Tiểu luận Vấn đề thanh tra, kiểm tra và xử lý vi phạm pháp luật thuế - Thực trạng và những vấn đề cần hoàn thiện ở Việt Nam hiện nay

Trong thời kỳ trước khi Luật quản lý thuế năm 2006 được thông qua, do cơ sở pháp lý cho hoạt động thanh tra, kiểm tra và xử lý vi phạm pháp luật thuế bộc lộ nhiều vấn đề “yếu kém” nên họat động này thực sự chưa phát huy được vai trò, hiệu quả của nó, chưa thể là công cụ hữu hiệu để ngăn ngừa các hành vi vi phạm pháp luật thuế như các hành vi trốn thuế, lậu thuế Chỉ nhìn số liệu thống kê từ năm 1999 đến năm 2005 chỉ phát hiện 30% số vụ có trốn lậu thuế trong tổng số 915.993 vụ thanh tra, kiểm tra có thể thấy được thực trạng công tác này trong thời kỳ trước. Hiện nay, với cơ sở pháp lý cho họat động thanh tra, kiểm tra và xử lý vi phạm pháp luật thuế được hoàn thiện so với thời kỳ trước và nhiều yếu tố tích cực khác thực trạng triển khai việc thanh tra, kiểm tra và xử lý vi phạm pháp luật về thuế ở Việt Nam hiện nay đã có những cải thiện đáng kể, thực sư phát huy được phần nào vai trò của hoạt động này trong quản lý thuế.

doc13 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 4846 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tiểu luận Vấn đề thanh tra, kiểm tra và xử lý vi phạm pháp luật thuế - Thực trạng và những vấn đề cần hoàn thiện ở Việt Nam hiện nay, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ra, kiểm tra thuế và nhiệm vụ, quyền hạn của các chủ thể có thẩm quyền. Điều này tạo cơ sở quan trọng cho hoạt động thanh tra, kiểm tra có hiệu quả Thứ tư, pháp luật thuế quy định rõ về nội dung của công tác kiểm tra thuế. Cụ thể bao gồm kiểm tra tại trụ sở cơ quan thuế và kiểm tra tại trụ sở của người nộp thuế (quy định chi tiết tại Điều 77, 78 Luật quản lý thuế 2006). Đồng thời vấn đề về những nội dung thanh tra thuế cũng được Luật quản lý thuế quy định khá chi tiết và hợp lý bao gồm chỉ rõ đối tượng thanh tra thuế, có sự phân tách hai loại thanh tra thuế là thanh tra thuế theo kế hoạch và thanh tra thuế không theo kế hoạch với các đối tượng được xác định rõ. Thứ năm, Luật quản lý thuế còn quy định rõ các biện pháp áp dụng trong thanh tra đối với trường hợp có dấu hiệu trốn thuế, gian lận thuế. Khi có người nộp thuế có đủ dấu hiệu trốn thuế, gian lận thuế liên quan đến tổ chức, cá nhân khác hoặc khi dấu hiệu trốn thuế, gian lận thuế có tính chất phức tạp thì người có thẩm quyền có quyền áp dụng các biện pháp sau: Thu thập thông tin liên quan đến hành vi trốn thuế, gian lận thuế; Tạm giữ tài liệu, tang vật liên quan đến hành vi trốn thuế, gian lận thuế; Khám nơi cất giữ tài liệu ,tang vật liên quan đến hành vi trốn thuế, gian lận thuế. Thứ sáu, Luật quản lý thuế quy định khá cụ thể về việc xử lý kết quả kiểm tra, thanh tra thuế. Cụ thể: Căn cứ vào kết quả thanh tra, kiểm tra thủ trưởng cơ quan quản lý thuế ra quyết định xử lý về thuế, xử phạt vi phạm hành chính theo thẩm quyền hoặc đề nghị người có thẩm quyền ra quyết định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực thuế. Trường hợp kiểm tra, thanh tra thuế mà phát hiện hành vi trốn thuế, có dấu hiệu tội phạm thì trong thời hạn 10 ngày làm việc, kể từ ngày phát hiện cơ quan quản lý thuế chuyển hồ sơ cho cơ quan có thẩm quyền để điều tra theo quy định của pháp luật tố tụng hình sự. Cơ quan quản lý thuế có trách nhiệm phối hợp với cơ quan điều tra