Tiểu luận Vấn đề giai cấp và đấu tranh giai cấp trong cuộc cách mạng XHCN

MỤC LỤC

LỜI MỞ ĐẦU

Phần 1:

TỔNG QUAN VỀ GIAI CẤP VÀ ĐẤU TRANH GIAI CẤP

 

1.1. Khái niệm và đặc trưng của giai cấp

1.2. Nguồn gốc hình thành giai cấp

1.3. Kết cấu giai cấp

1.4. Đấu tranh giai cấp

1.5. Đấu tranh giai cấp – một trong những động lực phát triển của xã hội có giai cấp

Phần 2:

CUỘC ĐẤU TRANH CỦA GIAI CẤP VÔ SẢN NÓI CHUNG

VÀ CUỘC ĐẤU TRANH CỦA GIAI CẤP VÔ SẢN

Ở NƯỚC TA NÓI RIÊNG

 

2.1. Nguyên nhân của cuộc đấu tranh vô sản

2.2. Tính chất, mục tiêu, nội dung của cuộc đấu tranh giai cấp vô sản

2.3. Cuộc đấu tranh của giai cấp vô sản ở nước ta hiện nay

Phần 3:

THỰC TIỄN CUỘC ĐẤU TRANH GIAI CẤP TRONG THỜI KỲ

QUÁ ĐỘ LÊN CNXH Ở NƯỚC TA TRONG XU THẾ TOÀN CẦU HÓA

 

3.1. Nội dung chủ yếu của cuộc đấu tranh giai cấp trong thời kỳ hiện nay

3.2. Đấu tranh toàn diện trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội

3.3. Kết luận

Phần 4:

GIẢI PHÁP ĐỂ GIẢI QUYẾT MÂU THUẪN GIỮA

LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN

 

 

 

