Tiểu luận Việc cần thiết xây dựng một quy chế pháp lý riêng trong phá sản các Ngân hàng Thương mại

MỤC LỤC

 

CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN CHUNG 2

I. PHÁ SẢN 2

1. Khái niệm 2

2. Các tác động của phá sản 2

3. Có các hình thức phá sản. 3

4. Vấn đề pháp lý trong phá sản 4

II. RÀNG BUỘC TÀI CHÍNH MỀM 5

 

III. NGÂN HÀNG 5

1. Ngân hàng Thương mại 5

a. Khái niệm 5

b. Vai trò của ngân hàng thương mại (NHTM) 5

2. Ngân hàng Trung Ương 8

CHƯƠNG 2: ĐI TÌM TRIẾT LÝ CỦA LUẬT PHÁ SẢN 9

1. Khi các tổ chức tín dụng (TCTD) cổ phần bị đặt vào tình trạng kiểm soát đặc biệt 9

2. Sự cần thiết của Luật Phá sản 9

3. Vì sao Luật phá sản ít được dùng 10

4. Một số góp ý luật Phá sản 14

CHƯƠNG 3: THỰC TRẠNG CỦA CÁC NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI VIỆT NAM HIỆN NAY 17

1 . Đánh giá năng lực cạnh tranh 17

2. Thực trạng năng lực cạnh tranh 17

3. Giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh

21

CHƯƠNG 4: TẠI SAO CÁC NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI VIỆT NAM KHÔNG BAO GIỜ BỊ PHÁ SẢN? 23

1. Bài học từ Ngân hàng Việt Hoa là một ví dụ điển hình. 23

2. Tác động của việc phá sản các ngân hàng. 24

 Nguy cơ khó khăn của Ngân hàng 27

 

3. Việc Phá sản các tổ chức tín dụng ở Việt Nam29

a. Điều kiện xác định TCTD lâm vào tình trạng phá sản 28

b. Trình tự Phá sản các tổ chức Tín dụng (TCTD) 30

c. Những rủi ro trong hoạt động kinh doanh của ngân hàng thương mại 30

4. Kiểm soát và cơ chế kiểm soát nội bộ của ngân hàng thương mại. 34

5. Vai trò của NHTW là người cho vay cuối cùng Trong điều kiện Ngân hàng thương mại, mất khả năng thanh toán 36

CHƯƠNG 5. THỰC TRẠNG CÁC NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI THẾ GIỚI HIỆN NAY 37

1. Cùng với việc châu Âu và Mỹ mạnh tay hơn trong việc đóng cửa những ngân hàng có tài sản xấu, nhiều ngân hàng vừa và nhỏ đang đứng trước nguy cơ phá sản 37

2. Chương thứ 11 Luật phá sản Mỹ 39

2. 12 vụ phá sản tồi tệ nhất nước Mỹ 40

TÀI LIỆU THAM KHẢO 48

 