trong việc thực hiện điều tra tội phạm về thuế theo quy định củ pháp luật ä Các quy định của pháp luật về xử lý vi phạm pháp luật thuế cũng được quy định khá hợp lý và cụ thể: + Luật quản lý thuế chỉ rõ 4 hành vi vi phạm pháp luật về thuế của người nộp thuế bao gồm: Vi phạm các thủ tục thuế; Chậm nộp tiền thuế: Khai sai dẫn đến thiếu số tiền thuế phải nộp hoặc tăng số tiền thuế được hoàn; Trốn thuế, gian lận thuế. Đồng thời pháp luật cũng quy định rõ các hành vi vi phạm của cơ quan quản lý thuế, cán bộ công chức quản lý thuế; Ngân hàng thương mại, tổ chức tín dụng khác, người bảo lãnh tiền nộp thuế; tổ chức,cá nhân có liên quan. Như vậy, có thể thấ pháp luật đã bao quát hầu như các đối tượng có thể vi phạm pháp luật về thuế cũng như các hành vi vi phạm pháp luật về thuế mà các đối tượng này có thể mắc phải + Quy định các nguyên tắc, thủ tục để xử lý vi phạm pháp luật thuế. Quy định này tạo cơ sở quan trọng cũng như định hướng đúng đắn trong việc xử lý vi phạm pháp luật thuế. + Điều 105 đến 108 của Luật quản lý thuế đã xác định cụ thể các hành vi trong từng nhóm hành vi vi phạm pháp luật thuế và các chế tài áp dụng. Cách thức cử lý đối với các đối tượng có thẩm quyền, Ngân hàng thương mại, tổ chức tín dụng khác, người bảo lãnh tiền nộp thuế; tổ chức,cá nhân có liên quan cũng được xác định khá rõ ràng + Vấn đề về thẩm quyền xử phạt, thời hiệu xử phạt và miễn xử phạt cũng được đề cập đến và quy định khá hợp lý. à Như vậy, về cơ bản có thể thấy vấn đề thanh tra, kiểm tra và xử lý vi phạm pháp luật thuế được quy định khá đầy đủ, cụ thể, đáp ứng được yêu cầu pháp lý đặt ra đối với vấn đề này.Tuy nhiên, vẫn còn tồn tại một số quy định chưa thực sự hợp lý và cần phải làm rõ hơn. Pháp luật về thanh tra, kiểm tra và xử lý vi phạm thuế vẫn có những lỗ hổng nhất định cần được hoàn thiện. Điều này bộc lộ rõ trong quá trình áp dụng pháp luật trong vấn đề này trong thời gian qua 2) Thực trạng triển khai thanh tra, kiểm tra và sử lý vi phạm pháp luật thuế ở Việt Nam hiện nay Trong thời kỳ trước khi Luật quản lý thuế năm 2006 được thông qua, do cơ sở pháp lý cho hoạt động thanh tra, kiểm tra và xử lý vi phạm pháp luật thuế bộc lộ nhiều vấn đề “yếu kém” nên họat động này thực sự chưa phát huy được vai trò, hiệu quả của nó, chưa thể là công cụ hữu hiệu để ngăn ngừa các hành vi vi phạm pháp luật thuế như các hành vi trốn thuế, lậu thuế…Chỉ nhìn số liệu thống kê từ năm 1999 đến năm 2005 chỉ phát hiện 30% số vụ có trốn lậu thuế trong tổng số 915.993 vụ thanh tra, kiểm tra có thể thấy được thực trạng công tác này trong thời kỳ trước. Hiện nay, với cơ sở pháp lý cho họat động thanh tra, kiểm tra và xử lý vi phạm pháp luật thuế được hoàn thiện so với thời kỳ trước và nhiều yếu tố tích cực khác thực trạng triển khai việc thanh tra, kiểm tra và xử lý vi phạm pháp luật về thuế ở Việt Nam hiện nay đã có những cải thiện đáng kể, thực sư phát huy được phần nào vai trò của hoạt động này trong quản lý thuế. Cụ thể: ²Chỉ sau một năm Luật quản lý thuế có hiệu lực, theo đánh giá của các chuyên gia vấn đề thanh tra, kiểm tra và xử lý vi phạm pháp luật thuế đã đạt được một số kết quả nhất định như: Ý thức của người nộp thuế trong việc kê khai, nộp thuế tự giác và kịp thời hơn, do đó kết quả thu ngân sách ở hầu hết các địa phương chuyển biến tốt hơn. Tổng thu ngân sách 6 tháng cuối năm 2007 tăng 