Tiểu luận Vấn đề nâng cao hiệu quả hoạt động của các cơ quan hành chính nhà nước ta hiện nay

 

Mục lục

Trang

 

A. Lời mở đầu 1 B. Giải quyết vấn đề 1

I- Cơ quan hành chính và các nhân tố ảnh hưởng đến hiệu quả hoạt

động của các cơ quan hành chính nhà nước 1

1. Cơ quan hành chính nhà nước 1 2. Một số nhân tố ảnh hưởng đến hiệu quả hoạt động của các cơ

quan nhà nước. 2

 

II- Thực trạng hiệu quả hoạt động quản lý hành chính nhà nước 3

1. Những kết quả đã đạt được 3

2. Những hạn chế, yếu kém của cơ quan hành chính nhà nước 4

3. Nguyên nhân của những tồn tại, yếu kém 6

III-. Giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động của cơ quan hành

chính nhà nước 7

1. Cải cách thể chế 7

2. Cải cách tổ chức bộ máy hành chính 9

3. Đổi mới, nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ công chức 10

4. Cải cách hành chính công 11

5. Kết hợp cải cách hành chính với các cuộc cải cách khác .12

C- Kết luận 12 Danh sách tài liệu tham khảo 14

 

 

 

 

 

doc15 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 8976 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tiểu luận Vấn đề nâng cao hiệu quả hoạt động của các cơ quan hành chính nhà nước ta hiện nay, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
có mối quan hệ chặt chẽ với nhau nên khi một nhân tố thay đổi sẽ kéo theo các nhân tố khác thay đổi theo. Đó là các yếu tố như cơ cấu, tổ chức, chức năng của bộ máy cơ quan hành chính, đội ngũ cán bộ, công chức, công vụ... Chỉ cần làm rõ sự tác động, ảnh hưởng của các nhân tố, ta sẽ tìm ra nguyên nhân và phương hướng, giải pháp để nâng cao hiệu quả hoạt động của bộ máy hành chính nhà nước. Biểu hiện: Trước hết là thể chế pháp luật, đó là hành lang pháp lý để cơ quan, cán bộ, công chức thực hiện nhiệm vụ được giao, việc cụ thể hóa, xác định rõ ràng nhiệm vụ, quyền hạn giúp họ thực hiện hiệu quả chức năng của mình. Đối với cơ cấu, khi nói đến cơ cấu cơ bản của một cơ quan, người ta cần phải xét đến những vấn đề chủ yếu như sự phân công trong nội bộ tổ chức, việc sắp xếp nhiệm vụ công tác cho các chức danh khác nhau, làm thế nào để thực hiện sự điều hoà, phối hợp cần thiết nhằm bảo đảm thực hiện được mục tiêu tổng thể của cơ quan hành chính đó nói riêng và cả bộ máy nói chung. Các cấp độ của cơ cấu tổ chức của cơ quan hành chính cũng giống các cơ quan khác đó là phải gồm có 3 cấp độ như sau: Cấp độ cơ cấu vĩ mô: là cách sắp xếp, tổ chức vị trí, vai trò của từng cán bộ, công, nhân, viên chức trong cơ quan. Cấp độ vi mô: là cách qui định quyền hạn, trách nhiệm của từng vị trí mà cán bộ công nhân viên chức trong cơ quan nắm giữ. Hệ thống bổ trợ: bao gồm hệ thống điều hành của cơ quan, quá trình quản lý sự phát triển của cơ quan, hệ thống văn hoá công ty và hệ thống quản lý hoạt động cơ quan hành chính đó. Cơ quan sẽ không thực hiện có hiệu quả các chức năng của mình nếu 3 cấp cơ cấu này không được thiết lập một cách đúng mức để hỗ trợ cho hoạt động của mình. Cơ cấu, tổ chức hợp lý, sẽ tránh được sự chồng chéo, rườm rà, dễ dàng phối hợp điều chỉnh công việc trong khi thực hiện nhiệm vụ, tiết kiệm được thời gian, còn ngược lại nếu cơ cấu bất hợp lý, sẽ làm giảm hiệu quả hoạt đông. Bộ máy hành chính được coi là một hệ thống và mỗi cơ quan hành chính là một bộ phận, cả hệ thống chỉ hoạt động tốt khi mỗi bộ phận vừa thực hiện tốt nhiệm vụ của