẻ như việc ly hôn do cả vợ và chồng cùng yêu cầu cũng không thể được tòa án thụ lý chừng nào người vợ còn đang mang thai hoặc nuôi con dưới 12 tháng tuổi. Càng khó có thể được tòa án tiếp nhận đơn yêu cầu của người chồng có chữ ký của người vợ trong hoàn cảnh đó. Trái lại, đơn vẫn có thể tiếp nhận, nếu người đứng đơn là người vợ và đơn được nộp với sụ chứng nhận của người chồng. Kể cả vợ đang mang thai với người khác hoặc nuôi con dưới 12 tháng tuổi với người khác thì người chồng cũng không có quyền ly hôn. Nếu trong trường hợp này mà người chồng có yêu cầu ly hôn thì giải quyết như sau: + Trong trường hợp chưa thụ lý vụ án: Tòa án áp dụng Điều 168 Bộ luật tố tụng dân sự 2005 để trả lại đơn ly hôn cho người nộp đơn. + Trong trường hợp đã thụ lý vụ án thì tòa án cần giải thích cho người nộp đơn biết là họ chưa có quyền yêu cầu xin ly hôn. Nếu người nộp đơn rút yêu cầu ly hôn thì áp dụng Điều 192 Bộ luật tố tụng dân sự 2005 và quyết định đình chỉ việc giải quyết vụ án. Nếu người nộp đơn không rút đơn yêu cầu ly hôn thì tòa án tiến hành giải quyết vụ án theo thủ tục chung và quyết định bác đơn yêu cầu ly hôn của họ. b) Bảo vệ quyền của phụ nữ khi chia tài sản trong việc ly hôn. Khi chia tài sản chung của vợ chồng, phải bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của vợ và con chưa thành niên, hoặc con đã thành niên mà bị tàn tật hoặc mất năng lực hành vi dân sự, không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình, đảm bảo cho họ được ổn định cuộc sống(điểm b, khoản 2, Điều 95 Luật HN&GĐ2000). Như vậy, để thực hiện tốt quy định này nhằm bảo vệ quyền của phụ nữ cần phải quán triệt nguyên tắc “dù đã ly hôn, mỗi bên đều có quyền có nhà ở; việc tạo điều kiện về nhu cầu cư trú cho mỗi bên có chỗ ở ổn định cuộc sống, nhất là đối với các con và bất kỳ trong trường hợp nào cũng không được để vợ và các con ra khỏi nhà khi họ thật sự chưa có chỗ ở”. Luật HN&GĐ1986 cũng có quy định về việc bảo vệ quyền của phụ nữ trong việc giải quyết hậu quả pháp lý của ly hôn: “Khi chia tài sản, phải bảo vệ quyền lợi của người vợ và của người con chưa thành niên, bảo vệ lợi ích chính đáng của sản xuất và nghề nghiệp”(điều 42). Như vậy, hệ thống pháp luật Việt Nam có những quy định cụ thể về việc bảo vệ quyền của phụ nữ về tài sản khi ly hôn, điều này phù hợp với chủ trương của Đảng ta. Trong trường hợp chia tài sản của vợ chồng sống chung mà ly hôn(Điều 96, Luật HN&GĐ2000), cũng phải đảm bảo được quyền lợi của phụ nữ, căn cứ vào công sức đóng góp của vợ chồng vào việc tạo lập, duy trì phát triển khối tài sản chung cũng như vào đời sống chung của gia đình: Ví dụ, vụ ly hôn giữa anh L và chị H. Trước khi ly hôn, anh chị có đưa cho bố mẹ L một số tiền để xây nhà. Khi anh L có đơn yêu cầu T.A giải quyết ly hôn, chị H cho rằng ngôi nhà đó là tài sản chung của vợ chồng. Sau khi xác minh T.A có căn cứ cho rằng ngôi nhà đó thuộc quyền sở hữu của bố mẹ anh L, hiện 2 cụ vẫn