31,5% so với 6 tháng đầu năm 2007 (chưa thực hiện Luật QLT). Tổng thu ngân sách 6 tháng đầu năm 2008 tăng 37,8% so với cùng kỳ 2007... Theo VOV trong 6 tháng đầu năm 2011, số thu Ngân sách Nhà nước do ngành Thuế quản lý ước đạt gần 300.000 tỷ đồng, bằng 55,3% so dự toán, tăng 24,4% so cùng kỳ năm trước.50/63 địa phương trên cả nước có số thu đạt  hơn 52% dự toán pháp lệnh. Bên cạnh việc hoàn thành nhiệm vụ thu ngân sách nhà nước, ngành Thuế đã đẩy mạnh thanh tra, chống thất thu ngân sách. Toàn ngành đã thực hiện thanh, kiểm tra 7.262 đơn vị, truy thu 1.733 tỷ đồng vào Ngân sách Nhà nước. Kiểm tra 516.651 hồ sơ khai thuế tại trụ sở cơ quan thuế, ngành Thuế đề nghị điều chỉnh 7.161 hồ sơ, tăng nghĩa vụ thuế 153 tỷ đồng.... 6 tháng cuối năm ngành Thuế sẽ tăng cường thanh, kiểm tra, chống thất thu thuế, quản lý nợ đọng thuế. Ngành sẽ xử lý triệt để số nợ ảo, bảo đảm hoàn thành vượt mức 10% số thu ngân sách nhà nước năm 2011. Như vậy, có thể thấy, hoạt động thanh tra, kiểm tra và xử lý vi phạm pháp luật thuế hiện nay đã từng bước được đẩy mạnh thực hiện và thực hiện ngày càng nghiêm túc có hiệu quả. Hoạt động thanh tra, kiểm tra thực sự là công cụ hữu hiệu để phát hiện các sai phạm trong việc thực hiện pháp luật thuế, trên cơ sở đó răn đe, ngăn ngừa và xử lý các hành vi tiêu cực như gian lận thuế, lậu thuế, trốn thuế, nhằm đảm bảo nguồn thu cho ngân sách nhà nước, đồng thời nâng cao ý thức tuân thủ pháp luật thuế của người dân.Hoạt động thanh tra, kiểm tra thuế được triển khai thường xuyên,kết hợp hiệu quả với hoạt động thanh tra, kiểm tra một số lĩnh vực khác và phát hiện được nhiều sai phạm về thuế. Ví dụ như: Theo số liệu Finance Online cung cấp thì năm 2010, Cục Thuế các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương đã phối hợp với Thanh tra Bộ kiểm tra về giá bán và chi phí sản xuất điện tại 16 Công ty phát điện ngoài Tập đoàn Điện lực Việt Nam.Qua thanh tra đã phát hiện một số tồn tại, sai phạm của doanh nghiệp  trong việc kê khai, nộp các khoản thuế vào NSNN. Cụ thể: Thứ nhất, một số công ty có vốn đầu tư nước ngoài được ưu đãi thuế nhập khẩu, thuế thu nhập doanh nghiệp nhưng chưa thực hiện được điều kiện ưu đãi như đã đăng ký; Một số doanh nghiệp được cấp Giấy phép ưu đãi đầu tư miễn thuế, giảm thuế TNDN cao hơn mức quy định; Có doanh nghiệp xác định chưa đúng điều kiện ưu đãi thuế thu nhập doanh nghiệp dẫn đến thất thu NSNN.   Thứ hai, việc hướng dẫn xác định khoản phí bản quyền để xác định trị giá hải quan đối với hàng hoá nhập khẩu và thực hiện tính thuế nhập khẩu chưa cụ thể, rõ ràng dẫn đến các doanh nghiệp chưa kê khai và nộp NSNN.   Thứ ba, một số mặt hàng được phân phối đến người tiêu dùng thông qua các hộ kinh doanh áp dụng cơ chế thuế khoán, đồng thời chưa có cơ chế quản lý giá của các doanh nghiệp đầu mối dẫn đến các hộ kinh doanh tăng giá bán nhưng kê khai doanh thu thấp làm thất thu NSNN.   Thứ tư, việc ban hành giá tính thuế tài nguyên theo thẩm quyền của UBND các tỉnh, thành phố nhiều bất cập. Có địa phương đã ban hành quyết định để doanh nghiệp thực hiện, có địa phương chưa ban hành quyết định dẫn đến các doanh nghiệp áp dụng giá tạm tính; giá tính thuế tại các địa phương cao, thấp khác nhau, đối với địa phương chưa ban hành quyết định giá chính thức có tình trạng mỗi doanh nghiệp khai giá tạm tính khác nhau. ² Họat động thanh tra, kiểm tra được thực hiện một cách hiệu quả, từng bước xác định đúng đối tượng thanh tra, kiểm tra để tránh các phiền hà có thể đem lại. Kết quả này thể hiện rõ qua con số: năm 2007, tổng số doanh nghiệp toàn ngành đã tiến hành thanh tra và kiểm tra tăng khoảng 25% so với năm 2006 nhưng số thuế truy thu tăng gấp 1,3 lần so với cùng kỳ năm 2006.