mình vừa phối hợp tốt với các bộ phận khác để hoàn thành được mục tiêu chung. Ngoài ra, năng lực, phẩm cách của đội ngũ cán bộ, công chức là một trong những điều kiện tiên quyết bảo đảm cho quá trình hoạt động diễn ra đạt kết quả tốt. Đội ngũ cán bộ, công chức là nguồn lực chủ yếu của hệ thống quản lý hành chính có thể vận hành và hoàn thành chức năng, nhiệm vụ được giao. Do tình hình kinh tế, xã hội thường xuyên thay đổi đòi hỏi phải liên tục phát triển năng lực, giáo dục về phẩm chất của tất cả cán bộ, công chức trong hệ thống quản lý hành chính, vì đó cũng là một nhân tố quyết định đến hiệu quả của bộ máy hành chính. II. Thực trạng nâng cao hiệu quả hoạt động quản lý hành chính nhà nước 1 – Những kết quả đã đạt được 1.1 Hệ thống văn bản pháp luật hành chính từng bước đổi mới và hoàn thiện, góp phần xây dựng thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, tạo ra và củng cố nền dân chủ xã hội chủ nghĩa. Đã có sự tham gia của nhân dân vào các dich vụ công liên quan đến đời sống, phúc lợi của họ được hình thành phù hợp nền kinh tế. Khuôn khổ thể chế về tổ chức và hoạt động của hệ thống hânh chính nhà nước, về công chức, công vụ được chú trọng đổi mới để bảo đảm thích ứng với yêu cầu quản lý nhà nước trong điều kiện chuyển đổi này. Thủ tục hành chính trên các lĩnh vực được rà soát, sửa đổi theo hướng dần giản hoá, loại bỏ những khâu phiền hà, trùng lặp, bao gồm thủ tục hành chính trong quan hệ với dân, với doanh nghiệp và quan hệ giữa các cơ quan hành chính nhà nước với nhau. 1.2. Chức năng, nhiệm vụ của các cơ quan trọng hệ thống hành chính nhà nước  được điều chỉnh từng bước phù hợp với yêu cầu quản lý nhà nước trong kinh  tế thị trường. Chính phủ, các Bộ có tập trung nhiều hơn vào thực hiện chức năng quản lý nhà nước vĩ mô trong phạm vi cả nước, trên các lĩnh vực của đời sống kinh tế – xã hội; tập trung thời gian và nguồn lực vào việc thực hiện chức năng đích thực của mình là xây dựng chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, xây dựng và ban hành cơ chế, chính sách, thanh tra, kiểm tra việc tổ chức thực hiện, nguyên tắc mỗi việc chỉ do một cơ quan phụ trách, khắc phục sự trùng lặp, chồng chéo về chức năng, nhiệm vụ. Chính quyền địa phương được phân cáp nhiều hơn, nhất là trong các lĩnh vực ngân sách, tài chính, biên chế, đất đai, y tế, giáo dục v.v... 1.3. Cơ cấu tổ chức bộ máy hành chính nhà nước từ trung ương đến địa phương  được điều chỉnh, săp xếp tinh gọn, hợp lý hơn.Trên cơ sở quán triệt nguyên tăc tổ chức bộ đa ngành, đa lĩnh vực, cơ cấu tổ chức Chính phủ được điều chỉnh, thu gọn. Bước vào thời kì đổi mới (1986), số đầu mối các cơ quan của Chính phủ là 70 đến đại họi IX còn 48, vào thời điểm hiện nay còn 31 (22 Bộ, cơ quan ngang Bộ, 8 cơ quan thuộc Chính phủ). ở cấp tỉnh, số cơ quan chuyên môn  từ 35 đến 40 đầu mối nay giảm còn từ 20-25; cấp huyện từ 20 -25 nay giảm còn 10 -15 đâu mối các phòng ban chức năng. Cơ cấu bên trong các cơ quan của Chính phủ và chính quyền địa phương cũng có bước điều chỉnh theo hướng phân biệt rõ các đơn vị thực hiện chức năng quản lý nhà nước với các tổ chức sự nghiệp cung cấp dịch vụ công. 1.4. Chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức trong bộ máy hành chính nhà nước được nâng lên. Việc quản, sử dụng cán bộ, công chức được đổi mới một bước theo các quy định của pháp lệnh cán bộ công