Tiểu luận Vấn đề dân tộc và thực hiện chính sách dân tộc ở nước ta - Thực trạng và giải pháp

Tổ chức Đảng, các Đoàn thể và chính quyền ở miền núi và vùng dân tộc thiểu số, đã được xây dựng và củng cố. Tổ chức Đảng, Đoàn thể và chính quyền vững mạnh so với trước đều do những cán bộ của địa phương và dân tộc đảm đương, hầu hết các dân tộc đều đã có Đảng viên và cán bộ. Tư tưởng dân tộc lớn và dân tộc hẹp hòi, tuy còn phải tiếp tục giáo dục, nhưng đã được giải quyết, không có cơ sở phát triển. Các dân tộc đều có người tham gia lực lượng vũ trang bao gồm cả bộ đội, công an và dân quân tự vệ. Hàng ngũ cán bộ sỹ quan của lực lượng vũ trang nhân dân từ hạ sỹ quan cho đến cấp tướng, trong đó đều là người dân tộc thiểu số.

doc26 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 20647 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tiểu luận Vấn đề dân tộc và thực hiện chính sách dân tộc ở nước ta - Thực trạng và giải pháp, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ỏ tận gốc sự chênh lệch về trình độ kinh tế, văn hóa giữa các dân tộc thiểu số với dân tộc đa số, đưa miền núi phát triển toàn diện làm cho tất cả các dân tộc tiến bộ, cùng có cuộc sống ấm no, hạnh phúc, cùng làm chủ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. - Các Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ V, VI đặt ra vấn đề đổi mới việc thực hiện chính sách dân tộc, được cụ thể hóa tại Nghị quyết 22/NQTW ngày 27/11/1989 của Bộ Chính trị và Quyết định 72/HĐBT ngày 13/3/1990 của Hội đồng Bộ trưởng đề ra những chủ trương chính sách lớn về phát triển kinh tế - xã hội miền núi. - Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII của Đảng, nêu lên chính sách dân tộc thời kỳ 1996 - 2000... “ Vấn đề dân tộc có vị trí chiến lược lớn. Thực hiện bình đẳng, đoàn kết tương trợ giữa các dân tộc trong sự nghiệp đổi mới, công gnhiệp hóa hiện đại hóa đất nước. Xây dựng Luật Dân tộc. Từ nay đến năm 2000 bằng nhiều biện pháp tích cực và vững chắc, thực hiện cho được 3 mục tiêu chủ yếu: xóa được đói, giảm được nghèo, ổn định và cải thiện được đời sống, sức khỏe của đồng bào dân tộc, đồng bào vùng cao, vùng biên giới; xóa được mù chữ, nâng cao dân trí, tôn trọng và phát huy bản sắc văn hóa tốt đẹp của các dân tộc; xây dựng được cơ sở chính trị, đội ngũ cán bộ đảng viên của các dân tộc ở các vùng, các cấp trong sạch và vững mạnh”...(1) Như trên đã dẫn, từ cương lĩnh đầu tiên của Đảng ta, qua các thời kỳ cách mạng và ngày nay xây dựng đất nước đi lên công nghiệp hóa, hiện đại hóa, nội dung chính sách dân tộc của Đảng và Nhà nước là nhất quán dựa trên nguyên tắc cơ bản là: “ Bình đẳng, đoàn kết, tương trợ giữa các dân tộc”. Vậy chúng ta quán triệt tư tưởng chỉ đạo này của Đảng như thế nào? - Bình đẳng: Thực hiện quyền bình đẳng giữa các dân tộc trên mọi lĩnh vực. Bình đẳng về chính trị, kinh tế, văn hóa. Bình đẳng là nguyên tắc, là động lực to lớn cho khối đại đoàn kết dân tộc ngày càng bền vững. Bình đẳng về chính trị là sự bình đẳng về quyền làm chủ đất nước. Bình đẳng về quyền lợi và nghĩa vụ, trước hết và cụ thể là quyền tham chính của các dân tộc. Bình đẳng về kinh tế, là sự phát triển về kinh tế đồng đều giữa các dân tộc và các vùng, có thể lấy mục tiêu về bình quân thu nhập tính theo đầu người làm chuẩn, hay nói cách khác, đó là mục tiêu