( Theo số liệu tại  ² Xây dựng được các kế hoạch thanh tra, kiểm tra nhằm định hướng, khoanh vùng cho hoạt động thanh tra, kiểm tra có hiệu quả. ² Trên cơ sở có hiệu quả của hoạt động thanh tra, kiểm tra về thuế đã phát hiện ra các sai phạm của người nộp thuế thì việc xử lý pháp luật về thuế cũng được thực hiện ngày càng nghiêm minh. Hàng loạt các hành vi vi phạm pháp luật của người nộp thuế như vi phạm về thủ tục thuế, gian lận thuế, chậm nộp tiền thuế….bị xử lý. Chỉ tính riêng trên địa bàn tỉnh Hà Tĩnh qua thanh tra, kiểm tra 3 năm từ năm 2008 đến 30/9/2010 đã phát hiện 312 doanh nghiệp sai phạm trong lĩnh vực thuế trên địa bàn tỉnh và xử lý thu hồi 29.733 triệu đồng (trong đó năm 2008 xử lý thu hồi 7.989 triệu đồng của 93 doanh nghiệp, năm 2009 xử lý thu hồi 9.640 triệu đồng ở 136 doanh nghiệp và 9 tháng đầu năm 2010 xử lý thu hồi 12.104 triệu đồng ở 83 doanh nghiệp); xử lý thu hồi 455 giấy phép đăng ký kinh doanh; kiểm tra, rà soát năng lực trên 1000 doanh nghiệp hành nghề xây dựng cơ bản; tham mưu cho UBND tỉnh ban hành văn bản qui định năng lực được phép hoạt động xây dựng trên từng lĩnh vực. Các doanh nghiệp nhà nước từ năm 2007 đến 2009 qua thanh tra đã xử lý cắt giảm chi phí 4.535 triệu đồng, tăng lợi nhuận 2.384 triệu đồng; xử phạt hành chính trong lĩnh vực kế toán tại 20 doanh nghiệp.( Theo số liệu cung cấp trong bài viết “từ công tác thanh tra kiểm tra tỉnh Hà Tĩnh” – tạp chí thanh tra số 3/2011) Không chỉ vậy các sai phạm của cơ quan quản lý thuế, công chức quản lý thuế và các tổ chức, cá nhân có liên quan cũng được đưa ra ánh sáng. Có lẽ tiêu biểu cho việc xử lý công chức quản lý thuế và các cá nhân có liên quan là vụ việc đường dây “chạy” miễn giảm thuế thu nhập doanh nghiệp xảy ra tại Đồng Nai(năm 2007) có liên quan đến cán bộ cục quản lý thuế Đồng Nai và Bộ tài chính được xử lý với tội danh "Cố ý làm trái quy định của Nhà nước về quản lý kinh tế gây hậu quả nghiêm trọng" bao gồm 6 đối tượng: Phạm Văn Ngọ( nguyên Trưởng phòng đầu tư nước ngoài )Đặng Thị Bạch Tuyết ( nguyên Đội trưởng Đội kiểm tra quyết toán thuế năm 2003 tại Công ty Grobest) và Nguyễn Thị Lan (nguyên Đội trưởng Đội kiểm tra quyết toán thuế năm 2004 và năm 2005 tại Công ty Grobest); Hoàng Ngọc Nắng Hồng, (nguyên Trưởng phòng đầu tư nước ngoài thuộc Vụ Tài chính đối ngoại - Bộ Tài chính;) Phan Văn Hiển( nguyên Phó vụ trưởng Vụ Tài chính đối ngoại -Bộ Tài chính) và Vũ Xuân Hiểu ( nguyên Phó vụ trưởng Vụ Tài chính đối ngoại - Bộ Tài chính.). Với lợi thế hiểu biết pháp luật, được đào tạo bàn bản và có quyền lực trong tay các đối tượng trên đã tìm cách “lách luật” nhằm trục lợi. Lợi dụng chính sách ưu đãi, miễn giảm thuế thu nhập doanh nghiệp, một số cán bộ là “sâu mọt” của cục thuế Đồng Nai được giúp sức bởi một số người “tai to mặt lớn” ở Bộ tài chính đã hình thành đường dây “chạy thuế”, hào phóng miễn giảm thuế cho cả những doanh nghiệp không thuộc diện này. Sự việc chỉ thực sự đổ bể vào năm 2007 khi Cục Thuế Đồng Nai tiến hành