sống trong ngôi nhà đó, chưa tuyên bố giao nhà cho anh chị. Nhưng chị H đã có công đóng góp xây dựng ngôi nhà, nên sẽ được hưởng phần giá trị tương ứng. Sau khi hội đồng định giá tài sản xác định ngôi nhà có giá trị 800 triệu VNĐ, T.A quyết định chị H được hưởng 1/5 giá trị ngôi nhà với số tiền là 160 triệu VNĐ. Như vậy quyết định của TA là hoàn toàn phù hợp với các quy định của pháp luật, vừa bảo vệ quyền lợi của bố mẹ anh L, vừa bảo vệ được quyền lợi của chị H. Trong nhiều trường hợp, người phụ nữ không trực tiếp tham gia vào quá trình lao động sản xuất, nhưng có công trong việc tạo lập tài sản chung(kể cả trường hợp chỉ chăm sóc con cái, làm nội trợ...), do vậy quyền lợi của phụ nữ vẫn được bảo vệ khi ly hôn xảy ra. Chẳng hạn trường hợp sau: “TAND Thị xã L đã giải quyết vụ ly hôn giữa ông S và bà V. Về mặt tình cảm, 2 ông bà thuận tình ly hôn và được T.A chấp nhận. Về tài sản chung của vợ chồng, ông bà có 1 ngôi nhà mái bằng 50m2 trên diện tích 200m2 đất. cả ông S và bà V cùng yêu cầu được chia diện tích đất trên đó có ngôi nhà. Qua điều tra, T.A xác định: ngôi nhà 50m2 trên diện tích 200m2 đất là tài sản chung của vợ chồng. Ông S công tác xa nhà, nên việc mua đất, làm nhà ông không có điều kiện để tham gia, mọi việc ông giao hết cho vợ. tuy nhiên, khi mua đất làm nhà ông có đóng góp tiền bạc. Bà V là người có nhiều công sức trong việc mua bán, xây dựng nhà cửa và chăm sóc con cái. Hiện tại ông S vẫn công tác xa nhà, còn bà V vẫn sống cùng 3 con trong ngôi nhà đó. Hơn nữa ngôi nhà đó nằm trên mặt phố của thị xã, là nơi mà bà V cùng các con mở cửa hàng buôn bán, đây là thu nhập duy nhất của bà V. Từ căn cứ trên, TAND Thị xã L đã quyết định cho bà V 100m2 đất có ngôi nhà, còn ông S được 100m2 đất còn lại. Ta thấy, việc giải quyết như vậy của T.A là hoàn toàn hợp tình hợp lý, dựa trên cơ sở bảo vệ quyền và lợi ích của phụ nữ(hơn nữa bà V đang nuôi con)”,(Trích Luật sư- Th.S Nguyễn Văn Cừ- Th.S Ngô Thị Hường- Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về Luật HN&GĐ năm 2000). Trường hợp hôn nhân còn tồn tại, khi có lý do chính đáng, vợ chồng có quyền thỏa thuận chia tài sản chung, nếu không thỏa thuận được có quyền yêu cầu T.A giải quyết(Đ.29,30, Luật HN&GĐ). Luật HN&GĐ2000 có quy định cụ thể về hậu quả pháp lý khi chia tài sản chung của vợ chồng, làm cơ sở để giải quyết tranh chấp liên quan đến tài sản của vợ chồng. Điều này có ý nghĩa quan trọng trong việc giải quyết tranh chấp về tài sản giữa vợ và chồng khi có ly hôn xảy ra, điều đó cũng có ý nghĩa trong việc bảo vệ quyền của phụ nữ. Trong trường hợp vợ chồng ly hôn nếu các bên không thỏa thuận được việc chia tài sản chung thì yêu cầu T.A giải quyết theo một số nguyên tắc đảm bảo quyền của phụ nữ: chia đôi tài sản chung, lao động của vợ chồng trong gia đình được coi như lao động có thu nhập... Điều đặc biệt trong quy định về chia tài sản chung giữa vợ và chồng trong Luật HN&GĐ2000 là đã dành riêng