chức: từ khâu tuyển chọn, đánh giá, thi nâng ngạch, khen thưởng, kỷ luật đến đào tạo, bồi dưỡng. Chế độ chính sách tiền lương ngày càng được bảo đảm.VD: Sắp tới 01/05/2009, mức lương cơ bản sẽ răng từ 540 nghìn đồng lên 650 nghìn đồng. 1.5. Phương thức hoạt động của Chính phủ, các Bộ ngành trung ương và ủy ban nhân dân các cấp có bước đổi mới. Giảm tối đa sự can thiệp hành chính vào hoạt động của thị trường và doanh nghiệp. Các cơ quan nhà nước tập trung làm tốt chức năng định hướng phát triển, tạo lập môi trường pháp lý, cơ chế, chính sách thuận lợi để phát huy các nguồn lực, tăng cường quản lý nhà nước bằng pháp luật. Những nỗ lực cải cách, đơn giản hoá thủ tục hành chính, áp dụng phương  thức quản lý theo cơ chế “một cửa” cả ở ba cấp chính quyền địa phương (kết quả ở cấp tỉnh 100%, cấp huyện 98%, cấp xã 92% tính đến tháng 5/2007. Việc triển khai quy chế công khai tài chính, quy chế dân chủ ở cơ sở và trong cơ quan hành chính nhà nước v.v... đã góp phần đổi mới mối quan hệ giữa cơ quan hành chính nhà nước vơi dân, quan hệ giữa cơ quan hành chính nhà nước với nhau trong quá trình tổ chức thực hiện công việc và thực thi công vụ. 2 – Những hạn chế, yếu kém của hoạt động quản lý hành chính nhà nước. Tuy đã đạt được những kết quả quan trọng, nhưng so với yêu cầu của công cuộc đổi mới, phát triển kinh tế - xã hội và chủ động hội nhập quốc tế thì CCHC còn chậm, hiệu quả thấp. Nền hành chính còn bộc lộ một số tồn tại, yếu kém sau: 2.1. Hệ thống thể chế pháp luật vẫn còn chưa đồng bộ, thiếu nhất quán và trong một số lĩnh vực chưa bám sát quá trình chuyển đổi khó khăn và phức tạp, thể hiện ở chỗ một số luật, pháp lệnh đã ban hành nhưng các nghị định và thông tư hướng dẫn triển khai chậm được ban hành, chậm chuẩn bị và ban hành các văn bản dưới luật, pháp lệnh để hướng dẫn thi hành. Nhiều cơ quan nhà nước vẫn có xu hướng giữ thuận lợi cho hoạt động quản lý của mình nhiều hơn là đáp ứng nhu cầu tạo thuận lợi cho doanh nghiệp và người dân. Thủ tục hành chính vẫn chưa được cải cách đơn giản hoá triệt để, tính công khai minh bạch còn thấp, còn nhiều thủ tục hành chính không hợp lý, phức tạp, tiếp tục gây phiền hà cho dân và doanh nghiệp. 2.2. Chậm xác định rõ chức năng, nhiệm vụ quản lý hành chính nhà nước vĩ mô của các cơ quan trong hệ thống hành chính nhà nước, nhất là ở cấp Chính phủ và các Bộ. Chính phủ làm gì và làm đến đâu trong cơ chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, tương tự như vậy là các Bộ và chính quyền các cấp, đây vẫn là vấn đề còn chưa hoàn toàn được làm sáng tỏ, mối quan hệ giữa nhà nước với thị trường, giữa nhà nước với doanh nghiệp, trong đó có doanh nghiệp nhà nước vẫn chưa đủ rõ. 2.3. Tổ chức bộ máy hành chính nhà nước vẫn cồng kềnh, nhiều tầng nấc với 22 Bộ, cơ quan ngang Bộ và 8 cơ quan thuộc Chính phủ. Bộ máy hành chính ở cấp Trung ương còn quá lớn, số lượng tổ chức bên trong các Bộ, ngành còn nhiều và có xu hướng phình ra. Việc thực hiện phân cấp về ngành và lĩnh vực giữa trung ương và địa phương, giữa các cấp chính quyền địa phương còn chậm, vẫn chưa có sự phân biệt rõ về chức năng, nhiệm vụ và tổ chức bộ máy của chính quyền đô thị với chính quyền nông thôn. 2.4. Chế độ công vụ mới chậm hình thành đầy đủ, chất lượng cán bộ, công chức chưa đáp ứng với yêu cầu đổi mới, phát triển kinh tế - xã hội. Đội ngũ cán bộ, công chức còn bất