thanh tra việc miễn, giảm thuế tại các doanh nghiệp. à Như vậy, có thể thấy hoạt động thanh tra, kiểm tra về thuế trong thời gian qua đã được triển khai khá nghiêm túc, phát hiện được nhiều sai phạm về thuế trên cơ sở đó có thể xử lý các hành vi vi phạm pháp luật thuế, đảm bảo sự nghiêm minh của pháp luật. Tuy nhiên, hoạt động thanh tra, kiểm tra và xử lý vi phạm pháp luật thuế trong thời gian qua vẫn có những khó khăn, vướng mắc nhất định. vViệc xác định đối tượng cần kiểm tra, thanh tra còn chủ yếu dựa vào năng lực và kinh nghiệm của các chủ thể có thẩm quyền. Do đó, công tác thanh tra, kiểm tra trên thực tế vẫn còn hiện tượng chồng chéo, xác định đối tượng để thực hiện họat động thanh tra,kiểm tra một cách tùy tiện, tràn lan thay vì hướng vào các đối tượng có nghi vấn vi phạm pháp luật về thuế lại tiến hành thanh tra, kiểm tra đối với các đối tượng chấp hành nghiêm chỉnh pháp luật thuế (Theo số liệu tại Do đó, gây ảnh hưởng, phiền hà đến hoạt động của doanh nghiệp trong khi hiệu quả của hoạt động thanh tra được triển khai không đạt được. Đồng thời bỏ qua các sai phạm lớn đáng ra phải được phát hiện và xử lý kịp thời ở những đối tượng tiềm ẩn sai phạm nhưng vì nhiều lý do lại được “ngó lơ”. vHọat động thanh tra, kiểm tra và xử lý vi phạm pháp luật thuế đôi khi còn mang tính chất hình thức, chưa thực sự phát huy hết vai trò mà công cụ quản lý thuế này mang lại. Đơn cử như việc tiến hành thanh tra, kiểm tra thuế đại lý xe máy trên toàn quốc và kết quả đạt được mà báo chí vẫn gọi bằng các từ mang nghĩa tiêu cực như “gây sốc”, “kết quả thất vọng”. Cụ thể: Cuộc thanh kiểm tra các đại lý xe gắn máy trên toàn quốc do Tổng cục Thuế chỉ đạo tiến hành được người tiêu dùng cả nước đón đợi và ca ngợi là "nước cờ dẹp loạn giá xe gắn máy". Công cuộc này tiến hành từ tháng 5/2009. Mục đích của cuộc thanh kiểm tra được Tổng cục Thuế xác định rất rõ với các chi cục thuế địa phương: "Tổ chức thanh tra, kiểm tra việc chấp hành pháp luật về thuế tại các đại lý kinh doanh xe gắn máy trên địa bàn, đảm bảo thu thuế sát theo giá bán thực tế".Theo lệnh ngày ấy của Tổng cục Thuế, "trường hợp có đủ căn cứ để kết luận đại lý thu tiền cao hơn giá ghi trên hoá đơn, không theo dõi chênh lệch trong sổ sách kế toán, không kê khai nộp thuế thì ngoài việc thu đủ số thuế phải nộp vào ngân sách Nhà nước theo giá bán thực, sẽ còn phạt về hành vi trốn thuế. Nếu phát hiện đại lý trốn thuế với số tiền lớn, cơ quan thuế sẽ chuyển hồ sơ sang cơ quan công an để điều tra, xử lý theo pháp luật". Tuy nhiên, kết quả đạt lại chệch ra ngoài sự mong đợi của người dân, gây nên một luồng dư luận bức xúc trong xã hội. Bởi, sau hơn nửa năm (tháng 6- 12/2009) thanh, kiểm tra các đại lý xe máy trên toàn quốc Tổng Cục Thuế (Bộ Tài chính) cho biết: các chi cục thuế địa phương đã "rà" 395 lượt đối tượng nộp thuế, xử lý thu vào ngân sách nhà nước số tiền 2 tỷ 573 triệu 78.194 đồng, trong đó số thuế truy thu là 2 tỷ 262 triệu 630.020 đồng, gồm thuế giá trị gia tăng 777 triệu 341.045 đồng, thuế Thu nhập DN 1 tỷ 485 triệu 288.975 đồng và xử lý phạt 311 triệu 248.174 đồng. (theo số liệu do Việt Nam net cung cấp).Tuy nhiên có thể dễ dàng nhận thấy, gần 2,6 tỷ đồng thu được sau hơn 6 tháng thanh tra thuế trên toàn quốc khác xa tình hình thực tế. Chỉ lấy 1 ví dụ sẽ rõ: Hiện nay các cửa hàng bán xe máy nhập khẩu tại Hà Nội