docx52 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 1943 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tiểu luận Việc cần thiết xây dựng một quy chế pháp lý riêng trong phá sản các Ngân hàng Thương mại, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
(Đơn vị tính:  triệu USD) Ngân hàng Vốn chủ sở hữu Citigroup 112.537 JP Morgan Chase 107.211 HSBC 98.226 Mitsubishi UFJ Financial Group 83.281 BNP Paribas 56.610 Mizuho Finacial Group 52.243 (Nguồn: - Hệ số an toàn vốn (Capital Adequacy Ratio – CAR): Hệ số an toàn vốn của NHTMVN trong thời gian qua được cải thiện đáng kể, nhưng hiện nay vẫn còn một số ngân hàng có CAR dưới 8%. Trước tháng 6 năm 2004, CAR của hệ thống NHTMVN rất thấp, CAR trung bình của NHTMNN  là 3,05%. Từ năm 2005 trở đi, quy mô vốn của các NHTMVN tăng lên, CAR của ngân hàng cũng tăng theo. Bảng 4: CAR của một số ngân hàng giai đoạn (2005- 2008) (Đơn vị tính : %) Ngân hàng    2005  2006    2007 2008 = Giá trị  ước tính NH NNo và PTNT VN 0,41    4,97 7,2 < 8 NH Đầu tư và Phát triển VN 3,36 5,50 6,67 > 8 NH Ngoại thương VN 9,57 12,28 12,25 > 12 NH Công thương VN 6,07  5,18 - > 10.9 NH Á châu 12,1 10,89 16,19 - NH Sài Gòn Thương tín 15,4 11,82 11,07 - NH Đông Á 8,94 13,57  14,36 -         (Nguồn: Tổng hợp báo cáo của các NHTM, BVSC) Theo báo cáo tổng kết của Ngân hàng Nhà nước (NHNN), tỷ lệ an toàn vốn bình quân của hệ thống ngân hàng VN  đến cuối năm 2008 ở mức  9,7% so với 2007 là 8,9% . Nhưng so với hệ thống ngân hàng của một số quốc gia trong khu vực châu Á, CAR của NHTMVN vẫn còn thấp. CAR năm 2007, khu vực châu Á Thái Bình Dương là 13,1%, khu vực Đông Á là 12,3%. Trước yêu cầu của hội nhập quốc tế, các NHTMVN, đặc biệt là đối với các NHTMNN phải tiếp tục nâng cao CAR  để đạt được mức tối thiểu theo chuẩn mực quốc tế là 8% - Chất lượng tài sản có: Chất lượng tài sản có của NHTMVN hiện nay là đang thay đổi theo chiều hướng tốt, tỷ lệ nợ xấu (nợ thuộc nhóm 3,4,5) có khuynh hướng giảm đi. Chỉ tiêu  2003 2004 2005  2006 2007 Tỷ lệ (Nợ xấu / tổng dư nợ) 4,74 %  2,85 % 2,98 % 2,48 % 1,38 %   (Nguồn : Tổng hợp báo cáo thường niên của NHNN và BHTGVN) Tuy nhiên, theo báo cáo tổng kết ngành của NHNN, đến cuối năm 2008, khi áp dụng phân loại nợ theo quyết định 493/2005/QĐ-NHNN, tỷ  lệ nợ xấu của toàn hệ thống có khuynh hướng tăng lên  đến  3,5%  nhưng vẫn còn thấp hơn mức cho phép theo tiêu chuẩn quốc tế 5%, trong khi đó tỷ lệ nợ xấu của Trung Quốc năm 2007 đang ở mức 6,17%. Đây là một dấu hiệu rất khả quan, tuy nhiên vấn đề quan tâm hiện nay là vẫn còn một số ngân hàng áp dụng  493/2005/QĐ-NHNN chưa triệt để, nên chưa phản ánh đầy đủ tình hình nợ xấu thực tế của toàn hệ thống. - Năng lực công nghệ:     Hiện nay, các NHTM rất quan tâm đến việc đầu tư đổi mới công nghệ để nâng cao chất lượng dịch vụ cung ứng cho khách hàng, nhưng vẫn còn nhiều bất cập: Quy mô vốn của NHTM nhỏ; chi phí đầu tư hiện đại hóa công nghệ cao; khả năng ứng dụng công nghệ tiên tiến của nhân viên ngân hàng còn hạn chế nên dẫn đến lãng phí,  khai thác không hết tính năng của công nghệ mới.     