những quy định đặc thù để bảo vệ quyền cho phụ nữ, chẳng hạn như đưa ra nguyên tắc bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của người vợ khi chia tài sản chung trong trường hợp vợ chồng ly hôn(Điều 95). Thực tiễn khi áp dụng quy định này vào việc chia tài sản chung của vợ chồng thường dành cho phụ nữ những lợi thế nhất định. Chẳng hạn, khi ly hôn, cả hai vợ chồng đều có nhu cầu về nhà ở song ngôi nhà là tài sản chung của họ lại không thể chia cho hai bên cùng sử dụng. Vì thế, áp dụng nguyên tắc bảo vệ quyền lợi của người vợ trong trường hợp này, có thể giải quyết theo hướng cho người vợ được sử dụng ngôi nhà và thanh toán cho phía người chồng phần giá trị tài sản mà anh ta được hưởng theo quy định của pháp luật. có thể nói, nguyên tắc bảo vệ quyền lợi của người vợ khi chia tài sản chung trong trường hợp vợ chồng ly hôn là một quy định mở nên trong mọi tình huống khi cần thiết chúng ta đều bảo vệ quyền lợi cho người phụ nữ. Như vậy, trên đây là những lý luận và thực tiễn về việc bảo vệ quyền của phụ nữ khi chia tài sản trong giải quyết hậu quả pháp lý của ly hôn. Thông qua những ví dụ cụ thể, chúng ta thêm hiểu rõ hơn sự cần thiết phải bảo vệ quyền của phụ nữ khi ly hôn. c) Bảo vệ quyền của phụ nữ đối với quan hệ nhân thân việc ly hôn. Quyền nhân thân của phụ nữ đối với việc ly hôn được thể hiện trên hai phương diện là quyền yêu cầu ly hôn( đã được trình bày ở mục 3.1) và quyền nhân thân sau khi đã ly hôn. Việc bảo vệ quyền của phụ nữ sau khi đã ly hôn còn thể hiện: mặc dù mục đích hôn nhân không đạt được, dẫn tới vợ chồng phải ly hôn, nhưng trong trường hợp này người chồng cũng không được có những hành động nhằm xúc phạm đến danh dự, nhân phẩm của người phụ nữ hoặc có những hành động nhằm gây ảnh hưởng đến cuộc sống của người vợ khi vợ chồng đã ly hôn. Đấy là những mặt liên quan đến việc bảo vệ quyền nhân thân của phụ nữ. d) Bảo vệ quyền của phụ nữ trong việc đảm bảo thiên chức làm mẹ trong việc ly hôn. Theo điều 92 Luật hôn nhân gia đình 2000, về nguyên tắc, con dưới ba tuổi được giao cho mẹ trực tiếp nuôi, nếu các bên không có thoả thuận khác. Bảo vệ thiên chức làm mẹ của người phụ nữ, Luật hôn nhân gia đình đã quy định quyền ưu tiên nuôi con về phía người mẹ trong trường hợp ly hôn. Thiên chức làm mẹ của người phụ nữ gắn liền với việc được nuôi con. Thành ngữ Việt Nam có câu “ hổ dữ không ăn thịt con”, đã phần nào nói lên thứ tình cảm mẫu tử thiêng liêng. Tình phụ tử, tuy quan trọng thật, nhưng bà mẹ mới là người rứt ruột để con ra, tình yêu thương tự nhiên cũng lớn hơn nhiều. Mẹ và con là tình cảm gắn bó, không thể thay thế. Hơn nữa, người phụ nữ với thiên chức làm mẹ của mình sẽ mang đến cho đứa trẻ sự chăm sóc tốt nhất. Đặc thù của trẻ em dưới 3 tuổi là cuốn mẹ và đặc biệt cần bàn tay chăm sóc của người mẹ, từ việc ăn, uống, ngủ nghỉ đến học tập. Quan trọng hơn là để đứa con dưới 3 tuổi phải rời xa mẹ sẽ là chấn động tâm lý nặng nề, vì