cập về kỹ năng quản lý mới, thiếu tính nhạy bén thị trường, trách nhiệm thực thi công vụ chưa cao. Một bộ phận cán bộ, công chức suy thoái phẩm chất, đạo đức, tham nhũng. Rõ ràng, chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức đang là vấn đề có ý nghĩa sống còn không chỉ riêng của công cuộc CCHC mà của cả sự nghiệp đổi mới, xây dựng và bảo vệ đất nước. 2.5. Phương thức, lề lối làm việc còn thủ công, lạc hậu chưa đáp ứng yêu cầu chuyên nghiệp, hiện đại. Hoạt động của bộ máy hành chính nhà nước từ trung ương đến địa phương chưa thực sự thống nhất, thông suốt.  Quy trình làm việc của cán bộ, công chức nhìn chung còn thủ công, thiếu tính chuyên nghiệp. Dấu ấn của cơ chế tập trung quan liêu còn khá đậm nét trong điều hành và tổ chức công việc của các cơ quan và đội ngũ cán bộ, công chức ở tất cả các cấp. Họp hành nhiều, giấy tờ hành chính gia tăng, thẩm quyền và trách nhiệm giải quyết công việc của từng cán bộ, công chức không rõ; đặc biệt khâu phối hợp giữa các cơ quan hành chính nhà nước trong quá trình giải quyết công việc còn yếu. Trang bị thiết bị, điều kiện làm việc của cơ quan hành chính nhà nước nói chung còn nhiều hạn chế, không bảo đảm điều kiện làm việc và giải quyết công việc của dân. Việc triển khai áp dụng các giải pháp kỹ thuật và nhất là công nghệ tin học vào hoạt động quản lý nhà nước còn chậm, đạt hiệu quả thấp. Chủ trương hiện đại hoá nền hành chính, thu hẹp khoảng cách tụt hậu so với các nước trong khu vực như Chương trình tổng thể CCHC nhà nước giai đoạn 2001-2010 đã đề ra vẫn là một thách thức lớn. 3 – Nguyên nhân của những tồn tại, yếu kém 3.1. CCHC ở nước ta đang được triển khai cùng với một loạt các cuộc cải cách khác, đó là đổi mới từng bước hệ thống chính trị, cải cách lập pháp ,cải cách tư pháp, cải cách kinh tế, cải cách doanh nghiệp nhà nước...Nhiều vấn đề, vốn thuộc CCHC, nhưng tự thân CCHC không thể cải cách được, mà phải đặt trong tổng thể đổi mới hệ thống chính trị để xem xét giải quyết. Chính sự không đồng bộ của CCHC với các cuộc cải cách khác là một trong những nguyên nhân làm cho CCHC chậm, hiệu quả thấp. 3.2. CCHC hiệu quả chưa cao, có nguyên nhân về nhận thức. Nhận thức của chúng ta về một nhà nước pháp quyền XHCN dưới sự lãnh đạo của Đảng trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN còn rất hạn chế, điều đó cũng ảnh hưởng nhất định đến kết quả cải cách ở các lĩnh vực, trong đó có CCHC.  3.3.  Mặc dù mấy năm gần đây có những chuyển biến tích cực trong sự chỉ đạo của chính phủ, nhưng nhìn chung chưa có sự chỉ đạo kiên quyết, tập trung của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ đối với toàn bộ quá trình CCHC trong phạm vị cả nước . Các thành viên Chính phủ, Chủ tịch UBND các tỉnh chưa đặt thường xuyên thực hiện nhiệm vụ CCHC trong phạm vi trách nhiệm của mình. Ban chỉ đạo CCHC các cấp hoạt động còn hình thức, chưa phát huy vai trò, trách nhiệm giúp người đứng đầu cơ quan hành chính các cấp trong chỉ đạo và kiểm tra thực hiện các nhiệm vụ CCHC đã xác định           3.4. Chế độ công vụ, công chức mới chưa hoàn chỉnh, đội ngũ cán bộ côngchức còn chưa ngang tầm với yêu cầu nhiêm vụ quản lý mới trong quá trình chuyển đổi .Nhìn chung chưa tạo được động lực cho CCHC, trong đó có vấn đề chế độ chính sách cho đội ngũ cán bộ, công chức. Chế độ tiền lương vẫn chưa được cải cách cơ bản, chưa đảm bảo đời sống của cán bộ, công chức và gia đình họ. Điều này tác động không nhỏ đến động cơ và thái độ làm việc, đến những biểu hiện tiêu cực như: không an tâm làm việc, móc ngoặc, trục lợi, nhũng nhiễu trong một bộ phận cán bộ, công chức .           