đang bán chiếc xe Honda SH 150cc nhập khẩu nguyên chiếc từ Italia với giá 130 triệu đồng, nhưng trong hóa đơn ghi cho khách hàng để đi làm thủ tục nộp lệ phí trước bạ và đăng ký, người bán chỉ ghi ở mức 70 triệu đồng. Với khoản chênh lệch 60 triệu đồng kia họ trốn được khoảng 8 triệu đồng tiền thuế giá trị gia tăng, thuế thu nhập DN. Như vậy 1 năm các cửa hàng bán xe máy nhập khẩu trên cả nước chỉ cần bán 1.000 chiếc SH 150 thì số thuế thất thu cỡ đã 8 tỷ đồng (vượt xa con số thu được qua thanh tra kiểm tra của ngành Thuế trong 6 tháng). Chư kể đến trong năm 2009 xe máy nguyên chiếc nhập khẩu ước khoảng 300.000 chiếc và hầu như xe nào cũng ghi giá bán trong hóa đơn thấp hơn giá thực tế, chưa kể nhiều mẫu xe ăn khách sản xuất trong nước cũng làm cách tương tự. Do đó, cần phải có những biện pháp hữu hiệu khắc phục tình trạng có kiểm tra,thanh tra nhưng hiệu quả đạt được lại không như thực tế. Đẩy lùi thực trạng hoạt động thanh tra, kiểm tra kém hiệu quả trên thực tế v Việc xử lý vi phạm pháp luật thuế cũng gặp một số khó khăn nhất định. Ví dụ như người nộp thuế vi phạm nhưng không để số dư tiền gửi ngân hàng nên các biện pháp cưỡng chế như trích tiền gửi tại ngân hàng không thực hiện được, tình trạng mua bán sử dụng hoá đơn bất hợp pháp vẫn còn tồn tại, thanh toán bằng tiền mặt vẫn còn phổ biến...Điều này tạo ra những khó khăn nhất định trong việc xử lý vi phạm pháp luật thuế. Không chỉ vậy, việc xử lý vi phạm pháp luật thuế đôi khi còn bế tắc vì những chồng chéo, không thống nhất trong quy định của pháp luật cũng như áp dụng luật của cơ quan có thẩm quyền mang lại. Lấy ví dụ như đối với mặt hàng là dầu cá, do công dụng của nó vừa có thể là thuốc chữa bệnh, vừa có thể là thực phẩm chức năng tùy theo mục đích sử dụng của từng người nên việc áp dụng thuế suất cho mặt hàng này khó để xác định vì thuốc chữa bệnh và thực phẩm chức năng được áp dụng với hai mức thuế suất không giống nhau. Do đó,công ty sản xuất dầu cá đã xin ý kiến chỉ đạo để áp dụng thuế suất với cơ quan quản lý thuế nhưng không được cung cấp chỉ dẫn rõ ràng, do đó, công ty đã chọn mức thuế suất thấp hơn áp dụng cho thuốc chữa bệnh để xác định thuế giá trị gia tăng phải nộp cho nhà nước. Sau đó, công ty được tiến hành thanh tra để hoàn thuế giá trị gia tăng đã nộp đối với một số lượng dầu cá xuất khẩu và cơ quan thuế không có ý kiến gì về mức thuế suất đang được áp dụng. Tuy nhiên, trong lần thanh tra tiếp thì cơ quan thuế cho rằng mức thuế suất áp dụng đối với dầu cá mà công ty đã xác định thấp hơn so với quy định vì dầu cá là thực phẩm chức năng chứ không phải thuốc chữa bệnh. Do đó, cơ quan thuế ra quyết định truy thu thuế và xử phạt vi phạm đối với công ty này. Tuy nhiên, công ty không đồng ý vì trong hai lần thanh tra trước cơ quan thuế không có ý kiến gì về mức thuế suất đã áp dụng, hơn nữa thuế giá trị gia tăng là thuế gián thu, người chịu thuế là khách hàng chứ không phải công ty, bây giở truy thu thuế đối với công ty liệu có hợp lý. Trong ví dụ nêu trên thực sự có thể nhận thấy sự bế tắc trong xử lý vi phạm pháp luật thuế. Trước hết có vi phạm pháp luật thuế hay không, cơ quan thuế hay công ty sản xuất dầu cá vi phạm? Trả lời câu hỏi này đã là cả một vấn đề. II, CÁC VẤN ĐỀ CẦN HOÀN THIỆN VỀ THANH TRA, KIỂM TRA VÀ XỬ LÝ VI PHẠM PHÁP LUẬT THUẾ Ở VIỆT NAM HIỆN NAY Từ việc phân tích thực