là thước đo để phấn đáu cho sự bình đẳng về kinh tế. Bình đẳng về kinh tế là nội dung rất quan trọng vì nó có ý nghĩa quyết định cho sự bình đẳng về mọi mặt. Bình đẳng về văn hóa là, các dân tộc có sự phát triển hài hòa trong một nền văn hóa đa dân tộc, không những không làm mất đi bản sắc dân tộc, mà trái lại bản sắc văn hóa của các dân tộc còn được giữ vững và ngày càng phát triển, các dân tộc có quyền sử dụng tiếng nói và chữ viết của mình, các dân tộc được hưởng thụ văn hóa, dân trí của các dân tộc đều được nâng cao. - Đoàn kết: Các dân tộc đều là những thành viên, hợp thành của cộng đồng các dân tộc Việt Nam. Không phân biệt dân tộc đa số hay dân tộc thiểu số. Sức mạnh của dân tộc Việt Nam là ở chỗ đoàn kết, như Bác Hồ nói: “Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết. Thành công, thành công, đại thành công”. Kết quả của sự nghiệp cách mạng ở nước ta đã chứng minh rất rõ điều đó. - Giúp đỡ lẫn nhau cùng phát triển: Một đất nước có nhiều dân tộc, để tồn tại và phát triển cần có sự giúp đỡ lẫn nhau giữa các dân tộc. Dân tộc nào cũng có nhu cầu cần được giúp đỡ và ngược lại dân tộc nào cũng có trách nhiệm phải giúp đỡ. Giúp đỡ từ hai phía, các dân tộc thiếu số giúp đỡ lẫn nhau, các dân tộc thiểu số giúp đỡ dân tộc đa số và ngược lại, giúp đỡ là hai chiều; ví dụ: người đa số chủ yếu là ở đồng bằng làm ra được nhiều lương thực, nhưng cần có môi trường, cần có rừng và bờ cõi của đất nước được yên ổn, do có người bảo vệ tại chỗ, thì ở đó phần lớn là các dân tộc thiểu số; giúp đỡ nhau bằng hình thức trực tiếp hoặc thông qua việc làm tròn nghĩa vụ của mình và sự điều phối của Nhà nước.  III. ĐÁNH GIÁ VIỆC THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH DÂN TỘC CỦA ĐẢNG  Quá trình thực hiện nhất quán chính sách dân tộc của Đảng, đã phát huy được sức mạnh to lớn của đồng bào, góp phần vào thành tựu trong công cuộc đấu tranh giành lại nền độc lập dân tộc và trong công cuộc xây dựng bảo vệ đất nước, nhất là trong những năm thực hiện đường lối đổi mới từ Đại hội VI, VII, và VIII tiếp theo là các Nghị quyết của Ban chấp hành Trung ương và Bộ Chính trị, cụ thể là Nghị quyết số 22 ngày 27/11/1989 của Bộ Chính trị và Quyết định 72/HĐBT ngày 13/3/1990 về một số chủ trương chính sách lớn phát triển kinh tế - xã hội miền núi. Năm 1996, Nghị quyết Đại hội VIII đã khẳng định và cụ thể hóa chính sách dân tộc trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Vùng dân tộc miền núi đã có những bước phát triển đáng kể, tốc độ tăng trưởng kinh tế năm sau đều tăng hơn năm trước; đời sống đồng bào các dân tộc từng bước được cải thiện, bộ mặt nông thôn vùng dân tộc và miền núi đã có những biến đổi tiến bộ, an ninh chính trị được giữ vững, đoàn kết dân tộc được tăng cường.  A. THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH DÂN TỘC CỦA ĐẢNG ĐÃ ĐẠT ĐƯỢC NHỮNG KẾT QUẢ QUAN TRỌNG SAU ĐÂY:  1. Các dân tộc trong đại gia đình các dân tộc Việt Nam, từ chỗ đều bị áp bức bóc lột dưới sự đô hộ của thực dân đế quốc Pháp, Mỹ..., giữa các dân tộc với nhau có sự mặc cảm, miệt thị, bởi âm mưu chia để trị của thực dân phong kiến, đã trở thành những thành viên trong cộng đồng các dân tộc Việt Nam, đoàn kết, bình đẳng, giúp nhau cùng làm chủ đất nước, quyền làm chủ và quyền bình đẳng dân tộc ngày càng được tôn trọng trên thực tế. Đại