Tiểu luận Vấn đề định hướng xã hội chủ nghĩa của sự phát triển nền kinh tế nhiều thành phần trong thời kỳ quá độ ở nước ta

Để làm tốt vai trò quản lý vĩ mô của Nhà nước, hệ thống tài chính, tín dụng ngân hàng cần phải được lành mạnh hoá. Hệ thống dự trữ quốc gia, bảo hiểm, các quĩ dự phòng cũng cần sử dụng có hiệu quả hơn và có tính toán phù hợp với tình hình không gây nên những ứ đọng về tài sản và vốn không cần thiết.

Cần khắc phục tình trạng cào bằng trong phân phối thu nhập ở các doanh nghiệp nhà nước, lấy phân phối theo lao động làm nguyên tắc cơ bản, tăng cường khuyến khích lợi ích vật chất bằng tiền thưởng và chế độ phúc lợi, nới rộng khoảng cách giữa các bậc lương và tăng lương tối thiểu đủ để tái sản xuất sức lao động. Người lao động phải là người chủ đích thực của tài sản Nhà nước tại doanh nghiệp nhà nước. Họ có quyền giám sát hoạt động của doanh nghiệp và họ cần được giao quyền đề cử những người có năng lực, có tâm huyết thay mặt Nhà nước để quản lý doanh nghiệp.

 

doc14 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 1348 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tiểu luận Vấn đề định hướng xã hội chủ nghĩa của sự phát triển nền kinh tế nhiều thành phần trong thời kỳ quá độ ở nước ta, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Chính sách kinh tế nhiều thành phần được coi là chính sách có chiến lược, được thực hiện nhất quán, lâu dài trong quá trình xây dựng CNXH nhằm khai thác mọi tiềm năng để phát triển lực lượng sản xuất, tạo ra nhiều của cải cho xã hội. Chính sách kinh tế nhiều thành phần ra đời xuất phát từ thực tiễn của nước ta, đồng thời là sản phẩm của sự vận dụng qui luật quan hệ sản xuất phải phù hợp với tính chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất. Tuy nhiên trong quá trình thực hiện chính sách kinh tế nhiều thành phần đã có nhiều quan điểm khác nhau về định hướng xã hội chủ nghĩa, về vấn đề sở hữu cũng như vị trí và vai trò của các thành phần kinh tế. Có nhiều quan điểm cho rằng chỉ cần nói xây dựng một nước Việt Nam giầu mạnh, xã hội dân chủ văn minh là đủ, không cần nói ''theo định hướng xã hội chủ nghĩa'', ý kiến khác lại cho rằng sở hữu nhà nước hay sở hữu tư nhân không quan trọng, mà điều quan trọng là ở chỗ sản xuất có phát triển hay không, hay trong nền kinh tế thị trường không cần kinh tế nhà nước và nếu có thì kinh tế nhà nước cũng không cần phải giữ vai trò chủ đạo, v.v... . Vì vậy một yêu cầu đặt ra là cần phải làm sáng tỏ, hoàn thiện hơn thực chất của vấn đề định hướng xã hội chủ nghĩa của sự phát triển nền kinh tế nhiều thành phần trong thời kỳ quá độ ở nước ta. Nội dung của tiểu luận gồm: Lời nói đầu Phần nội dung Kết luận Phần Nội dung I - Một số vấn đề lý luận liên quan tới định hướng XHCN trong phát triển kinh tế nhiều thành phần Quan niệm của Đảng ta về chủ nghĩa xã hội: Trong cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội năm 1991, Đảng cộng sản Việt Nam đã quan niệm về chủ nghĩa xã hội được xây dựng ở Việt Nam gồm các đặc trưng sau: Đặc trưng thứ nhất là: Nhân dân lao động làm chủ. Đặc trưng thứ hai là: Có một nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và chế độ công hữu về các tư liệu sản xuất chủ yếu. Đặc trưng thứ ba là: Có nền văn hoá tiến tiên, đậm đà mầu sắc dân tộc. Đặc trưng thứ tư là: Con người được giải phóng khỏi áp bức bóc lột, bất công, làm