doc16 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 8886 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tiểu luận Vấn đề giai cấp và đấu tranh giai cấp trong cuộc cách mạng XHCN, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
hường mà là một phạm trù kinh tế – xã hội có tính lịch sử. Nó không phải là sản phẩm của sản xuất nói chung mà là sản phẩm của những hệ thống sản xuất xã hội nhất định trong lịch sử. Mỗi hệ thống giai cấp tương ứng với một hệ thống sản xuất xã hội, về bản chất là thể thống nhất của các mặt đối lập. Do đó, sẽ không thể hiểu được đặc trưng của từng giai cấp cụ thể nếu không đặt nó trong hệ thống, tức là trong mối quan hệ với các giai cấp đối lập khác. Chẳng hạn, không thể hiểu giai cấp tư sản là gì nếu không xem xét trong mối quan hệ với giai cấp vô sản và ngược lại. Nói đến giai cấp là nói đến sự khác nhau giữa các tập đoàn người về địa vị trong hệ thống kinh tế – xã hội nhất định, trong đó có tập đoàn người thống trị và tập đoàn người bị trị. Bên cạnh tập đoàn người thống trị và bị trị kia bao giờ cũng tồn tại những tầng lớp trung gian không giữ một địa vị cơ bản nào trong phương thức sản xuất, nó thường xuyên bị phân hóa, nhân tố chi phối sự phân hóa của các tầng lớp trung gian là lợi ích. Các tầng lớp trung gian ngã về phía giai cấp thống trị hay bị trị là tuỳ thuộc vào lợi ích của họ. 1.2. Nguồn gốc hình thành giai cấp: Xã hội loài người không phải bao giờ cũng tồn tại giai cấp. Và Mác là người đầu tiên chứng minh rằng “Sự tồn tại của giai cấp chỉ gắn liền với những giai đoạn phát triển lịch sử nhất định của sản xuất”. Sự phân chia xã hội thành giai cấp trước hết là do nguyên nhân kinh tế. Thật vậy, điều đó đã được chứng minh qua các chế độ xã hội khác nhau. Chẳng hạn, trong chế độ công xã nguyên thủy, lực lượng sản xuất còn thấp kém, công cụ lao động thô sơ bằng đá, gậy gộc, cung tên,… do vậy con người làm ra sản phẩm chỉ đủ để tồn tại, duy trì nòi giống, chưa có sản phẩm thừa. Hơn nữa, lúc này cũng vì lợi ích mà họ sống cùng nhau, kiếm ăn cùng nhau để chống lại thiên tai, thú dữ,… họ sống giúp đỡ, bình đẳng với nhau, tương tựa vào nhau mà sống. Không những nguyên nhân trên mà trong thời kỳ công xã nguyên thủy vẫn chưa có giai cấp. Đến cuối xã hội nguyên thủy, công cụ kim loại ra đời làm cho năng suất lao động tăng lên, con người có thể sản xuất số lượng lớn sản phẩm vượt nhu cầu tối thiểu để tồn tại, dẫn đến sản phẩm dư thừa. Lúc này họ nhận ra rằng làm ăn riêng thì có lợi hơn là làm ăn chung như trước kia, sản xuất cá thể của từng gia đình có hiệu quả hơn là sản xuất tập thể. Và thế là những người có chức có quyền trong thị tộc, bộ lạc đã nảy lòng tham chiếm toàn bộ công cụ sản xuất, chế độ tư hữu ra đời. Và chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất là cơ sở trực tiếp hình thành giai cấp. Thật vậy, những người nắm trong tay toàn bộ tư liệu sản xuất của xã hội sẽ nắm luôn tất cả các quyền lực về kinh tế, chính trị,… trong khi những người không có tư liệu sản xuất, muốn sống phải bán sức lao động cho những người kia và chấp nhận bị bóc lột sức lao động và bị chiếm đoạt toàn bộ giá trị thăng dư do họ làm ra và lúc này giai cấp xuất hiện. Đó là giai cấp chiếm toàn bộ tư liệu sản xuất của xã hội trở thành giai cấp thống trị, bóc lột, trong khi những người không có tư liệu sản xuất thì trở thành giai cấp bị áp bức, bóc lột. Vậy, sự xuất hiện chế độ tư hữu là nguyên nhân quyết định trực tiếp sư ra đời của giai cấp. Sự tồn tại của giai cấp đối kháng gắn với chế độ chiếm hữu nô lệ, chế độ phong kiến, chế độ tư bản chủ nghĩa. Chủ nghĩa tư bản phát triển cao lại tạo tiền đề khiến chọ sự thủ tiêu chế độ tư hữu, các cơ sở kinh