biểu đại diện của các dân tộc trong Quốc hội, Hội đồng nhân dân địa phương là cơ quan quyền lực của Nhà nước, ngày càng phát huy vai trò tham gia quản lý Nhà nước, quản lý kinh tế - xã hội. Khối đại đoàn kết dân tộc ngày càng được tăng cường, tình hình chính trị ổn định, an ninh trật tự, an toàn xã hội được giữ vững. Quá trình thử thách và phát triển trong cuộc kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ cứu nước và chiến tranh biên giới bảo vệ Tổ quốc cũng như xây dựng đất nước đã chứng minh sức mạnh đoàn kết các dân tộc. 2. Cơ sở vật chất kỹ thuật, kết cấu hạ tầng phục vụ sản xuất và đời sống được xây dựng ngày càng nhiều ở vùng dân tộc và miền núi là điều kiện vật chất rất quan trọng đối với việc thực hiện chính sách dân tộc và sự phát triển đồng đều giữa các vùng: - Diện tích khai hoang tạo ra ruộng nước, ruộng bậc thang, ruộng cạn, chuyển dần từ du canh, du cư sang xây dựng đồng ruộng theo hướng thâm canh, định canh, được thể hiện rõ từ miền phía Bắc cho tới Tây Nguyên, Duyên Hải miền Trung và miền Đông Nam Bộ. - Hệ thống thủy lợi được phát triển mạnh. Diện tích phần lớn từ chỗ phải nhờ vào nước trời, hoặc những công trình nhỏ, tạm; nay đã hình thành mạng lưới tưới tiêu bằng công trình xây dựng kiên cố như: Việt Bắc 70-80%, Tây Bắc 60%, Tây Nguyên 90% diện tích ruộng có công trình thủy lợi tưới. - Mạng lưới giao thông đã phát triển khá, tất cả các huyện miền núi đều đã có đường ô tô đi tới. 100% số xã của các tỉnh Tây Nguyên, Duyên Hải miền Trung và các tỉnh Tuyên Quang, Lạng Sơn đã có đường ô tô đi đến các trung tâm xã vào mùa khô, nhiều xã ở Tây Nguyên đã có đường ô tô đến thôn bản; các vùng khác cũng đạt tới 80 đến 90% số xã. Rất nhiều vùng xa, hẻo lánh, nhiều người không hề nghĩ đến hoặc không dám ước mơ đến, nay cũng đã có đường ô tô tới. Thành tựu này có ý nghĩa rất lớn lao đến sự phát triển của các dân tộc, rút bớt khoảng cách chênh lệch giữa các dân tộc với nhau và giữa miền núi với miền xuôi. Nếu lấy thời gian đi lại làm thước đo khoảng cách thì ngày xưa đi từ Hà Nội đến Lai Châu là hơn 1 tháng, ngày nay chỉ còn là 1 ngày. Đồng Văn, Mèo Vạc chỉ nghe tên đã hình dung đó là một xứ sở rất cao và xa xôi, phải đi hàng tháng trời thì nay khoảng cách cũng chỉ là 1, 2 ngày mà thôi. - Mạng lưới thông tin, liên lạc phát triển rất nhanh như viễn thông, đường dây điện thoại, đàm thoại dễ dàng đến tất cả các tỉnh và các huyện miền núi và dân tộc, trừ một số huyện mới tách. Nhiều xã của các tỉnh Tây Nguyên và miền núi của miền Trung cũng đã có điện thoại, tất cả các xã của tỉnh Sơn La đã có điện thoại, Sơn la đã tiến kịp miền xuôi về lĩnh vực này, không lâu nữa hầu hết các xã đều có điện thoại, thành tựu này sẽ là một kỳ tích xóa đi một khó khăn lớn nhất của mỉền núi và vùng dân tộc thiểu số về thông tin liên lạc và chứng minh rằng miền núi tiến kịp miền xuôi, các dân tộc tiến lên có sự phát triển ngang nhau là điều hoàn toàn có thể thực hiện được. - Mạng lưới điện cũng đã phát triển, nhiều vùng của mọi miền đất nước đã nối vào mạng lưới điện quốc gia, những nơi xa và rất xa như Sín Mần, Đồng Văn (Hà Giang), Phong Thổ (Lai Châu) cũng đã có điện lưới quốc gia và nhiều địa phương còn phát triển thủy điện nhỏ rất mạnh như huyện Mù Căng Chải, tỉnh Yên Bái đã có hàng nghìn thủy điện nhỏ loại 1-3 kw. Với sự phát triển