theo năng lực, hưởng theo lao động, có cuộc sống ấm no, tự do hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện cá nhân. Đặc trưng thứ năm là: Các dân tộc trong nước bình đẳng, đoàn kết và giúp đỡ nhau cùng tiến bộ. Đặc trưng thứ sáu là: Có quan hệ hữu nghị và hợp tác với nhân dân tất cả các nước trên thế giới. Định hướng xã hội chủ nghĩa tức là quá trình phát triển hướng tới xây dựng một xã hội bao gồm sáu đặc trưng như trên. Trong vấn đề định hướng xã hội chủ nghĩa thì định hướng xã hội chủ nghĩa trong lĩnh vực kinh tế là bộ phận quan trọng, giữ vai trò nền tảng, quyết định thắng lợi của con đường xã hội chủ nghĩa. Tính tất yếu phải định hướng xã hội chủ nghĩa. Định hướng xã hội chủ nghĩa có mối quan hệ hữu cơ , gắn liền với khái niệm thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, trong mối quan hệ nhân quả làm tiền đề cho nhau. Có tồn tại thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam thì mới có định hướng xã hội chủ nghĩa của xã hội Việt Nam thời kỳ đó, và ngược lại chỉ khi nào định hướng xã hội chủ nghĩa được giữ vững thì sự quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam mới được thực hiện. Thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam là một tất yếu khách quan đã được lý luận khoa học cũng như thực tiễn lịch sử và tình hình phát triển xã hội nước ta chứng tỏ. Do vậy định hướng xã hội chủ nghĩa là tồn tại hiện thứck và có tính tất yếu khách quan, đóng vai trò chi phối chủ yếu đối với vận mệnh đất nước. Định hướng xã hội chủ nghĩa trong phát triển kinh tế nhiều thành phần Từ khi bước vào thời kỳ đổi mới quan điểm định hướng xã hội chủ nghĩa của phát triển nền kinh tế nhiều thành phần luôn được khẳng định và có thể nói định hướng xã hội chủ nghĩa trong xây dựng và phát triển các thành phần kinh tế chính là thông qua nhận thức các qui luật khách quan, tự giác tác động vào mỗi thành phần kinh tế, làm cho mỗi thành phần kinh tế phát huy tác dụng tối đa của nó cho sự phát triển của lực lượng sản xuất, kiểm soát và điều khiển các quá trình kinh tế, sao cho các yếu tố, các giá trị xã hội chủ nghĩa ngày càng nảy nở và phát triển trong tất cả các thành phần kinh tế, làm cho bản phần thành phần kinh tế xã hội chủ nghĩa ngày một mạnh lên, thực sự là thành phần kinh tế chủ đạo xét cả về qui mô, tính hiệu quả và tính dẫn dắt. 4. Vai trò nền tảng của sở hữu công cộng trong định hướng XHCN: Chế độ sở hữu bao giờ cũng gắn liền với một phương thức sản xuất xã hội và một hình thái kinh tế xã hội nhất định. Sự chiến thắng của một chế độ kinh tế xã hội này đối với một chế độ kinh tế xã hội khác rút cục là quan hệ sản xuất mà quyết định là chế độ sở hữu thể hiện bản chất kinh tế của chế độ xã hội nào chiếm vị trí thống trị. Bản chất kinh tế của xã hội tư bản do chế độ sở hữu tư nhân còn xã hội chủ nghĩa do chế độ sở hữu công cộng về tư liệu sản xuất thống trị. Trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, ở nước ta không những tồn tại hình thức sở hữu công cộng mà còn tồn tại hình thức sở hữu tư nhân, vì vậy chúng ta cần phải nhận thức đúng vai trò của chúng để đảm bảo mục tiêu xây dựng chủ nghĩa xã hội. Khi xây dựng một chế độ xã hội mang một đặc trưng mới về chất (chế độ XHCN) thì nhất định phải có một quan hệ sản xuất tương ứng. Nghị quyết Đại hội IX khẳng định: "chế độ sở hữu công cộng (công hữu) về tư liệu sản