3.5. Ngoài những nguyên nhân chủ yếu trên đây, công tác CCHC còn gặp nhiều cản trở. Đáng chú ý là: một mặt nhận thức chưa đầy đủ về vị trí, tính chất, yêu cầu của CCHC, mặt khác CCHC đụng chạm đến bộ máy, con người nên rất khó khăn, phức tạp; mặt khác thói quen, nếp nghĩ, cách làm của đội ngũ cán bộ, công chức và của bản thân bộ máy hành chính còn mang nặng dấu ấn của cơ chế tập trung quan liêu bao cấp không dễ dàng thay đổi.           Những nguyên nhân và cản trở này cần phải được nhận thức đầy đủ để có những giải pháp khắc phục một cách có hiệu quả trong thời gian tới. III. Giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động của cơ quan hành chính nhà nước Phải hoàn thành chương trình tổng thể cải cách hành chính nhà nước giai đoạn 2001-2010 là xây dựng một nền hành chính dân chủ, trong sạch, vững mạnh, chuyên nghiệp, hiện đại hóa, hoạt động có hiệu lực, hiệu quả theo nguyên tắc của nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa dưới sự lãnh đạo của Đảng; xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức có phẩm chất và năng lực, đáp ứng yêu cầu của công cuộc xây dựng, phát triển đất nước. Đến năm 2010, hệ thống hành chính về cơ bản được cải cách phù hợp với yêu cầu quản lý nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Cần: 1 – Cải cách thể chế Theo cuốn "Từ điểnn tiếng Việt" năm 2008 của Trung tâm từ điển học, "thê chế là những quy định, luật lệ của một chế độ xã hội, buộc mọi người phải tuân theo". Thể chế là cấu trúc tổ chức và cơ chế vận hành của một hệ thống xã hội điều chỉnh hành vi của hai hay nhiều chủ thể khác nhau phù hợp với những điều kiện vật chất cụ thể nhất định. 1.1. Cần xây dựng mới và hoàn thiện các thể chế, bao gồm cả thể chế kinh tế, chú trọng về hoạt của hệ thống hành chính nhà nước. Biểu hiện đó là: - Thể chế về tổ chức và hoạt động của hệ thống hành chính, trước hết là tổ chức và hoạt động của Chính phủ, các Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc chính phủ và ủy ban nhân dân các cấp. (VD: cần tinh giảm hơn cơ cấu cơ quan hành chính như trước đây chúng ta đã làm, từ 28 Bộ, cơ quan ngang Bộ xuống còn 22 Bộ, cơ quan ngang Bộ; tăng cường hiệu quả hoạt động của phiên họp chính phủ, của Thủ tướng chính phủ, của các Bộ trưởng, hoàn thiện cơ chế chịu trách nhiệm. . . ) - Thể chế về quan hệ giữa Nhà nước với nhân dân như thu thập ý kiến của nhân dân trước khi quyết định các chủ trương, chính sách quan trọng, trưng cầu dân ý, kiên quyết xử lý các hành vi vi trái pháp luật của các cơ quan và cán bộ công chức nhà nước trong khi thi hành công vụ; thẩm quyền, trách nhiệm của cơ quan hành chính và Tòa án trong việc giải quyết khiếu kiện của nhân dân. 1.2. Cần thiết phải đổi mới quy trình xây dựng và ban hành văn bản pháp luật, tạo hành lang pháp lý cho hoạt động quản lý hành chính. - Rà soát và hệ thống hóa các văn bản quy phạm pháp luật theo từng lĩnh vực, loại bỏ những quy định của pháp luật không còn hiệu lực hoặc chồng chéo, trùng lặp. VD: Văn bản pháp luật của Bộ Tài chính được tập trung vào lĩnh vực tài chính, không được điều chỉnh các vấn đề thuộc thẩm quyền của Bộ khác, trừ các văn ban liên bộ; văn bản pháp luật của cơ quan hành chính cấp dưới cần phải phù hợp với văn bản pháp luật của cơ quan hành chính cấp trên. - Tăng cường năng lực của các cơ quan hành chính nhà nước trong việc xây dựng và ban hành văn bản quy phạm pháp luật. Khắc phục tình trạng luật, pháp lệnh đã được ban hành ra lại không thể áp dụng vì còn phải chờ nghị định, thông tư hướng dẫn thi hành, sẽ mất thời gian, không đáp ứng được tính cấp thiết kịp thời. - Ban hành các quy định cần đảm bảo có sự tham gia có hiệu quả của nhân dân vào quá trình xây dựng pháp luật, tổ chức tốt việc lấy ý kiến đóng góp của nhân dân, những đối tượng điều chỉnh của pháp luật hành chính. Thực tế cho thấy để hoạt động quản lý diễn ra một cách dễ dàng cần có sự tích cực tham gia, chấp hành của nhân dân. Vì vậy, việc đi sâu vào tìm hiểu tâm tư, nguyện vọng của nhân dân là cần thiết. Ngoài ra, văn bản pháp luật sau khi được ban hành, phải được đăng công báo, đưa tin, tuyên truiyền cho nhân dân được biết, từ đó góp phần giáo giục nhân dân trong vấn đề chấp hành pháp luật. 1.3. Bảo đảm việc tổ chức thực thi pháp luật nghiêm minh của cơ quan nhà nước, cán bộ công chức. - Cần cung cấp cho cán bộ, công chức đầy đủ thông tin về chính sách, luật của nhà nước để vận dụng giải quyết công việc theo chức trách và thẩm quyền, nói cho đúng hơn là phải “bắt” họ học luật, không để tình trạng cảnh sát giao thông không biết luật giao thông như vừa rồi. - Phát huy hiệu quả hoạt động của các cơ quan thanh tra, kiểm sat và tài phán để bảo đảm hiệu lực quản lý nhà nước, giữ gìn kỉ cương xã hội. Phân định rõ trách nhiệm của các cơ quan thanh tra và tòa hành chính trong việc xử lý các khiếu kiện của nhân dân đối với các cơ quan, cán bộ, công chức. - Ngoài ra cần thiết phải mở rộng dịch vụ tư vấn pháp luật cho nhân dân, cho người nghèo, người thuộc diện chính sách và đồng bào ít người, sùng sâu, vùng xa. Tạo điều kiẹn cho các luật sư hoạt động tư vấn có hiệu quả theo pháp luật. Thứ tư, tiếp tục cải cách thủ tục hành chính. - Phải đảm bảo tính pháp lý, hiệu quả, minh bạch và công bằng trong khi giải quyết công việc hành chính. Xóa bỏ những thủ tục rườm rà, chồng chéo dễ bị lợi dụng để tham những, gây khó khăn cho nhân dân. Mở rộng CCHC trong tất cả các lĩnh vực, xóa bỏ kịp thời những quy định không cần thiết về cấp phép, thanh tra, kiểm tra. . . - Ban hành cơ chế kiểm tra cán bộ, công chức, tiếp nhận và giải quyết công việc của dân, kiên quyết xử lý nghiêm minh đối với người có hành vi sách nhiễu, hách dịch, vô trách nhiệm, khen thưởng những người hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ được giao. - Mở rộng có chọn lọc đối với cơ chế một cửa trong việc giải quyết công việc của cá nhân và tổ chức ở các cơ quan hành chính nhà nước các cấp Cơ quan hành chính các cấp có trách nhiệm giải quyết công việc của cá nhân và tổ chức phải niêm yết công khai,đầy đủ mọi thủ tục, trình tự lệ phí,lịch công tác ngay tại trụ sở. 2 – Cải cách tổ chức bộ máy hành chính. 