mẹ là phần quan trọng nhất, không thể thiếu được trong thế giới của chúng. Để mẹ nuôi con dưới 3 tuổi khi ly hôn là quy định hoàn toàn hợp lý, không chỉ là bảo đảm thiên chức làm mẹ của người phụ nữ mà còn bảo vệ quyền lợi cho đứa trẻ. Đây cũng là một ưu tiên, lợi thế mà Luật hôn nhân gia đình 2000 đã dành cho người mẹ và cũng là dành cho trẻ em dưới 3 tuổi. Về cơ bản, điều luật này là hoàn toàn hợp lý, không có gì đáng bàn cãi, đảm bảo nguyên tắc bảo vệ quyền lợi của bà mẹ và trẻ em khi ly hôn. e) Các trường hợp bảo vệ quyền của phụ nữ trong việc ly hôn khác. Trong quan hệ cấp dưỡng giữa hai vợ chồng, theo quy định của pháp luật vợ chồng có nghĩa vụ chăm sóc, cấp dưỡng cho nhau khi một bên túng thiếu mà có lý do chính đáng. Ví dụ, trong trường hợp, người vợ vì đau yếu nên hạn chế khả năng lao động hoặc đang có thai hay nuôi con nhỏ mà gặp khó khăn, túng thiếu về kinh tế mà người chồng đã có hành vi vô đạo đức, bỏ mặc không quan tâm, chăm sóc mặc dù người chồng là người có khả năng cấp dưỡng, thì người vợ có quyền yêu cầu người chồng phải thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng cho mình, nếu không thỏa thuận được thì người vợ có quyền yêu cầu tòa án giải quyết theo quy định tại Điều 60, Luật HN&GĐ2000: “khi vợ chồng ly hôn, nếu người vợ túng thiếu, có yêu cầu cấp dưỡng mà có lý do chính đáng thì người chồng có nghĩa vụ cấp dưỡng theo khả năng của mình”. III. Ý nghĩa của việc bảo vệ quyền của phụ nữ và phương hướng để đảm bảo tốt hơn nữa quyền của phụ nữ trong việc giải quyết hậu quả pháp lý của ly hôn. Như vậy, bảo vệ quyền lợi của người phụ nữ đã trở thành nguyên tắc, được pháp luật quy định cụ thể khi giải quyết các vụ án cụ thể về ly hôn. Thực tiễn khi áp dụng các nguyên tắc này, thường dành cho người phụ nữ những lợi thế nhất định và tùy từng trường hợp cụ thể mà vận dụng việc ưu tiên cho người phụ nữ. Việc pháp luật ghi nhận sự ưu tiên cho người phụ nữ ở trường hợp này là hết sức phù hợp. Bởi vì, sau khi ly hôn người phụ nữ bao giờ cũng phải gánh chịu những thiệt thòi mang tính đặc thù về giới. Cho nên cần phải dành cho họ một sự quan tâm đúng mực, sự ưu tiên này cũng là một nội dung quan trọng thể hiện vấn đề bình đẳng giới. Nhưng hiện nay sự quy định của pháp luật vẫn còn có sự cục bộ chưa thể hiện đầy đủ vấn đề này. Do vậy, cần phải có sự thay đổi: Một là, phải hoàn thiện các quy định của Luật HN&GĐ nhằm bảo vệ quyền của phụ nữ. Phải xây dựng một hệ thống pháp luật hoàn chỉnh và đồng bộ, các quy định của luật phải thể hiện rõ nội dung của nguyên tắc bảo đảm ưu tiên quyền lợi người phụ nữ. Tiếp tục phát triển và hoàn thiện các quy định của Luật HN&GĐ, nhằm thể chế hóa các nguyên tắc bảo vệ quyền lợi phụ nữ trong việc giải quyết hậu quả của ly hôn. Hai là, nâng cao kiến thức pháp luật cho người phụ nữ, để họ tự b

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docVấn đề bảo vệ quyền phụ nữ khi ly hôn theo pháp luật Việt Nam.doc