tế của sự đối kháng giai cấp trở thành xu thế khách quan trong sự phát triển xã hội. Đó là logic khách quan của tiến trình phát triển lịch sử. Nếu nhìn kỹ lại thì ta thấy nguyên nhân sâu xa của sự phân chia xã hội thành giai cấp là do sự phát triển của lực lượng sản xuất và sự phân công lớn về lao động xã hội. Còn nguyên nhân kinh tế trực tiếp phân chia xã hội thành giai cấp đó chính là chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất. Vì vậy mà Các Mác và Ăngghen đã chỉ ra rằng, nguyên nhân phân chia xã hội thành giai cấp cũng như nguyên nhân của sự ra đời và mất đi của hệ thống giai cấp chính là nguyên nhân kinh tế chứ không phải là nguyên nhân chính trị hay tư tưởng. Mặt khác, Ph. Ăngghen cũng nhấn mạnh chiến tranh cũng góp phần vào việc phân chia giai cấp như những thủ đoạn cướp bóc, những hành vi bạo ngược đã góp phần thúc đẩy quá trình phân hóa giai cấp nhưng bản thân bạo lực chính trị không tạo ra chế độ tư hữu và giai cấp. Như vậy, sự xuất hiện và mất đi của những giai cấp cụ thể đều dựa trên lợi ích kinh tế. Vì vậy, muốn mất đi giai cấp thì không có gì khác là bảo vệ lợi ích cho tất cả các cá nhân trong xã hội. Tổng kết lại thì sự phân chia xã hội thành giai cấp diễn ra torng lịch sử bằng hai con đường: - Những người có chức có quyền trong bộ lạc chiếm hữu tài sản của công xã là của riêng và trở nên giàu có, tiến hành bóc lột nô lệ, tù binh qua chiến tranh. - Sự phân hóa trong bộ lạc dẫn đến các thành viên trong bộ lạc mất hết tư liệu sản xuất, phụ thuộc vào những người chiếm đoạt tư liệu sản xuất (giai cấp thống trị) họ tham gia ngày càng đông đảo vào hàng ngũ của những người nô lệ. 1.3. Kết cấu giai cấp: Từ khi xã hội phân chia thành giai cấp đến nay đều luôn tồn tại hai giai cấp cơ bản đối kháng gắn liền với phương thức sản xuất thống trị của xã hội đó. Đó là chủ nô và nô lệ trong chế độ nô lệ; địa chủ và nông nô trong chế độ phong kiến; tư sản và vô sản trong chế độ tư bản chủ nghĩa. Hai giai cấp của mỗi chế độ kinh tế – xã hội vừa là sản phẩm đích thực của chế độ kinh tế – xã hội vừa là giai cấp quyết định sự tồn tại và phát triển của hệ thống sản xuất trong xã hội đó. Trong đó, giai cấp thống trị là giai cấp tiêu biểu cho bản chất của chế độ kinh tế, xã hội đang tồn tại. Ngoài hai giai cấp cơ bản đó, thì mỗi kết cấu giai cấp xã hội còn có giai cấp không cơ bản (ví dụ là tập đoàn giai cấp tàn dư của phương thức sản xuất cũ hay là tập đoàn giai cấp là mầm móng của phương thức sản xuất tương lai, những tập đoàn giai cấp này chỉ là mầm móng hay là mầm móng tương lai của phương thức sản xuất đang tồn tại, chứ không phải là giai cấp cơ bản. Như đã đề cập ở trên thì còn có các tầng lớp trung gian, là sản phẩm của chính phương thức sản xuất đang thống trị, là kết quả của quá trình phân hóa xã hội không ngừng diễn ra trong xã hội. Nó không giữ địa vị cơ bản trong phương thức sản xuất đang tồn tại và rất dễ bị phân hóa, gia nhập vào giai cấp thống trị hoặc rơi vào các địa vị giai cấp bị trị. Đó là tầng lớp bình dân trong xã hội nô lệ, tầng lớp tiểu tư sản thành thị và nông thôn trong xã hội tư bản. Xã hội có giai cấp nào cũng tồn tại một tầng lớp xã hội có vai trò quan trọng về kinh tế – xã hội – chính trị – văn hóa, đó là tầng lớp tri thức. Một câu hỏi đặt ra, vậy tri thức có phải là một giai cấp hay một tầng lớp đặc biệt đứng ngoài giai cấp. Tri thức là khái niệm dùng để chỉ những người làm nghề thuộc về lao động trí óc chứ không phải là khái niệm dùng để chỉ giai cấp. Bản thân một tri thức nào đó cũng xuất thân từ một giai cấp nhất định. Đó chỉ là xuất thân của một tri thức, chứ tri thức chỉ là một tầng lớp chứ chưa được gọi là giai cấp vì nó không gắn với một phương thức sản xuất nào. 1.4. Đấu tranh giai cấp: Trong xã hội có giai cấp, quan hệ giai cấp là quan hệ trái ngược nhau về địa vị, lợi ích cả kinh tế lẫn tinh thần. Quan hệ đó dẫn đến mâu thuẩn giữa thống trị và bị trị; giữa áp bức và bị áp bức; giữa bóc lột và bị bóc lột. Các giai cấp, tầng lớp bị trị không những bị chiếm đoạt kết quả lao động của họ mà họ còn bị áp bức về chính trị, xã hội, tinh thần. Vì có áp bức giai cấp nên tất yếu có đấu tranh giai cấp, mâu thuẫn đối kháng giai cấp là nguyên nhân trực tiếp dẫn đến đấu tranh giai cấp. Chính vì vậy mà Lênin đã định nghĩa đấu tranh giai cấp là: “cuộc đấu tranh của quần chúng bị tước hết quyền, bị áp bức và lao động chống lại bọn đặc quyền, đặc lợi, bọn áp bức và bọn ăn bám; cuộc đấu tranh của những người công nhân làm thuê hay những người vô sản chống lại những người hữu sản hay giai cấp tư sản. Do vậy, thực chất của cuộc đấu tranh để giải quyết mâu thuẫn về mặt lợi ích của giai cấp bị thống trị, bị bóc lột, bị áp bức, chống lại sự bóc lột, áp bức của giai cấp thống trị. Nhưng chúng ta cũng cần lưu ý để tránh hiểu nhầm rằng, giai cấp bị trị, bị bóc lột chống lại giai cấp thống trị không phải là chống lại sự thống trị của giai cấp thống trị mà chống lại sự áp bức, bóc lột của giai cấp thống trị. Còn việc giai cấp nào nắm giữ địa vị thống trị đó là do lịch sử quyết định. Chẳng hạn, giai cấp công nhân tuy giữ địa vị thống trị nhưng không hề áp bức hay bóc lột giai cấp khác trong xã hội. Không có cái gì tự nhiên mà có cả, nếu mâu thuẩn đối kháng giai cấp là nguyên nhân trực tiếp của đấu tranh giai cấp thì nguyên nhân khách quan đó là sự phát triển mang tính xã hội hoá ngày càng sâu rộng của lực lượng sản xuất với quan hệ chiếm hữu tư nhân về tư liệu sản xuất. Biểu hiện về mặt xã hội đó là mâu thuẫn giai cấp lao động bị thống trị, bị áp bức với giai cấp thống trị, bóc lột, áp bức. Bởi vì giai cấp lao động luôn là lực lượng sản xuất chính của xã hội nên nó đại diện cho phương thức sản xuất mới, tiến bộ, hiện đại. Trong khi giai cấp thống trị, bóc lột thì lại dùng sức mạnh kinh tế, chính trị, tư tưởng, kể cả bạo lực để bảo vệ chế độ đương thời, nên nó luôn đại diện cho quan hệ sản xuất lỗi thời, lạc hậu. Các giai cấp bóc lột của các hình thái xã hội khác nhau cũng có thể đối kháng về lợi ích như giữa giai cấp tư sản và giai cấp phong kiến. Nhưng trước sự phản kháng của giai cấp bị bóc lột, chúng dễ dàng liên kết với nhau. Do đó, thực chất của đối kháng giai cấp là đối kháng lợi ích giữa giai cấp bị bóc lột và giai cấp bóc lột. Đấu tranh giai cấp không chỉ đơn thuần là giải quyết các mâu thuẫn đối kháng giữa các tầng lớp, giai cấp thống trị và bị trị trong xã hội mà đấu tranh giai cấp lại có một vai trò to lớn đối với sự phát triển của xã hội, chính là động lực phát triển của xã hội có giai cấp. 1.5. Đấu tranh giai cấp – một trong những động lực phát triển của xã hội có giai cấp: Vai trò động lực, thúc đẩy sự phát triển xã hội có giai cấp trước hết thể hiện ở chỗ thông qua đấu tranh giai cấp, sự xung đột giữa lực lượng sản xuất mang trình độ xã hội hóa cao với quan hệ sản xuất lỗi thời, lạc hậu được giải quyết, lúc đó tạo điều kiện thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển, giải phóng sức sản xuất xã hội, thay thế phương thức sản xuất cũ bằng phương thức sản xuất mới tiến bộ hơn. Mâu thuẫn này biểu hiện về mặt xã hội là mâu thuẫn giữa giai cấp cách mạng, đại biểu cho lực lượng sản xuất mới với giai cấp thống trị, bóc lột, giai cấp đại biểu cho những lợi ích gắn liền với quan hệ sản xuất lỗi thời nhưng còn đang thống trị. Mâu thuẫn đó được giải quyết bằng cuộc đấu tranh cách mạng mà đỉnh cao là cách mạng xã hội. Cuộc