xuất chủ yếu từng bước được xác lập và sẽ chiếm ưu thế tuyệt đối khi chủ nghĩa xã hội được xây dựng xong về cơ bản". Sở hữu tư nhân mặc dù là một thành phần hữu cơ của các hình thức sở hữu và là một động lực của phát triển kinh tế nhưng không bao giờ trở thành con đường chính của sự phát triển. Nếu hạ thấp vai trò nền tảng của sở hữu công cộng và tăng cường vai trò của sở hữu tư nhân thì đến một lúc nào đó, kinh tế tư nhân giữ vai trò chủ đạo trong nền kinh tế thì không còn cơ sở của chủ nghĩa xã hội. Nhưng cũng cần xác định chế độ sở hữu công cộng phải từng bước xác lập tương hợp với tính chất và trình độ phát triển khác nhau của lực lượng sản xuất. Trước đây ở nước ta trong một thời gian dài đã nóng vội chủ quan muốn xoá bỏ hình thức sở hữu tư nhân để kết thúc thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, nền kinh tế chỉ còn một loại hình sở hữu công cộng dưới hai hình thức là sở hữu toàn dân và sở hữu tập thể. Năm 1986, Đảng ta đã có quan điểm đổi mới toàn diện về kinh tế xã hội, một nội dung đổi mới quan trọng là thừa nhận tồn tại sở hữu tư nhân trong thời kỳ quá độ. Tại Đại hội IX (năm 2001) Đảng ta đã xác định trong thời kỳ quá độ nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam có nhiều hình thức sở hữu, trong đó có ba hình thức sở hữu cơ bản là sở hữu toàn dân, sở hữu tập thể và sở hữu tư nhân. 5.Về vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước trong định hướng xã hội chủ nghĩa Thành phần kinh tế nước là thành phần dựa trên sở hữu Nhà nước về tư liệu sản xuất, nó bao gồm các doanh nghiệp nhà nước, các tỏ chức kinh tế tài chính của Nhà nước cùng với tài sản quốc gia. Kinh nghiệm thế giới cũng như ở Việt Nam cho thấy rằng kinh tế nhà nước có vai trò hết sức quan trọng trong nền kinh tế quốc dân. Chính vì vậy trong khi tiến hành đổi mới và tham gia vào nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần nó cần phải có một hướng nhìn mới toàn diện và thực tế hơn. Vai trò đó thể hiện khá sâu sắc trong nền kinh tế ở "tính định hướng- dẫn dắt - và chi phối". Thứ nhất, kinh tế nhà nước nhờ có ưu thế về nhiều mặt, đặc biệt là cơ sở vật chất kỹ thuật mạnh so với các thành phần kinh tế khác do đó nó có khả năng tổ chức liên kết, liên doanh kinh tế, phân công chuyên môn hoá, hiệp tác hoá sản xuất các ngành, vừa cải tạo vừa xây dựng, sử dụng các thành phần kinh tế khác. Trong quá trình sản xuất và lưu thông kinh tế nhà nước đảm nhiệm việc nghiên cứu và ứng dụng các tiến bộ khoa học - kỹ thuật, giúp đỡ vốn và kỹ thuật... Bên cạnh đó, việc xây dựng và phát triển những ngành nghề đòi hỏi nhiều vốn đầu tư mà tư nhân không thể làm như xây dựng hệ thống ngân hàng và các cơ quan tài chính bảo hiểm, giao thông thông tin và công nghiệp mũi nhọn ... thì kinh tế nhà nước đứng ra đảm nhiệm. Nghiên cứu vai trò chủ đạo trong nền kinh tế, chúng ta thấy rằng, vai trò chủ đạo của một hình thức kinh tế thể hiện ở chỗ tính chất, đặc điểm, phương thức tác động của nó tới các thành phần khác, từ đó làm thay đổi và xác định phương thức hoạt động của các thành phần kinh tế khác. Điều kiện đó đảm bảo cho nền kinh tế vận động theo mục tiêu chung của Đảng và Nhà nước đã khẳng định- xây dựng, phát triển một nền kinh tế nhiều thành phần, khu vực kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo, định hướng - chi phối cho sự phát triển của các thành