trạng pháp luật cũng như thực tiễn áp dụng pháp luật về thanh tra, kiểm tra và xử lý vi phạm pháp luật thuế có thể thấy các vấn đề nổi bật cần hoàn thiện sau: |Thứ nhất, cần sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện kịp thời các quy định của pháp luật để tạo ra cơ sở pháp lý vững chắc cho hoạt động thanh tra, kiểm tra và xử lý vi phạm pháp luật thuế Cụ thể, hiện nay các quy định pháp luật về vấn đề này đôi chỗ chưa thực sự hợp lý. wLuật quản lý thuế không làm rõ khái niệm kiểm tra thuế và thanh tra thuế nên trong thực tế việc áp dụng kiểm tra và thanh tra không rõ gây khóa khăn cho DN. Cần quy định Kiểm tra là kiểm tra các vụ việc cụ thể như: kiểm tra việc hoàn thuế, kiểm tra xác nhân hoàn thành nghĩa vụ thuế..; Thanh tra là thanh tra toàn diện về các loại thuế cơ quan thuế quản lý và được thực hiện theo kế hoạch , cần thông báo trước kế hoạch đó cho DN. wĐiều 77 Luật quản lý thuế quy định việc kiểm tra thuế tại trụ sở cơ quan thuế là việc làm thường xuyên đối với cơ quan thuế. Nếu phát hiện sai sót thì yêu cầu người nộp thuế giải trình khai bổ sung. Việc kiểm tra tại trụ sở cơ quan thuế không theo thủ tục, không giới hạn thời gian có thể dẫn đến tình trạng cán bộ thuế  nhũng nhiễu, làm khó cho doanh nghiệp. Doanh nghiệp có thể bị cơ quan cơ quan thuế mời gọi, yêu cầu giải trình… nhiều lần, bất cứ lúc nào. Đồng thời, theo quy định tại Điều 77 Luật quản lý thuế thì không giới hạn thời gian kiểm tra. Trong khi đó theo quy định tại điều 32 của Luật hải quan quy định thời hạn kiểm tra là 5 năm kể từ ngày đăng ký tờ khai Hải quan. Như vậy quy định về kiểm tra thuế ở 02 Luật không thống nhất. Mặt khác, về quy định của pháp luật tại Điều 77 của Luật quản lý thuế đối với hồ sơ thuế gửi đến cơ quan quản lý thuế chưa thực sự rõ ràng khiến một số người nộp thuế hiểu rằng với kê khai, nộp thuế của họ khi được cơ quan thuế kiểm tra và chấp nhận cũng có nghĩa là cơ quan thuế đã xác nhận tính đầy đủ và chính xác trong hồ sơ khai thuế của họ, nếu sau này cơ quan chức năng có phát hiện ra sai sót gì thì không phải hồi tố nữa. Trong khi đó, cơ quan thuế lại cho rằng họ chỉ thực hiện kiểm tra sơ bộ hồ sơ thuế chứ không xác nhận việc kê khai và xác định số thuế phải nộp của người nộp thuế có chính xác hay không? Việc kiểm tra của cơ quan thuế và việc chấp nhận tờ khai thực ra mới chỉ là những thủ tục mang tính chất hành chính. Do đó, người nộp thuế phải tự chịu trách nhiệm về tính chính xác của nội dung bên trong tờ khai theo đúng tinh thần quản lý thuế theo cơ chế “tự khai, tự nộp thuế”. Cơ quan thuế hiện nay chưa đủ điều kiện để kiểm tra thực tế người nộp thuế đã kê khai đúng, đủ số thuế phát sinh hay chưa. Hơn nữa, với số lượng hồ sơ thuế đôi khi quá đông, thời gian lại không nhiều nên cơ quan thuế không thể xem xét kỹ lưỡng từng hồ sơ. Có thể thấy rằng các quy định của pháp luật hiện nay chưa đủ để xác định một cách hiểu rõ ràng trong vấn đề này. Giả sử sau một thời gian, cơ quan thuế phát hiện có trường hợp kê khai sai, nộp thuế sai sao với thực tế thì người nộp thuế có thể biện minh do hiểu sai các quy định về kiểm tra thuế không? Việc quy trách nhiệm trong trường hợp này được xác định như thế nào? wViệc kiểm tra tại trụ sở của người nộp thuế quy định tại Điều 78 Luật quản lý thuế chỉ giới hạn trong 02 trường hợp (1) hết thời hạn thông báo mà không giải trình , bổ sung thông tin hoặc giải trình khai bổ sung không đúng;(2) Trường hợp hàng xuất nhập khẩu đã được thông quan, cơ quan Hải quan phát hiện nhưng đến hết thời hạn thông báo không bổ sung hoặc bổ sung không đúng. Nhưng trong thực tế rất nhiều trường hợp cơ quan thuế tiến hành kiểm tra tại doanh nghiệp: Kiểm tra việc hoàn thuế; Kiểm tra để xác định trách nhiệm thuế khi doanh nghiệp giải thể; Thực hiện kiểm tra quyết toán thuế theo năm theo yêu cầu của doanh nghiệp.  