cách mạng này sẽ thay thế quan hệ sản xuất cũ bằng quan hệ sản xuất mới, mở ra địa bàn mới cho sản xuất xã hội phát triển. Đấu tranh giai cấp không những là động lực phát triển của xã hội có giai cấp trong thời kỳ cách mạng xã hội mà cả trong thời kỳ hoà bình (thời kỳ mà quan hệ sản xuất chưa mâu thuẫn gay gắt với lực lượng sản xuất). Lịch sử phát triển của chủ nghĩa tư bản cho thấy: “kể từ 1825 sự phát sinh và sử dụng máy móc chỉ là kết quả của cuộc đấu tranh giữa các chủ xí nghiệp và công nhân”. Sự chống đối của công nhân ngăn chặn chủ tư bản tăng lợi nhuận bằng con đường kéo dài ngày lao động, buộc họ phải chú ý sử dụng kỹ thuật hoàn thiện hơn để rút ngắn thời gian lao động cần thiết nhờ kết quả của việc nâng cao năng suất lao động. Những cải cách tiến bộ nhất ở mỗi nước nào đó là kết quả của cuộc đấu tranh giai cấp trong nước và áp lực của cuộc đấu tranh giai cấp ở các nước trẹn thế giới. Đấu tranh giai cấp chẳng những có tác dụng cải tạo xã hội, xóa bỏ các lực lượng xã hội phản động mà còn có tác dụng cải tạo bản thân giai cấp cách mạng. Giai cấp nào đại biểu cho phương thức sản xuất mới, giai cấp đó sẽ lãnh đạo cách mạng. Một khi đã trở thành lực lượng lãnh đạo cách mạng thì giai cấp đó sẽ trưởng thành trong nhận thức và hành động. Thành tựu mà loài người đạt được trong tiến trình phát triển của lực lượng sản xuất, cách mạng khoa học và công nghệ, cải cách về dân chủ và tiến bộ xã hội,… không tách rời cuộc đấu tranh giai cấp giữa giai cấp tiến bộ chống lại các thế lực thù địch, phản động. Vai trò của đấu tranh giai cấp đối với sự phát triển của lịch sử tùy thuộc vào tính chất, trình độ phát triển của các cuộc đấu tranh. Những cuộc đấu tranh mang tính chất quần chúng rộng lớn do lực lượng xã hội tiến bộ lãnh đạo được tổ chức khoa học có tác dụng đặc biệt to lớn trong việc đánh đổ sự thống trị của giai cấp phản động, thúc đẩy xã hội phát triển. Trong xã hội có giai cấp, sự phát triển của các mặt văn hóa, nghệ thuật và các mặt khác của đời sống xã hội là do cuộc đấu tranh giai cấp thúc đẩy nên nó không thể không mang dấu ấn của đấu tranh giai cấp. Phần 2: CUỘC ĐẤU TRANH CỦA GIAI CẤP VÔ SẢN NÓI CHUNG VÀ CUỘC ĐẤU TRANH CỦA GIAI CẤP VÔ SẢN Ở NƯỚC TA NÓI RIÊNG Từ những lý luận đã trình bày ở trên, giúp ta có thể hiểu rõ hơn về đấu tranh giai cấp của giai cấp vô sản từ lúc chưa giành được chính quyền cho đến sau khi giành được chính quyền về tay giai cấp vô sản, đặc biệt là khi chuyên chính vô sản được thiết lập. 2.2. Tính chất, mục tiêu, nội dung của cuộc đấu tranh giai cấp vô sản: 2.3. Cuộc đấu tranh của giai cấp vô sản ở nước ta hiện nay: Cuộc đấu tranh của giai cấp vô sản ở nước ta có đặc trưng là gắn liền và được tiến hành ngay sau cuộc cách mạng giải phóng dân tộc dân chủ nhân dân. Ở Việt Nam, đấu tranh giai cấp trong giai đoạn quá độ hiện nay cũng là một tất yếu. Thật vậy, đất nước chúng ta đang ở thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội mà thời kỳ quá độ là thời kỳ tồn tại đan xen giữa cái cũ và cái mới. Cái cũ ở đây chính là giai cấp tư sản, mặc dù không còn giữ địa vị thống trị nhưng cơ sở kinh tế – xã hội của nó vẫn còn; cái mới chính là giai cấp công nhân dù đã giành được chính quyền nhưng khả năng, cơ sở kinh tế vẫn chưa vững chắc để đảm bảo cho chính quyền đang có, nền chuyên chính vô sản đang được thiết lập. Cho nên, vẫn còn phải đấu tranh, đấu tranh để xóa bỏ tận gốc tàn dư của cái cũ đang kìm hãm sự phát triển của cái mới. Hơn nữa, cùng với sự phát triển của chủ nghĩa tư bản, giai cấp tư sản đang phát triển thành hệ thống quốc tế, chúng liên minh tối đa để bóc lột giai cấp vô sản và do đó, giai cấp vô sản đấu tranh từng giờ từng phút từng giây. Mục tiêu của họ không chỉ là giành lại lợi ích riêng tư, giải phóng cho mình mà giành chính quyền để nhân dân lao động làm chủ, xóa bỏ tận gốc, triệt để người bóc lột người. Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Đảng ta tiếp tục khẳng định rằng, hiện nay và cả trong thời kỳ quá độ của nước ta còn tồn tại một cách khách quan các giai cấp và đấu tranh giai cấp. Nhưng đấu tranh giai cấp hiện nay phải nhận thức cho đúng, nó diễn ra trong điều kiện mới với những nội dung và hình thức mới. Thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội hiện nay mà nhất là xu hướng toàn cầu hóa ngày càng cao đã đặt nước ta trước nhiều nguy cơ và thử thách. Dĩ nhiên cũng tạo cho ta nhiều cơ hội hòa nhập dễ dàng hơn vào thị trường thế giới. Và Hội nghị Đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ (1-1999) của Đảng xác định 4 nguy cơ đến nay vẫn tồn tại và có nhiều diễn biến hơn, đó là: tụt hậu về kinh tế, diễn biến hòa bình, nguy cơ chệch hướng XHCN và nguy cơ nạn tham nhũng. Để giữ vững độc lập dân tộc và định hướng XHCN đưa đất nước thoát ra khỏi những nguy cơ trên thì các giai cấp, tầng lớp xã hội phải hợp tác, đoàn kết trong mặt trận dân tộc thống nhất dưới sự lãnh đạo của Đảng như đã từng hợp tác, đoàn kết trong thời kỳ giành độc lập dân tộc. Đấu tranh giai cấp diễn ra trong những điều kiện mới như sau: + Nước ta đang ở trong thời kỳ quá độ lên CNXH chứ chưa thật sự trên con đường xã hội chủ nghĩa. + Chủ nghĩa tư bản đang phát triển rất mạnh trên thế giới. + Xu thế hội nhập khu vực và thế giới ngày càng gia tăng. Mối quan hệ của các giai cấp, sự phát triển của các giai cấp trong sự nghiệp xây dựng đất nước, bảo vệ tổ quốc dưới sự lãnh đạo của Đảng và sự lãnh đạo của Nhà nước không còn như trước đây. Ngày nay, mối quan hệ giữa các giai cấp, các tầng lớp chủ yếu là mối quan hệ hợp tác và đấu tranh trong nội bộ nhân dân nhằm tăng cường đoàn kết trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc dưới sự lãnh đạo của Đảng. Phần 3: THỰC TIỄN CUỘC ĐẤU TRANH GIAI CẤP TRONG THỜI KỲ QUÁ ĐỘ LÊN CNXH Ở NƯỚC TA TRONG XU THẾ TOÀN CẦU HÓA 3.1. Nội dung chủ yếu của cuộc đấu tranh giai cấp trong thời kỳ hiện nay: Thứ nhất, Nội dung cơ bản của cuộc đấu tranh giai cấp trong thời kỳ quá độ lên CNXH là cuộc đấu tranh giữa hai con đường TBCN và XHCN. Đúng vậy, chúng ta đang tiến hành công nghiệp hóa, hiện đại hóa với nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, Thực tế tiềm ẩn nhiều khuynh hướng phát triển trái ngược nhau, có khuynh hướng phát triển tự phát lên CNTB và cả khuynh hướng tự giác theo định hướng XHCN. Theo đó, khuynh hướng tự phát lên CNTB được các thế lực thù địch chống đối độc lập dân tộc và CNXH lợi dụng, khuyến khích, ủng hộ tiếp tay dưới nhiều hình thức (chúng đã dùng chiến lược diễn biến hòa bình để làm điều đó). Nó biểu hiện một cách tinh vi và phức tạp với nhiều mức độ khác nhau trên tất cả các lĩnh vực: kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội,… Do đó, đấu tranh giai cấp hiện nay chính là cuộc đấu tranh chống khuynh hướng tự phát lên CNTB. Cuộc đấu tranh này vô cùng gay go, phức tạpvà gian nan. Chúng ta quá độ lên CNXH bỏ qua chế độ TBCN mà cuộc đấu tranh này lại càng khó khăn hơn. Vì vừa phải ngăn chặn khuynh hướng tự phát lên CNTB nhưng phải giữ lại và phát triển các nhân tố kinh tế trung gian, quá độ thậm chí phải phát triển CNTB trong một “giới hạn” có lợi về kinh tế nhằm tạo tiền đề vật chất – kỹ thuật để lên CNXH. Thà là xóa bỏ sự tồn tại của giai cấp tư sản (nhưng trong thực tế chúng ta chưa thể làm được điều này khi lực lượng sản xuất của chúng ta chưa phát triển đến mức cao), tức còn dễ hơn là việc phải tạo điều kiện cho quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa nhưng luôn trong trạng thái canh chừng, vẫn phát triển và duy trì nó nhưng không để cho nó giữ vai trò thống trị. Như vậy, nhìn ở góc độ khái quát, đấu tranh giai cấp trong thời kỳ mới là đấu tranh giữa hai khuynh hướng vận động trái ngược nhau, đó là khuynh hướng vận động khách quan mang tính tự phát của các nhân tố tiền TBCN, TBCN và khuynh hướng khách quan mang tính tự giác của các nhân tố XHCN. Thứ hai, Nội dung chủ yếu của đấu tranh giai cấp trong giai đoạn hiện nay ở nước ta là thực hiện thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa theo định hướng XHCN. Những diễn biến hết sức phức tạp trên thế giới và trong nước thời gian qua cho thấy độc lập dân tộc chưa thực sự bền vững khi đất nước còn nghèo, chưa phát triển, định hướng XHCN không thể giữ vững khi đất nước chưa vượt khỏi tình trạng chậm phát triển. Vì vậy, chúng ta phải bằng mọi cách phát huy toàn bộ sức mạnh của các giai cấp, tầng lớp xã hội hướng vào nhiệm vụ trung tâm của giai đoạn hiện nay là thực hiện thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Đặc biệt khi mà sự chống đối từ bên trong của một số phần tử vẫn chưa chấm dứt và sự tiếp tay cho sự chống đối đó từ bên ngoài vẫn còn là một thực tế. Với cách hiểu vấn đề như vậy, giúp chúng ta nhận thức đúng nhiệm vụ trung tâm của thời kỳ quá độ là nhanh chóng phát triển lực lượng sản xuất, thực hiện thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Rõ ràng, sự kém phát triển hay phát triển chậm là nguyên nhân đất nước bị phụ thuộc, mất độc lập, mất tự chủ và đứng bên ngoài quá trình toàn cầu hóa. Thua kém về kinh tế sẽ làm suy yếu về vị thế chính trị quốc tế và trong điều kiện như vậy sẽ khó giữ được ổn định chính trị trong nước. Do điểm xuất phát thấp lại bỏ qua chế độ TBCN nên các nhân tố tiền TBCN không hoàn toàn là những nhân tố tàn dư do xã hội cũ để lại. Vì thế cuộc đấu tranh “ai thắng ai” giữa hai khuynh hướng không có nghĩa là loại bỏ tất cả các nhân tố của khuynh hướng TBCN khi bản thân nó chưa hết vai trò lịch sử nên nhà nước vô sản cần tạo điều kiện để các nhân tố ấy vận động trong khuôn khổ của pháp luật. 3.2. Đấu tranh toàn diện trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội: * Đấu tranh trong lĩnh vực kinh tế: Đảng ta đã khẳng định các thành phần kinh tế bình đẳng cùng phát triển trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Chủ trương này không nhằm mục đích nào khác mà hướng tới phát huy mọi tiềm năng của dân tộc và đáp ứng lợi ích của giai cấp, tầng lớp trong xã hội, giải phóng sức sản xuất, tạo động lực cho xã hội phát triển. Mọi giai cấp, tầng lớp xã hội đều tìm thấy lợi ích hợp pháp của giai cấp mình trong mục tiêu chung độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, dân chủ, văn minh. Mặt khác, hướng tới hợp tác đoàn kết giai cấp, tầng lớp trên phương diện xã hội, Đảng khẳng định: “Tôn trọng những ý kiến khác nhau không trái với lợi ích chung của dân tộc, xóa bỏ mặc cảm, định kiến phân biệt đối xử về quá khứ, giai cấp thành phần, xây dựng tinh thần cởi mở, tin cậy lẫn nhau, hướng tới tương lai”. Nhờ vậy mà trong những năm đổi mới, nước ta đã nhận được nhiều sự đóng góp của các doanh nghiệp trong nước, những người công nhân ở nước ngoài, những người tiểu chủ, tiểu thương,… cả về vốn , kinh nghiệm, tri thức và cả bầu nhiệt huyết. Cho nên, đấu tranh ở đây là ngăn chặn những biểu hiện tiêu cực của các tầng lớp tư sản nhằm thực hiện chủ trương hợp tác, đoàn kết vì mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Tuy nhiên bản thân của nền kinh tế nhiều thành phần tự nó tiềm tàng khả năng phát triển theo hướng TBCN, mà điều đó càng thuận