phần kinh tế. Thứ hai, với tư cách một tổ chức kinh tế tầm cỡ quốc gia, kinh tế nhà nước có vai trò tích cực trong vấn đề thu hút đầu tư nước ngoài và liên doanh với các hãng lớn, tạo điều kiện cho ta áp dụng các tiến bộ về công nghệ - khoa học kỹ thuật, mở rộng thị trường trong nước ra ngoài khu vực. Mặt khác, như đã nêu ở trên thì rõ ràng khu vực kinh tế nhà nước hiện đang nắm giữ các ngành sản xuất quan trọng nhất như năng lượng, nhiên liệu, xi măng, thép, hoá chất, vận tải đường sắt, đường biển, đường không, ngân hàng, tài chính, dự trữ quốc gia và những tài nguyên của đất nước, đang giữ vai trò chi phối nền kinh tế, vì vậy về khách quan nó đang giữ vị trí chủ đạo trong nền kinh tế là phù hợp với thực tiễn phát triển của đất nước. Văn kiện Đại hội IX đã xác định: "Kinh tế nhà nước phát huy vai trò chủ đạo trong nền kinh tế, là lực lượng vật chất quan trọng và là công cụ để Nhà nước định hướng và điều tiết vĩ mô nền kinh tế". 6. Về vai trò "chiếc cầu nối" của kinh tế tư bản nhà nước: Thành phần kinh tế này bao gồm các doanh nghiệp liên doanh, liên kết giữa Nhà nước với các nhà tư bản tư nhân trong và ngoài nước dựa trên nguyên tắc sở hữu hỗn hợp của hai hoặc nhiều chủ thể. Thành phần kinh tế này có sức mạnh về kinh tế với nguồn vốn lớn, kỹ thuật công nghệ cao, trình độ tổ chức và quản lý hiện đại, có quan hệ thị trường rộng lớn cả trong và ngoài nước. Thành phần kinh tế tư bản nhà nước có một vai trò hết sức quan trọng trong nền kinh tế quá độ ở nước ta. Nó có trình độ quan hệ sản xuất cao hơn kinh tế tư nhân, kinh tế cá thể và gần với chủ nghĩa xã hội. Nó là sản phẩm tất yếu, là một "bước tiến" lịch sử đối với các nước quá độ lên chủ nghĩa xã hội từ một nền kinh tế lạc hậu. Lê Nin đã gọi thành phần kinh tế này là thành phần kinh tế quá độ và ví nó như chiếc cầu nối để các nước kém phát triển đi lên chủ nghĩa xã hội mà không cần phải qua phát triển chủ nghĩa tư bản. 7. Về vai trò, chức năng của Nhà nước Việt Nam về quản lý nền kinh tế: Văn kiện Đại hội IX của Đảng đã khẳng định nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần ở nước ta vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Nhà nước quản lý bằng pháp luật, kế hoạch, cơ chế chính sách, các công cụ đòn bẫy kinh tế khác và bằng các nguồn lực của khu vực kinh tế nhà nước. Nhà nước có những chức năng cơ bản về quản lý nền kinh tế định hướng xã hội chủ nghĩa sau : Thứ nhất: định hướng sự phát triển toàn bộ nền kinh tế nhằm xây dựng cơ sở vật chất-kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội. Thứ hai: trực tiếp đầu tư vào một số lĩnh vực để dẫn dắt sự phát triển toàn bộ nền kinh tế theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Thứ ba: thiết lập khuôn khổ pháp luật, có hệ thống chính sách nhất quán để tạo môi trường ổn định và thuận lợi cho kinh doanh làm ăn phát đạt. Thứ tư: hạn chế và khắc phục những mặt tiêu cực của cơ chế thị trường. Thứ năm: phân phối và phân phối lại thu nhập quốc dân theo định hướng lấy phân phối theo kết quả lao động và hiệu quả kinh tế kinh tế là chủ yếu, làm cho mọi người dân đều có đời sống ấm no, tự do hạnh phúc. Thứ sau: quản lý tài sản công, kiểm kê, kiểm soát, hướng dẫn toàn bộ hoạt động kinh tế- xã hội đi vào quĩ đạo của chủ nghĩa xã hội. II- Một số thực trạng và Định hướng sự phát triển các thành phần kinh tế hiện nay ở nước ta 1. Kinh tế