2.1. Cần phải điều chỉnh chức năng, nhiệm vụ của chính phủ, các bộ và cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc chính phủ và ủy ban nhân các cấp cho phù hợp với yêu cầu quản lý nhà nước trong tình hình mới. Cụ thể: - Chính phủ, các Bộ và cơ quan ngang Bộ tập trung xây dựng, ban hành chính sách kế hoạch quản lý vĩ mô. Phân định rõ thẩm quyền và trách nhiệm của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ,các Bộ trưởng, thủ trưởng cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc chính phủ, trách nhiệm của tổ chức và trách nhiệm của cá nhân trong cơ quan hành chính các cấp. VD: Chính phủ là cơ quan chấp hành của quốc hội , là cơ quan hành chính nhà nước cao nhất. Khi thực hiện thẩm quyền của mình, Chính phủ thảo luận tập thể và quyết định theo đa số. Những công việc khác không thuộc thẩm quyền của chính phủ, do thủ tướng chính phủ quyết định thì Chính phủ không được can thiệp vào. Thủ tướng Chính phủ vừa phải chịu trách nhiệm tập thể vừa phải chịu trách nhiệm cá nhân. . . 2.2. Định rõ nhiệm vụ, quyền hạn của cơ quan hành chính địa phương phù hợp với yêu cầu đổi mới sự phân cấp quản lý hành chính giữa trung ương và địa phương.Cụ thể: gắn phân công việc với phân cấp về tài chín, tổ chức và cán bộ. Định rõ những loại việc địa phương toàn quyền giải quyết, những việc trước khi địa phương quyết định phải có ý kiến của trung ương và những việc phải quyết định theo quyết định của trung ương. 2.3. Cải tiến phương thức quản lý, lề lối làm việc của cơ quan hành chính các cấp: xác định rõ các nguyên tắc làm việc và quy chế phối hợp trong sự vận hành bộ máy hành chính. Định rõ thẩm quyền, trách nhiệm của người đứng đầu cơ quan đơn vị về kết quả hoạt động của cơ quan do mình phụ trách. Đồng thời, loại bỏ những việc làm mang tính hình thức, không có hiệu quả thiết thực, giảm hội họp, giảm giấy tờ, thủ tục hành chính. 2.4. Cải cách cơ cấu tổ chức của cơ quan hành chính nhà nước. Từng bước tinh giảm, hạn chế sự cồng kềnh, tốn kém trên cơ sở sáp nhập một số cơ quan hành chính nhà nước có thẩm quyền chuyên môn ở trung ương; sắp xếp lại các cơ quan chuyên môn thuộc ủy ban nhân dân các cấo theo hướng phân định trách nhiệm rõ ràng, phân công rành mạch, bộ máy gọn nhẹ, tăng cường tính chuyên nghiệp, giải quyết nhanh công việc được giao. 2.5. Từng bước hiện đại hóa nền hành chính: tăng cường đầu tư công nghệ thông tin, trang thiết bị hiện đại từ trung ương đến địa phương nhằm nâng cao tốc độ làm việc, hiệu quả hoạt động chỉ đạo, điều hành. VD: hoạt động của chính phủ điện tử hay những diễn đàn, cuộc họp trực tuyến. . . 3 – Đổi mới, nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ công chức 3.1 Vấn đề đổi mới công tác quản lý, đào tạo và quản lý cán bộ. Cần điều tra, đánh giá lại chất lượng đội ngũ cán bộ, tinh giản biên chế trong cơ quan hành chính nhà nước những cán bộ, công chức không đủ năng lực, từ đó lập kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng và quản lý, xây dựng hệ thống dữ liệu cán bộ, công chức, từng bước quản lý cán bộ công chức băng hệ thống tin học trong cơ quan hành chính nhà nước. Bên cạnh đó, cần sửa đổi, bổ sung hệ thống ngạch , các quy định hiện hành về tiêu chuẩn chức vụ, chức danh cán bộ công chức, hoàn thiện hệ thống tiêu chuẩn cán bộ phù hợp thực tiễn Việt Nam, với yêu cầu công tác chuyên môn từng lĩnh vực, cơ cấu cán bộ, công chức hợp lý và phải gắn với chức năng, nhiệm vụ. . . Ngoài ra, cần thiết phải hoàn thiện chế độ tuyển dụng cán bộ, công chức thực hiện quy chế mới, đánh giá, khen thưởng, kỷ luật đối với cán bộ, công chức để nâng cao chất lượng công vụ, cơ chế thi tuyển phải đảm bảo tính dân chủ, công bằng, chọn đúng người có tiêu chuẩn vào bộ máy nhà nước, như thế mới không bỏ sót nhân tài. Hơn nữa, cần tiếp tục đổi mới nội dung, chương trình và phương thức đào tạo, bồi dưỡng, chú trọng nâng cao kiến thức, kĩ năng hành chính cho cán bộ, công chức theo chức trách, nhiệm vụ đang đảm nhận. Mỗi loại cán bộ, công chức có chương trình, nội dung đào tạo, bồi dưỡng phù hợp; nếu có điều kiện, nên cử cán bộ, công chức đi đào tạo tại nước ngoài để học hỏi kinh nghiệm quản lý hành chính của nước bạn rồi về áp dụng cho nền hành chính nước nhà. . . 