lợi hơn trong bối cảnh toàn cầu hóa TBCN. Chính vì vậy mà Văn kiện Đại hội Đảng lần IX khẳng định: “Đảng và Nhà nước ta chủ trương thực hiện nhất quán và lâu dài chính sách phát triển nền kinh tế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng XHCN”. Nếu không có sự lãnh đạo của Đảng và sự quản lý của Nhà nước thì kinh tế tư bản tư nhân có khả năng tạo thành cơ sở xã hội, tạo khả năng khách quan cho sự phát triển của CNTB. Do vậy, đấu tranh trên lĩnh vực kinh tế nhằm đảm bảo vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước trong nền kinh tế nhiều thành phần của nước ta hiện nay. Tóm lại, ngoài giai cấp công nhân, nông dân, tầng lớp tri thức, nước ta còn tồn tại những nhà doanh nghiệp, người sản xuất hàng hóa nhỏ, tiểu chủ, tiểu thương. Trong giai đoạn hiện nay, để phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, các giai tầng đều có vai trò nhất định, song để giữ vững định hướng XHCN, giai cấp công nhân và liên minh của nó phải trở thành lực lượng đại diện cho dân tộc. * Cuộc đấu tranh trên lĩnh vực văn hóa: Trong giai đoạn hiện nay, khi nền độc lập về chính trị của các quốc gia, dân tộc đã được pháp luật quốc tế thừa nhận và hội nhập kinh tế toàn cầu trở thành quá trình không thể đảo ngược, đấu tranh vì lợi ích dân tộc được triển khai mạnh mẽ trên cả lĩnh vực văn hóa. Đấu tranh trên lĩnh vực văn hóa để chống lại sự đồng hóa, bài trừ tệ nô dịch, củng cố những giá trị truyền thống và tôn trọng những bản sắc đặc trưng của dân tộc, đẩy mạnh phát triển tín ngưỡng, ngôn ngữ văn học nghệ thuật dân tộc. Sự bành trướng nô dịch của CNĐQ trên lĩnh vực văn hóa đối với thế giới thứ 3 được thực hiện bằng các phương tiện thông tin đại chúng, mạng lưới xuất bản phim ảnh, lối sống,… Nó còn được sự hỗ trợ lợi hại của nền kinh tế tư bản chủ nghĩa khổng lồ và của hệ thống quyền lực chính trị “sen đầm quốc tế” hùng hậu. Một khi vẫn vẫn tồn tại các thế lực muốn giành kéo quyền phán xét về các vấn đề dân tộc, nhân quyền tự do và phát triển trên toàn thế giới thì cuộc đấu tranh vì độc lập và chủ quyền đấu tranh vẫn là nhiệm vụ quan trọng và cấp thiết. Đấu tranh giai cấp ở nước ta hiện nay biểu hiện nội dung rộng lớn, hình thức phong phú, tính chất phức tạp, diễn ra hàng ngày, hằng giờ không chỉ trên lĩnh vực kinh tế, văn hóa mà nó còn diễn ra khá phức tạp trên lĩnh vực tư tưởng và cả an ninh quốc gia, trật tự xã hội. Trước hết, đấu tranh trên lĩnh vực tư tưởng để khắc phục những tư tưởng, hành động tiêu cực, sai trái: “ đấu tranh giai cấp trên lĩnh vực tư tưởng gắn liền với cuộc đấu tranh chống tệ quan liêu, tham nhũng. Đặc biệt là khi tệ quan liêu, tham những đã trở thành nguy cơ đe dọa, cản trở sự phát triển của đất nước thì đấu tranh giai cấp hiện nay cũng chính là cuộc đấu tranh chống tình trạng tham nhũng, suy thoái về tư tưởng, chính trị, đạo đức , lối sống của một bộ phận không nhỏ cán bộ Đảng viên. Đó là cuộc đấu tranh không dễ dàng và không kém phần quyết liệt. Chúng ta cũng không được quên rằng, hiện nay có một số thế lực bên ngoài chẳng ưa thích gì sự tồn tại của nước ta, của chế độ ta. Các thế lực đó cũng chẳng ngần ngại gì trong việc dùng mọi cách đánh phá ta từ bên trong thông qua những kẻ chống đối, những phần tử thoái hóa, biến chất và những tệ nạn khác nhau. Theo đó, cuộc đấu tranh để làm trong sạch nội bộ sẽ góp phần vào việc bảo vệ chế độ, bảo vệ độc lập dân tộc và thành quả cách mạng; là một bộ phận không tách rời của cuộc đấu tranh giai cấp. Điều đáng sợ nhất lúc này là sự thoái hóa từ bên trong cũng là căn bệnh truyền nhiễm đáng sợ làm suy yếu đất nước, suy yếu chế độ. Từ khi chuyển sang c

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc10394.doc