nhà nước: Đối với thành phần kinh tế nhà nước, đây là khu vực kinh tế do Nhà nước là người đại diện cho toàn dân làm chủ sở hữu và quản lý với một thực lực to lớn, chiếm hơn 3/4 tài sản quốc gia và tạo ra hơn 40% GDP hàng năm, nắm giữ những khâu, những lĩnh vực vị trí then chốt, những mạch máu chính của nền kinh tế quốc dân. Đó chính là nền tảng, là cơ sở sức mạnh để định hướng xã hội chủ nghĩa toàn bộ nền kinh tế. Những đòi hỏi tư nhân hoá khu vực kinh tế nhà nước không gì khác hơn là làm cho nền tảng kinh tế và sức mạnh kinh tế của đất nước yếu đi tạo sự thắng thế cho định hướng tư bản chủ nghĩa. Tuy nhiên cũng phải khách quan nhìn nhận rằng kinh tế nhà nước Việt Nam hoạt động kém hiệu quả và điều này đang làm suy yếu sự định hướng và dẫn dắt của kinh tế nhà nước với kinh tế tư nhân và kinh tế tư bản nhà nước. Để giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa đối với thành phần kinh tế nhà nước và thông qua đó làm cho thành phần kinh tế nhà nước trở thành công cụ đắc lực để định hướng các thành phần kinh tế khác, cần phải tăng cường sức mạnh và tính hiệu quả của kinh tế nhà nước bằng sự đầu tư, đổi mới và bằng cả chính sách vĩ mô cũng như sự năng động ở tầm vi mô. Đây là thực chất của cuộc tranh đua kinh tế giữa thành phần kinh tế nhà nước với các thành phần kinh tế khác nhằm giành thắng lợi cho định hướng xã hội chủ nghĩa. Để nâng cao hiệu quả của kinh tế nhà nước cần đào tạo đội ngũ quản lý, coi trọng năng lực điều hành, ý thức trách nhiệm trước Nhà nước và tập thể lao động. Cần khắc phục tình trạng vô chủ, xác định cơ chế thực hiện quyền sở hữu của Nhà nước, làm rõ hơn các quyền năng sở hữu, sử dụng, định đoạt và hưởng lợi. Cần tăng cường tính tự chịu trách nhiệm, tự quyết định trong môi trường cạnh tranh bình đẳng giữa các doanh nghiệp nhà nước với các doanh nghiệp của các thành phần kinh tế khác, làm lành mạnh hoá tài chính doanh nghiệp, loại bỏ dần tình trạng nợ nần dây dưa, lãi giả, lỗ thật. Cần đẩy nhanh quá trình sắp xếp lại và cổ phần hoá một số doanh nghiệp nhà nước dựa trên các tiêu chí: hiệu quả, đảm bảo xã hội, giữ vững định hướng. Không nên duy trì sự độc quyền ở mức không cần thiết của các tổng công ty nhà nước, vì sự độc quyền đó đang làm phương hại đến sự lành mạnh hoá các quan hệ thị trường, làm giảm tính hiệu quả, tính năng động của nền kinh tế. Giải tán hoặc sáp nhập các doanh nghiệp hoạt động kém hiệu quả, không làm cho quá trình cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước trở thành quá trình tư nhân hoá vì như thế là chệch hướng xã hội chủ nghĩa. Nhà nước và những người lao động trong doanh nghiệp phải là cổ đông có cổ phần khống chế. Để làm tốt vai trò quản lý vĩ mô của Nhà nước, hệ thống tài chính, tín dụng ngân hàng cần phải được lành mạnh hoá. Hệ thống dự trữ quốc gia, bảo hiểm, các quĩ dự phòng cũng cần sử dụng có hiệu quả hơn và có tính toán phù hợp với tình hình không gây nên những ứ đọng về tài sản và vốn không cần thiết. Cần khắc phục tình trạng cào bằng trong phân phối thu nhập ở các doanh nghiệp nhà nước, lấy phân phối theo lao động làm nguyên tắc cơ bản, tăng cường khuyến khích lợi ích vật chất bằng tiền thưởng và chế độ phúc lợi, nới rộng khoảng cách giữa các bậc lương và tăng lương tối thiểu đủ để tái sản xuất sức lao động. Người lao động phải là người chủ đích thực của tài sản Nhà nước tại doanh nghiệp nhà nước. Họ có quyền giám sát hoạt động của doanh nghiệp và họ cần được giao quyền đề cử những người có năng lực, có tâm huyết thay mặt Nhà nước để quản lý doanh nghiệp. 