đó, nhân dân các dân tộc tin tưởng, điện khí hóa đối với vùng dân tộc thiểu số không phải là không thực hiện được. 3. Đã từng bước hình thành một số vùng sản xuất phát triển tương đối tập trung và theo hướng sản xuất hàng hóa. Như cà phê, cao su, chè ở các tỉnh Tây Nguyên; chè, hồi, quế, cây ăn quả... ở các tỉnh miền núi phía Bắc. Một số vùng từ chỗ phá rừng làm rẫy đã chuyển sang bảo vệ, tu bổ rừng và trồng rừng có kết quả. 4. Đã vận động định canh, định cư, tương đối ổn định được 2 triệu trong số 3 triệu người còn du canh du cư. Trong đó 30% số hộ đã có đời sống tương đối ổn định, thu nhập vào loại khá, không còn thiếu đói, có nhà cửa khang trang, mua được radio, ti vi, xe máy, thậm chí một số hộ cũng mua được ô tô vận tải và nhiều loại máy cơ giới làm đất xay sát, tưới tiêu... Một số điểm nổi trội như đồng bào ở xã Chư Pơn (Đăk Lăk) cho biết đã xóa được: đói, khổ, uống nước suối, chày giã gạo, mù chữ...; xã Tâm Châu, huyện Di Linh tỉnh Lâm Đồng có 1.395 hộ thì loại giầu chiếm trên 20% thu nhập trên 500 triệu đồng/năm/hộ về trồng cà phê, có thêm cà phê, cả xã có 30 xe ô tô tải 306 máy kéo, 120 máy điện thoại, 717 xe gắn máy, bình quân 1,5 hộ có một ti vi, số hộ nghèo chỉ còn khoảng 5%, chúng tỏ vùng dân tộc vẫn có khả năng phát triển và giàu có. Vấn đề này đã xóa đi quan niệm cho rằng dân tộc là đồng nghĩa với nghèo khổ và lạc hậu. 5. Sự nghiệp giáo dục, văn hóa, bảo vệ sức khỏe và nâng cao dân trí trong các dân tộc thiểu số, có bước phát triển rất dài so với trước. Vùng thấp phát triển khá hơn. - Học sinh phổ thông chiếm từ 15 đến 20% so với dân số, khắp các xã trong tất cả các vùng dân tộc thiểu số đều đã có trường phổ thông cơ sở. Đã hình thành hệ thống trường phổ thông dân tộc nội trú trong tất cả các tỉnh, huyện miền núi và vùng dân tộc thiểu số. Ba trường dự bị đại học ở ba miền Bắc Trung Nam đào tạo cán bộ cho đồng bào các dân tộc, đặc biệt là đồng bào ở vùng cao và dân tộc ít người. Phần lớn đồng bào Tày, Nùng, Thái, Mường, Chăm, Khơme đã được phổ cập giáo dục tiểu học và xóa mù chữ. Hầu hết các dân tộc đều có người tốt nghiệp trung học và đại học. Đã có chữ viết của một số dân tộc và tiếng phổ thông là ngôn ngữ quốc gia đã ngày càng phát triển trong các dân tộc. Ngày nay đi tới đâu cũng đã có người biết chữ và tiếng phổ thông. - Các hoạt động văn hóa, văn nghệ của các dân tộc được khuyến khích phát triển và hòa hợp trong một nền văn hóa đa dân tộc, đồng thời mỗi dân tộc vẫn bảo tồn và phát huy truyền thống văn hóa tốt đẹp và bản sắc dân tộc riêng của mình. Hệ thống truyền thanh, truyền hình đã phát triển đến hầu hết các huyện của vùng dân tộc thiểu số, thông tin về những chủ trương đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước đến với đồng bào các dân tộc ở tất cả mọi miền, kể cả nơi xa và hẻo lánh của đất nước. Thành tựu đó đã phá vỡ sự cách biệt trước đây, có nơi gần như biệt lập với xã hội bên ngoài ở miền núi xa xôi, với các hoạt động của đất nước. - Mạng lưới y tế, phòng bệnh và chữa bệnh đã phát triển rộng khắp đến huyện và cơ sở, khống chế được các bệnh xã hội không để phát triển thành ổ dịch, đặc biệt là bệnh sốt rét, trước đây đã gây biết bao đau khổ cho đồng bào các dân tộc, ngày nay đã hạn chế đến mức thấp nhất, không để xảy ra dịch. Bệnh phong là một bệnh mà đồng bào rất sợ hãi, có nơi