3.2. Cải cách tiền lương và các chế độ, chính sách đãi ngộ. Hiện nay, dư luận xã hội đang xôn xao về vấn đề chảy máu chất xám, chủ yếu là vì vấn đề này, tế nhị nhưng lại động đến kinh tế. Tiền lương chính là hình thức đầu tư trực tiếp cho con người, đầu tư cho phát triển kinh tế-xã hội, góp phần nâng cao lực lượng cán bộ, công chức và hoạt động công vụ. Chính vì thế, phải nâng cao mức lương tối thiểu cho cán bộ, công chức đủ sống bằng lương. Cải cách hệ thống bảng lương dựa trên cơ sở xem xét tính chất và đặc điểm lao động của các loại cán bộ, công chức; điều chỉnh bộ số và hệ số tiền lương trong các thang, bảng lương. VD: từ 01/05/2009, mức lương tối thiểu sẽ tăng từ 540 nghìn đồng lên 650 nghìn đồng, thiết nghĩ đó không phải là con số lớn vì hầu như cán bộ công chức không có nghề tay trái, nên họ không có bất kì nguồn thu nhập nào khác...Ngoài ra, cần ban hành mới, sửa đổi và phải thực hiện triệt để các quy định về tiền thưởng và phụ cấp theo lĩnh vực, chuyên môn, nghiệp vụ cán bộ, công chức cho cán bộ, công chức làm việc trong điều kiện khó khăn, nguy hiểm độc hại . . . 3.3. Nâng cao tinh thần trách nhiệm và đạo đức cán bộ, công chức. Đây là một trong những vấn đề quan trong nhất vì nó liên quan đến cái “đức” của cán bộ, công chức. Bác Hồ đã từng nói: “Có tài mà không có đức là người vô dụng, có đức mà không có tài thì làm việc gì cũng khó”. Như vậy, theo Bác, đức mới là cái quan trọng hơn đối với một người là công bộc của nhân dân. Để thực hiện điều này, cần thiết phải tăng cường các biện pháp giáo dục cán bộ, công chức về tinh thần trách nhiệm, ý thức tận tâm, tận tụy với công việc. Xây dựng tiêu chuẩn đạo đức nghề nghiệp cán bộ, công chức. Tôn vinh nghề nghiệp, danh dự của người cán bộ, công chức. Ngoài ra, cần đẩy mạnh hơn nữa cuộc đấu tranh chống quan liêu, tham nhũng trong bộ máy nhà nước. Thực hiện chế độ kiểm toán và các chế độ bảo vệ công sản và ngân sách nhà nước. 4 – Cải cách hành chính công Tài chính công được hiểu là các hoạt động thu chi bằng tiền của nhà nước, phản ánh hệ thống các quan hệ kinh tế dưới hình thức giá trị trong quá trình hình thành và sử dụng các quỹ tiền tệ của nhà nước nhằm phục vụ việc thực hiện chức năng vốn có của nhà nước đối với xã hội. 4.1. Cần đổi mới cơ chế phân cấp hợp lý về quản lý tài chính và ngân sách, bảo đảm thống nhất của hệ thống tài chính quốc gia với vai trò chỉ đạo của ngân sách trung ương; đồng thời, phát huy tính chủ động, năng động, sáng tạo, tự quyết và nâng cao trách nhiệm của địa phương, các ngành trong việc điều hành tài chính và ngân sách. 4.2. Phải xóa bỏ ngay cơ chế cấp phát tài chính theo kiểu “xin – cho”, ban hành các cơ chế tự chủ tài chính cho các đơn vị sự nghiệp có điều kiện như trường đại học, bệnh viện, viện

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docHanh_chinh_2_nhom.doc
Tài liệu liên quan