2- Kinh tế tập thể: Kinh tế nhà nước và kinh tế tập thể phải kết hợp chặt chẽ với nhau và trở thành nền tảng của nền kinh tế quốc dân. Đó là yêu cầu có tính qui luật của sự vận động của nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Kinh tế hợp tác, tập thể ở nước ta đã từng tồn tại trong nhiều lĩnh vực, đặc biệt là trong nông nghiệp trong những năm trước đổi mới. Song do nóng vội, duy ý chí nên những mô hình hợp tác xã kiểu cũ trở thành lực cản phát triển sản xuất. Hiện nay hình thức kinh tế này vẫn có tác dụng tích cực và cần tiếp tục được phát huy. Do vậy cần khôi phục và phát triển kinh tế tập thể trên cơ sở thật sự tôn trọng nguyên tắc tự nguyện, dân chủ, cùng có lợi và dần dần từ thấp đến cao. Cần sáng tạo ra những mô hình hợp tác xã kiểu mới của những người lao động làm chủ, không mang tính áp đặt, phù hợp với khả năng về vốn, lao động, thị trường và cả khả năng quản lý của họ. Có những chính sách vĩ mô phù hợp để hướng kinh tế trang trại, kinh tế tiểu chủ ở nông thôn đi vào con đường hợp tác. Nhà nước cần có những chính sách hỗ trợ và ưu tiên với họ khi chuyển đổi. Kinh tế tư bản nhà nước: Đối với kinh tế tư bản nhà nước, đây là liên minh kinh tế hợp tác giữa Nhà nước với các nhà tư bản trong và ngoài nước. Đây là thành phần kinh tế đóng vai trò rất quan trọng trong quá trình định hướng xã hội chủ nghĩa nền kinh tế nước ta, là cầu nối giữa kinh tế xã hội chủ nghĩa và kinh tế tư bản tư nhân. ở đó tồn tại cả sự hợp tác, liên minh, song cũng tồn tại sự đấu tranh giữa hai lực lượng kinh tế mà rút cuộc chiếm ưu thế phải thuộc về chủ nghĩa xã hội. Trong những năm qua, liên doanh giữa Nhà nước với tư bản nước ngoài đã có sự phát triển mạnh mẽ, thu hút được nguồn vốn đáng kể. Chúng ta có được công nghệ và kinh nghiệm quản lý mới, mở rộng được thị trường, giải quyết được công ăn việc làm, góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Song một thực trạng cần được khắc phục là kinh tế tư bản nhà nước phần lớn đang do nước ngoài chi phối cả về vốn, công nghệ, quản lý và thị trường... Định hướng phát triển thành phần kinh tế tư bản nhà nước đòi hỏi chúng ta phải phát huy được nội lực, tăng dần vốn góp của phía Việt Nam trong các liên doanh, tránh các thủ đoạn thua lỗ giảm phần vốn góp của Việt nam. Mặt khác, phải hết sức chú ý phát triển kinh tế tư bản nhà nước bằng liên doanh giữa Nhànước với tư bản tư nhân trong nước, bằng liên doanh giữa Nhà nước với tư bản nước ngoài. Để giữ vững định hướng, ngoài việc tăng cường kiểm kê, kiểm soát của Nhà nước đối với thành phần kinh tế tư bản nhà nước, cần đặc biệt chú ý chính sách cán bộ để những người được Nhà nước cử vào tham gia quản lý các liên doanh không bị nước ngoài thao túng, lợi dụng. Để định hướng và phát triển tiềm lực của thành phần kinh tế tư bản nhà nước, cần chú ý cả hai hướng: một mặt, cần xoá bỏ những trở ngại do lề thói quan liêu, tạo hành lang thông thoáng để thu hút đầu tư nước ngoài mạnh mẽ hơn nữa, mặt khác phải tăng cường kiểm kê, kiểm soát, tỉnh táo trước sự xâm nhập, thông qua đầu tư để làm chệnh hướng nền kinh tế nước ta. Cần phải làm cho thành phần kinh tế này phát triển phù hợp với lợi ích của độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, bảo vệ chủ quyền, an ninh quốc gia, môi trường sinh thái và lợi ích của người lao động. Gắn chính sách ưu đãi đầu tư nước ngoài với đầu tư trong nước, thông qua chính sách ưu đãi có chọn lọc với nhiều mức độ khác nhau để đa dạng hoá các loại hình của kinh tế tư bản nhà nước. Cần biết cách lựa chọn những lĩnh vực mà Việt Nam có thể tự làm, chứ không nhất thiết ở chỗ nào cũng phát triển kinh tế tư bản nhà nước. 4- Kinh tế tư nhân: Thành phần kinh tế tư nhân là thành phần kinh tế dựa trên sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất và bóc lột lao động làm thuê. Trong điều kiện của nền kinh tế quá độ lên chủ nghĩa xã hội, kinh tế tư nhân được khuyến khích phát triển ở những lĩnh vực mà pháp luật không cấm, được coi như là nguồn bổ sung quan trọng cho các thành phần kinh tế khác để khai thông mọi nguồn lực cho qúa trình công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước. Tuy nhiên thành phần này không được trở thành thành phần chiếm vị trí chủ đạo. Định hướng xã hội chủ nghĩa cần khắc phục cả hai khuynh hướng hoặc là đề cao thái quá vai trò của kinh tế tư bản tư nhân, coi đó như là lối thoát duy nhất để phát triển kinh tế ở Việt Nam, hoặc là cường điệu tính đối lập của kinh tế tư bản tư nhân với chủ nghãi xã hội, kỳ thị, phân biệt đối xử, tìm mọi cách loại bỏ ngăn cản sự phát triển của nó bằng các biện pháp phi kinh tế. Hiện nay do thực lực hạn chế cả về vốn, công nghệ, năng lực quản lý, khả năng cạnh tranh của khu vực kinh tế tư bản tư nhân còn yếu. Tích tụ và tập trung tư bản diễn ra chậm chạp, qui mô nhỏ và vừa là chủ yếu. Cơ cấu ngành nghề tập trung chủ yếu ở dịch vụ, thương mại, công nghiệp chế biến thuỷ hải sản, là những ngành có mức doanh lợi cao, thu hút được lao động phổ thông, tiền lương thấp. Kinh tế tư bản tư nhân tập trung chủ yếu ở các thành phố lớn mà chưa được phát triển được bao nhiêu ở các vùng nông thôn. Nhiều hoạt động của kinh tế tư bản trông những năm vừa qua có tác động tiêu cực như đầu cơ, buôn lậu, sản xuất hàng giả,... cần phải được kiên quyết ngăn chặn và khắc phục kịp thời. Để định hướng phát triển thành phần kinh tế tư bản tư nhân, trong thời gian tới cần khuyến khích tư bản tư nhân đầu tư vào sản xuất, khai thác những tiềm năng về đất, rừng, biển và lao động dư thừa ở khu vực nông thôn. Giải toả tâm lý lo ngại khi bỏ vốn đầu tư bằng chính sách nhất quán của Đảng và Nhà nước, thể chế hoá đường lối của đảng thành luật để bảo vệ quyền lợi hợp pháp của tư bản tư nhân. Tạo môi trường pháp lý thuận lợi cho tư bản tư nhân hoạt động phải đi đôi với tăng cường kiểm kê, kiểm soát buộc họ phải làm ăn đúng pháp luật. Khuyến khích tư bản tư nhân đi vào con đường liên doanh với Nhà nước và kinh tế tập thể, bán cổ phần cho người lao động, quan tâm đến lợi ích chính đáng của người làm thuê. Nhà nước cần có qui định rõ ràng về việc đảm bảo điều kiện làm việc và hưởng thụ của người lao động trong các doanh nghiệp tư nhân. Động viên kiều bào đưa vốn về đầu tư hoặc hợp tác và liên doanh với kinh tế nhà nước, kinh tế tập thể để phát triển kinh tế dân tộc. 5- Kinh tế cá thể & tiểu chủ Kinh tế cá thể và tiểu chủ là thành phần kinh tế tư nhân dựa trên quan hệ tư hữu nhỏ về tư liệu sản xuất và lao động bản thân người sản xuất, về cơ bản là trong thành phần này không có quan hệ bóc lột. Thành phần kinh