số người mắc bệnh này chiếm đến 40% dân số, ngày nay đã không còn đáng sợ nữa. 6. Tổ chức Đảng, các Đoàn thể và chính quyền ở miền núi và vùng dân tộc thiểu số, đã được xây dựng và củng cố. Tổ chức Đảng, Đoàn thể và chính quyền vững mạnh so với trước đều do những cán bộ của địa phương và dân tộc đảm đương, hầu hết các dân tộc đều đã có Đảng viên và cán bộ. Tư tưởng dân tộc lớn và dân tộc hẹp hòi, tuy còn phải tiếp tục giáo dục, nhưng đã được giải quyết, không có cơ sở phát triển. Các dân tộc đều có người tham gia lực lượng vũ trang bao gồm cả bộ đội, công an và dân quân tự vệ. Hàng ngũ cán bộ sỹ quan của lực lượng vũ trang nhân dân từ hạ sỹ quan cho đến cấp tướng, trong đó đều là người dân tộc thiểu số. 7. Đã đào tạo và bồi dưỡng được một đội ngũ cán bộ người dân tộc thiểu số làm nòng cốt và lãnh đạo trong phong trào cách mạng của quần chúng. Đội ngũ cán bộ trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp, Mỹ... là những cán bộ được đào tạo, bồi dưỡng và rèn luyện trong phong trào cách mạng giành độc lập tự do, có lòng yêu nươc, chí căm thù giặc, đầy nghị lực và kiên cường đã góp sức vào thắng lợi của sự nghiệp giải phòng dân tộc và thống nhất đất nước. Cán bộ người dân tộc được đào tạo có hệ thống, có kiến thức ngày một nhiều hơn, hình thành đội ngũ cán bộ bao gồm 126 người có trình độ trên đại học, 11.470 người có trình độ đại học và cao đẳng, 72.642 người có trình độ trung học. Trong số 450 đại biểu Quốc hội khoá X có 78 đại biểu là người dân tộc thiểu số và hơn 70% đại biểu ấy có trình độ đại học. Đội ngũ cán bộ này đang đảm nhiệm các cương vị lãnh đạo, quản lý, chuyên môn nghiệp vụ trên mọi lĩnh vực từ Trung ương đến địa phương. Đặc biệt đội ngũ lãnh đạo người dân tộc thiểu số có bước trưởng thành rõ rệt như Uỷ viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá VIII có 15 đồng chí là người dân tộc thiểu số chiếm 8,82%, 19 đồng chí là Bí thư, Phó Bí thư tỉnh uỷ chiếm 11,87%. Kết quả về công tác cán bộ nêu trên là một thắng lợi rất to lớn về chính sách dân tộc của Đảng ta.  B. NHỮNG TỒN TẠI CỦA VIỆC THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH DÂN TỘC  Bên cạnh những thắng lợi nêu trên, cũng còn những tồn tại như sau: 1. Dân số tăng nhanh, rừng bị suy giảm, đất đai ngày càng bị bạc màu dẫn đến sản xuất ở một số nơi tăng chậm. Do đó tuy đã có sự tiến bộ như trên nhưng bình quân về lương thực và thu nhập vẫn còn rất thấp, đời sống chậm được cải thiện, đặc biệt có nơi chưa có gì thay đổi so với trước. Ví dụ như Cao Bằng, bình quân lương thực đầu người năm 1997 là 291,7kg, năm 1998 là 274kg hoặc Yên Bái nếu năm 1997 là 253,4kg thì năm 1998 là 240,2kg. Các tỉnh Tây Nguyên cũng có tình trạng giảm như vậy. - Sự chênh lệch giữa các dân tộc và các vùng còn khoảng cách lớn. Ví dụ: Theo kết quả giám sát của Hội đồng Dân tộc đầu năm 1999 cho thấy: Tính theo vùng: Tỷ lệ đói nghèo của các tỉnh trung du miền núi phía Bắc hiện nay là 18,98% trong khi tỷ lệ đó ở khu vực đồng bằng sông Hồng chỉ còn 7,22%, tức là khoảng cách giữa hai vùng đã chênh lệch với nhau hơn 2,6 lần. Hoặc như tỉnh Đăk Lăk, năm 1998, mức thu nhập bình quân đầu người tại khu vực I (theo phân khu vực miền núi của Uỷ ban dân tộc) là 5.410.000đ trong khi thu nhập bình quân tại khu vực III chỉ được 1.430.000đ/người. Chênh nhau tới 3,78 lần Tính