Như vậy những cuộc kiểm tra này là không phù hợp với quy định của Điều 78 Luật quản lý thuế. wMột số vấn đề cũng chưa được pháp luật quản lý thuế đưa ra câu trả lời như: Kết quả thanh tra, kiểm tra có được coi là có tính pháp lý cao nhất để xác định trách nhiệm thuế phải nộp cho người nộp thuế hay không? Trường hợp đã có kết luận của thanh tra, kiểm tra nhưng chưa chính xác sau đó được phát hiện ra bởi cơ quan thi hành pháp luật khác thì trách nhiệm pháp lý thuộc về bên nào? Người nộp thuế cho rằng trách nhiệm thuộc về cơ quan thuế vì sự việc đã được cơ quan thuế kiểm tra, thanh tra. Cơ quan thuế lại cho rằng trách nhiệm kê khai nộp thuế chính xác theo luật định là trách nhiệm của đối tượng nộp thuế? Vấn đề này câu trả lời chính xác là như thế nào. àDo đó, từ các nội dung nêu trên có thể thấy luật quản lý thuế cần + Sửa điều 5 Luật quản lý thuế: Bổ sung khái niệm kiểm tra và thanh tra thuế. + Sửa điều 77, 78 luật quản lý thuế theo hướng: +Đưa tiêu chí phân loại kiểm tra hồ sơ khai thuế tại trụ sở cơ quan thuế và xác định rõ trách nhiệm cơ quan thuế với kết quả kiểm tra hồ sơ. +Nghiên cứu bổ sung những trường hợp kiểm tra tại trụ sở người nộp thuế vào Điều 78.  +Quy định thời hạn kiểm tra thuế là 5 năm trở về trước kể từ năm công bố quyết định kiểm tra. +Xác định rõ ràng cách hiểu thống nhất đối với ý nghĩa và giá trị hoạt động kiểm tra hồ sơ thuế của cơ quan thuế +Quy định về hiệu lực của kết quả thanh tra, kiểm tra đối với việc xác định trách nhiệm thuế phải nộp cho người nộp thuế. Xác định rõ trách nhiệm trong trường hợp có kết luận thanh tra nhưng chưa chính xác… wVề các quy định đối với xử lý vi phạm pháp luật thuế cũng còn một số tồn tại. Cụ thể như: Về xử phạt đối với hành vi chậm nộp tiền thuế và khai sai dẫn đến thiếu số thuế phải nộp chưa hợp lý được quy định tại Điều 60;Điều 103, 106 luật quản lý thuế; điều 2, điều 12, điều 22,23,24 Nghị định số 98/2007/NĐ-CP quy định xử phạt vi phạm pháp luật về thuế bộc lộ hạn chế về tính thống nhất và minh bạch. 1. Khoản 4 Điều 60 Luật quản lý thuế quy định: Quá thời hạn quy định, cơ quan quản lý thuế chậm ra quyết định hoàn thuế thì ngoài số tiền thuế phải hoàn cơ quan thuế phải trả tiền lãi theo quy định của Chính phủ.Trong khi đó theo quy định tại điều 103 của Luật thì chậm nộp tiền thuế thuộc hành vi vi phạm pháp luật về thuế. Như vậy, cùng một bản chất sự việc (chậm nộp thuế hoặc chậm trả tiền hoàn) Luật đã xử sự không công bằng.Mặt khác việc xử lý phạt chậm nộp tiền thuế theo mức 0,05% mỗi ngày tính trên số tiền thuế chậm nộp ( điều 103, 106) không tuân thủ theo quy định xử phạt vi phạm hành chính quy định tại điều 22,23,24 Nghị định số 98/2007/NĐ-CP (không

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docVấn đề thanh tra, kiểm tra và xử lý vi phạm pháp luật thuế - thực trạng và những vấn đề cần hoàn thiện ở Việt Nam hiện nay.doc