tế này có qui mô nhỏ nhưng lại chiếm số đông vì vậy xét trên bình diện xã hội thì đóng góp cho xã hội là không nhỏ. Đây là khu vực sản xuất hàng hoá nhỏ, vẫn còn tàn dư của sản xuất tự cấp, tự túc dựa trên công nghệ lạc hậu, năng suất thấp. Con đường phát triển của họ là phải đi lên sản xuất lớn. Do vậy, phù hợp với nội dung định hướng xã hội chủ nghĩa, cần phải hướng kinh tế cá thể và tiểu chủ đi vào con đường làm ăn tập thể. Nhà nước cần giúp đỡ về vốn, kiến thức, công nghệ, thị trường tiêu thụ sản phẩm để hạn chế bớt tính tự phát tư bản chủ nghĩa của thành phần kinh tế này. 6- Kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài Đây là thành phần kinh tế tồn tại dưới các doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài hoặc các khu công nghiệp xuất khẩu mà các đối tác nước ngoài thuê để tiến hành sản xuất kinh doanh. Thành phần này có sức mạnh hết sức to lớn về vốn, kỹ thuật công nghệ và trình độ quản lý, nó có quan hệ rộng lớn với các đối tác thuộc các quốc gia và các tổ chức tài chính thế giới. Trong sự nghiệp công nghiệp háo hiện đại hoá ở nước ta Đảng ta xác định nguồn vốn từ nội lực của nền kinh tế giữ vai trò quyết định, nhưng trong bước đi ban đầu của thời kỳ quá độ hiện nay thì nguồn vốn ngoại lực từ các đối tác bên ngoài có một vai trò hết sức quan trọng giúp chúng ta rút ngắn được thời gian công nghiệp hoá hiện đại hoá. Định hướng phát triển thành phần kinh tế này là Nhà nước cần phải có chiến lược, có chính sách kinh tế vĩ mô, có hệ thống pháp luật đồng bộ, đủ mạnh để thực hiện chức năng điều tiết vĩ mô hướng thành phần kinh tế này phát triển theo quĩ đạo chung của nền kinh tế quốc dân qua đó khai thác được lợi thế tuyệt đối và lợi thế so sánh của đất nước nhằm mục đích tăng trưởng kinh tế. Kết luận Thực tiễn sau hơn 15 năm đổi mới cho thấy chính sách phát triển kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa đã góp phần giải phóng và phát triển lực lượng sản xuất, đưa đến những thành tựu to lớn có ý nghĩa quan trọng cho đất nước, thúc đẩy sự phát triển nhanh của lực lượng sản xuất, đời sống của nhân dân được nâng lên, lòng tin của nhân dân vào công cuộc đổi mới, vào sự lãnh đạo của Đảng là đúng đắn và được củng cố. Điều đó chứng tỏ đường lối đổi mới của Đảng là đúng đắn, sáng tạo phù hợp với thực tế nước ta. Tuy nhiên quá trình thực hiện chủ trương này, do mặt trái của kinh tế thị trường, trong nền kinh tế nhiều thành phần ở nước ta các thành phần dựa trên sở hữu nhà nước về tư liệu sản xuất sẽ phát triển theo xu hướng xã hội chủ nghĩa còn các thành phần dựa trên sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất sẽ phát triển theo con đường tư bản chủ nghĩa. Do đó vấn đề chệch hướng rất dễ xảy ra đòi hỏi phải có sự định hướng đúng và có những nội dung, hình thức, phương pháp, bước đi thích hợp, cần nhận thức đúng đắn và kiên định định hướng xã hội chủ nghĩa, coi đó là nhiệm vụ quan trọng, điều kiện tiên quyết và là nguyên tắc hàng đầu trong công cuộc đổi mới đất nước. Trong lĩnh vực kinh tế, phát triển nền kinh tế theo định hướng xã hội chủ nghĩa đòi hỏi chúng ta phải nhận thức và đánh giá đúng đắn vai trò, vị trí, mối quan hệ và xu hướng vận động của mỗi thành phần kinh tế dựa trên sở hữu khác nhau về tư liệu sản xuất. Quán triệt vai t

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc28399.doc
Tài liệu liên quan