theo dân tộc Theo tài liệu điều tra phân loại giầu, nghèo ở một số điểm cho những chỉ số như sau: Tỉnh Dân tộc Điểm khảo sát Mức độ giầu nghèo Khá và giàu Trung bình Nghèo Lai Châu Kinh Si La Xã khu vực I Xã khu vực III 44,4% 0 51,21% 6,25% 4,5% 93,75% Hà Giang Dao Mông Xã khu vực I Xã khu vực III 14,1% 0 46,9% 39,20% 39,0% 51,66% Ninh Thuận Chăm Raglai Xã khu vực I Xã khu vực III 4,53% 1,4 khá 39,35% 20,70% 56,12% 77,90% ĐăkLắk Ê đê MNông Xã khu vực I Xã khu vực III 52,53% 7,30% khá 32,32% 25,60% 15,15% 67,10% Hưng yên Kinh Xã trung bình 53%,11% 32,39% 14,50% - Thực hiện cơ chế thị trường, đối với miền núi và vùng cao nảy sinh khó khăn mới như không có thị trường hoặc không cạnh tranh nổi trong điều kiện giao thông còn nhiều khó khăn, nhiều nơi làm ra sản phẩm, nhưng lại không có người mua. Do đó khoảng cách có nguy cơ chênh lệch xa hơn nữa. Chẳng hạn lấy thu nhập làm chuẩn, thu nhập chung của cả nước bình quân hơn 200 USD đầu người/năm thì miền núi và vùng dân tộc thiểu số như Hà Giang là 80 USD (1995), đến năm 2000 phấn đấu thu nhập gấp đôi, số này sẽ là 400 và 160 như vậy về tỷ lệ thì như nhau nhưng khoảng cách 160/400 lại rộng hơn so với 80/200. 2. Bộ phận đồng bào còn sống du canh, du cư là bộ phận dân cư nghèo khổ nhất, còn hơn 1 triệu người và xu hướng du cư lại tiếp tục tăng lên. Mấy năm gần đây rộ lên làn sóng chuyển cư từ phía Bắc vào phía Nam, không theo kế hoạch chúng ta gọi là di cư tự do đã gây không ít khó khăn cho địa phương nơi dân đi cũng như địa phương nơi dân đến. Tài nguyên rừng tiếp tục bị tàn phá, mấy năm qua rừng tự nhiên bị suy giảm về diện tích là 143.714 ha, bình quân mỗi năm thiệt hại hơn 23.952ha, nhiều địa phương cho rằng số rừng bị phá chắc chắn còn cao hơn số này tới 4 lần. Số rừng trồng mới không bù được số rừng bị tàn phá. Theo tài liệu của Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn, diện tích được che phủ bình quân cả nước chỉ còn 28,2%, có nơi còn thấp như Cao Bằng 12%... 3. Chất lượng và hiệu quả công tác giáo dục, văn hoá, bảo vệ sức khoẻ của đồng bào dân tộc còn rất thấp so với yêu cầu và so với đồng bằng. - Phát triển giáo dục phổ thông ở vùng cao còn rất khó khăn. Học sinh lớn tuổi bỏ học nhiều, lớp 3 và lớp 4 rất ít hoc sinh; tỷ lệ mù chữ cao, có dân tộc, có vùng  mù chữ và không biết tiếng phổ thông đến 80-90%. - Mức hưởng thụ văn hoá của đồng bào ở vùng sâu vùng xa còn rất thấp, một số tệ nạn xã hội như nghiện hút, cúng bái, mê tín, theo "Vàng chứ" còn tồn tại và có nơi tăng lên. - Cơ sở y tế xã còn yếu, có nơi không có người làm việc hoặc có cán bộ y tế nhưng không có thuốc. Bệnh sốt rét vẫn còn là mối đe doạ đến tính mạng của đồng bào, bệnh bướu cổ còn phổ biến ở nhiều vùng. Số bệnh nhân phong và lao còn lớn, nhất là ở vùng Tây Nguyên, đặc biệt có xóm, làng 40% người mắc bệnh này. Đại bộ phận vùng dân tộc thiểu số thiếu nước sạch, đặc biệt một số vùng thiếu cả nguồn nước vì đã không còn nguồn sinh thuỷ là rừng như Đồng Văn, Mèo Vạc (Hà Giang), Lục Khu, Hà Quảng (Cao Bằng)... 4. Việc đào tạo bồi dưỡng sử dụng cán bộ dân tộc và chính sách đãi ngộ đối với cán bộ công tác ở vùng dân tộc còn nhiều hạn chế và thiếu sót. - Trừ một số tỉnh có đội ngũ cán bộ dân tộc tương đối đồng đều về cơ cấu lãnh đạo, chuyên môn và quản lý kinh tế - xã hội, còn nói chung nhiều tỉnh miền núi mới chỉ có cán bộ lãnh đạo là người dân tộc, cán bộ chuyên môn, cán bộ quản lý phần lớn là từ nơi khác đến. - Giáo viên và cán bộ y tế phần lớn là ở xuôi lên, ví dụ như huyện Tủa Chùa trên 80% dân số là người Mông nhưng mới có 4 giáo viên là người Mông trong tổng số hơn 300 giáo viên của huyện. - Một số địa phương do cơ cấu dân số thay đổi nên việc sử dụng cán bộ dân tộc đã không được chú ý như trước, dẫn đến sự băn khoăn của đồng bào đó là điều thực tế đã diễn ra ở một số nơi. - Tỷ lệ cán bộ được đào tạo có trình độ đại học và trên đại học không những đã quá thấp mà sự chênh lệch còn quá lớn như Tày là 1,8%, Nùng 0,7%, Thái 0,3%, Mường 0,7%, Dao 0,1%, Mông 0,06%... (so với dân số). Việc thực hiện một số chính sách còn bị lệch lạc và tiêu cực như cử tuyển, dân tộc nội trú và thi cử, nếu những tiêu cực không được khắc phục thì tác dụng sẽ ngược lại với mục đích tốt đẹp của những chủ trương chính sách đó. 5. Do những tồn tại trên, nên mặc cảm giữa các dân tộc chưa được xoá bỏ triệt để, từng nơi, từng lúc việc đoàn kết dân tộc lại phát sinh vấn đề mới, nếu không xử lý tốt dễ làm phức tạp vấn đề. Cơ cấu dân số ở miền núi đã và sẽ còn thay đổi như ở Tây Nguyên trước năm 1975, cư dân dân tộc thiểu số là chủ yếu thì ngay nay đã trở thành số ít, từ đó phản ánh vào sự cấu tạo trong bộ máy nhà nước như có nhiều địa phương đại biểu HĐND trước đây hầu hết là người dân tộc thiểu số, nay chỉ còn một vài người; cơ cấu cán bộ chủ chốt ở xã, huyện cũng có thay đổi tương tự, một vài nơi chưa nhận thức được vấn đề cốt lõi của chính sách dân tộc là tuy cơ cấu dân số có thay đổi nhưng vị trí của vấn đề dân tộc không hề thay đổi. Đó là những vấn đề lớn, cần có sự quan tâm thích đáng trong chính sách dân tộc vì nó không chỉ có ý nghĩa quốc gia mà nó còn có ý nghĩa quốc tế. 6. Hiện nay, miền núi và vùng dân tộc thiểu số, nổi lên một số vấn đề đáng chú ý là: - Tình hình di biến động dân cư tương đối lớn, hàng chục vạn người thuộc nhiều dân tộc di cư từ vùng cao xuống vùng thấp, từ phía Đông sang phía Tây, từ phía Bắc vào phía Nam. Dòng di cư này vẫn còn đang tiếp diễn. Việc di dân có nhiều nguyên nhân, nhưng nguyên nhân chủ yếu là vùng cao thiếu đất sản xuất và đất đai đã bạc màu, đời sống khó khăn, cần phải đi đến chỗ có điều kiện sinh sống tốt hơn. - Tranh chấp ruộng đất, mua bán ruộng đất xảy ra phổ biến ở các địa phương, phần lớn giải quyết về đất đai ở vùng này là theo luật tục chứ không theo luật pháp. Số đồng bào du canh, du cư không có đất đai ổn định để sản xuất, đồng bào Khơme Nam Bộ có đến 6% số hộ không có đất sản xuất (gọi là trắng tay) do nghèo đói đã cầm cố, sang nhượng hết. - Một vài năm gần đây tà đạo đã phát triển vào một số dân tộc như "Vàng Chứ" phát sinh ở một số vùng của đồng bào Mông và một số dân tộc khác, nếu không ngăn chặn sẽ có thể phá vỡ sự bền vững của văn hoá Mông. - Một số tệ nạn xã hội như, nghiện hút, uống nhiều rượu, cờ bạc... vẫn còn tồn tại và một số nơi có chiều hướng tăng lên. Diện tích trồng thuốc phiện tuy đã bị đẩy lùi đáng kể, từ 20.000 ha xuống còn khoảng 200 ha (1998), nhưng vấn đề này không đơn giản, nếu chủ quan sẽ rất có thể phát triển trở lại rất nhanh. IV. QUAN ĐIỂM, MỤC TIÊU NHIỆM VỤ VÀ GIẢI PHÁP THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH DÂN TỘC TRONG THỜI KỲ CÔNG NGHIỆP HOÁ, HIỆN ĐẠI HOÁ  1. Quan điểm: - Quán triệt chính sách bình đẳng, đoàn kết, tương trợ giữa các dân tộc; phát triển kinh tế - xã hội, đặc biệt là phát triển kinh tế để nâng mức sống của các dân tộc, có sự phát triển ngang nhau là vấn đề có ý nghĩa quyết định cho việc thực hiện thắng lợi chính sách dân tộc của Đảng và nhà nước, bảo đảm cho đất nước ổn định và phát triển. - Phát triển kinh tế  - xã hội miền núi luôn gắn chặt với vấn đề dân tộc coi đây là một bộ phận hữu cơ trong chiến lược phát triển của nền kinh tế quốc dân. - Phát triển kinh tế - xã hội miền núi và vùng dân tộc thiểu số là trách nhiệm chung của cả nước, trước hết là bản thân đảng bộ, chính quyền, nhân dân miền núi và dân tộc thiểu số phải vươn lên tự lực, tự cường, chống tư tưởng tự ty, ỷ lại. - Phát triển toàn diện chính trị, kinh tế - văn hoá - xã hội và an ninh quốc phòng, gắn tăng trưởng kinh tế với việc giải quyết những nhu cầu bức xúc về mặt xã hội ở miền núi và vùng dân tộc. 2. Mục tiêu: a. Mục tiêu chiến lược (mục tiêu lâu dài): Về mục tiêu chiến lược cần phải quán triệt và bám sát theo cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên Chủ nghĩa xã hội do Đại hội lần thứ VII của Đảng cộng sản Việt Nam đã đề ra là: - "Các dân tộc trong nước bình đẳng, đoàn kết và giúp đỡ nhau cùng tiến bộ"(1) trong đó cốt lõi của vấn đề là phấn đấu cho sự bình đẳng thực sự giữa các dân tộc. Muốn vậy cần phát huy nội lực của mỗi dân tộc, nhà nước tạo mọi điều kiện để các dân tộc phát triển đi lên con đường văn minh, tiến bộ, gắn bó mật thiết với sự phát triển chung của cộng đồng các dân tộc Việt Nam. - Tôn trọng lợi ích, truyền thống văn hoá, ngôn ngữ, tập quán, tín ngưỡng của các dân tộc, giữ gìn và phát huy truyền thống văn hoá tốt đẹp của mỗi dân tộc trên cơ sở ngày càng hoà nhập, góp phần xây dựng nền văn hoá Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc. b. Mục tiêu cụ thể (trước mắt) - Ổn định và phát triển sản xuất, ổn định và cải thiện một bước đời sống nhân dân các dân tộc. Xoá được nạn đói, giảm số hộ nghèo xuống dưới mức 30%. Giảm bớt khoảng cách chênh lệch nghèo đói giữa các vùng và các dân tộc. Thu hẹp khoảng cách về thu nhập bình quân giữa các dân tộc và các vùng và sự chênh lệch về trình độ phát triển kinh tế - văn hoá nói chung. - Về bảo vệ sức khoẻ, thực hiện được 100% số xã có trạm y tế, có đủ cán bộ và đủ thuốc chữa bệnh. Khống chế bệnh sốt rét không để xảy ra dịch, chống bướu cổ, loại bỏ tình trạng thiếu i ốt vào năm 2000. Tất cả các bệnh nhân phong được phát hiện và chữa trị. Cơ bản có đủ nước uống và nước sạch cho nhân dân. - Hoàn thành phổ cập giáo dục tiểu học và xoá mù chữ, nâng cao thêm một bước trình độ văn hoá và đời sống tinh thần, bảo tồn và phát triển văn hoá, văn nghệ tốt đep, thanh toán nạn mù chữ, đưa thông tin bằng sóng phát thanh và truyền hình đến hầu hết các vùng của đất nước, góp phần vào nâng cao dân trí của đồng bào các dân tộc. - Cơ bản hoàn thành công tác định canh định cư. - Xây dựng được cơ sở chính trị, đội ngũ cán bộ và đảng viên các dân tộc ở các vùng, các cấp trong sạch và vững mạnh, đáp ứng cơ bản nhu cầu cán bộ dân tộc, trước hết là đối với cấp cơ sở và huyện. - Trên cơ sở đó, củng cố và tăng thêm lòng tin của các

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doctieuluan_7162.doc
Tài liệu liên quan