Điển hình là hệ thống giao dịch tự động – ATM, sau một thời gian triển khai thực hiện vẫn chưa hết những bất cập, chưa có sự kết nối trong toàn hệ thống ngân hàng để có thể giảm chi phí đầu tư và đảm bảo  hiệu quả giao dịch cho khách hàng. Việc NHNN công bố chính thức kết nối hai liên minh thẻ lớn ở VN là Smartlink và Banknetvn, mở đường cho việc hình thành một mạng thanh toán điện tử thống nhất trên toàn quốc nhưng cũng chỉ mới dừng ở kết nối công nghệ nên việc cung ứng dịch vụ ngân hàng vẫn chưa đạt  hiệu quả cao hơn.      Việc triển khai hệ thống Core banking tại các NHTMVN được xem là điểm nhấn cho đầu tư công nghệ, nhưng khi triển khai thực hiện thì vẫn chưa có sự đồng bộ trong toàn hệ thống. Hiện nay đã có 44 NHTM trong nước triển khai  Core banking, nhưng có quá nhiều phần mềm được sử dụng như : Siba; Bank 2000; SmartBank; Symbol System; Teminos; Iflex; Huyndai; Sylverlake; TCBS (the complex banking solution – giải pháp ngân hàng phức hợp),  quy mô đầu tư lại khác nhau giữa các ngân hàng nên sự liên kết với nhau còn hạn chế.  - Nguồn nhân lực:     Chất lượng nguồn nhân lực chưa cao, chưa đồng đều. Trong thời gian qua có những thời điểm nhu cầu nguồn nhân lực ngân hàng gia tăng đột biến, hình thành sự chuyển dịch lao động bất hợp lý, ảnh hưởng đến chất lượng nguồn nhân lực của ngân hàng. Theo báo cáo của NHNN, đội ngũ nhân viên ngân hàng được đào tạo ở bậc thạc sĩ và tiến sĩ chiếm chưa đầy 10%, trình độ đại học chiếm khoảng 61%, kỹ năng nghề nghiệp vẫn còn hạn chế, khả năng tiếp cận và xử lý công việc theo nhóm còn gặp nhiều khó khăn.     Mặc khác, chính sách đãi ngộ và thu hút nguồn nhân lực cũng chưa được các ngân hàng quan tâm đúng mức, phát sinh tình trạng chảy máu chất xám trong lĩnh vực ngân hàng. 3. Giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh Thứ nhất, tiếp tục tăng cường năng lực tài chính theo hướng tăng quy mô vốn điều lệ, đảm bảo mức an toàn vốn theo chuẩn mực quốc tế, nâng cao chất lượng tài sản có.     Theo Nghị định 141/2006/NĐ-CP của Chính phủ, mức vốn pháp định của tất cả các NHTM đến năm 2010 là 3.000 tỷ VND, CAR tối thiểu là  8%,  tỷ lệ nợ xấu dưới 5%. - Đối với NHTMNN:     -  Xác định  một tỷ lệ hợp lý lợi nhuận ròng được sử dụng hằng năm để tăng vốn điều lệ trong giai đoạn sắp tới. Theo Nghị định 166/1999/NĐ – CP, NHTM được trích 5% từ  nhuận ròng hằng năm nhưng không quá 100% vốn điều lệ của ngân hàng cho quỹ dự trữ bổ sung vốn điều lệ. So với nhu cầu tăng vốn hiện tại thì tỷ lệ này còn thấp, do đó việc cần tăng tỷ lệ này từ 5% lên 10%  là  rất cần thiết đối với các NHTM.     – Xử lý dứt điểm các khoản nợ tồn đọng, kiểm tra và điều chỉnh các khoản mục tài sản không sinh lợi để nâng cao chất lượng tài sản có của NHTM. Mỗi ngân hàng phải đầu tư một hệ thống cảnh báo rủi ro, phải thành lập một công ty quản lý nợ và khai thác tài sản, để cảnh báo kịp thời rủi ro phát sinh và xử lý triệt để các khoản nợ tồn đọng. - Đối với NHTMCP:     – Phải lựa chọn thời điểm và phương thức hợp lý để tăng vốn. NHTMCP có thể tăng vốn dưới hình thức chủ yếu là phát hành thêm cổ phiếu. Trong điều kiện hiện nay, phát hành thêm cổ phiếu quả là một bài toán rất khó cho các NHTMCP, trước mắt NHTMCP chỉ nên phát hành cổ phiếu để huy động từ cổ đông hiện hữu. - Xây dựng và đề xuất với NHNN một tỷ lệ sở hữu cổ phiếu hợp lý của công đông chiến lược  và cổ đông nước ngoài. Với tỷ lệ 30% cho cổ đông nước ngoài như hiện nay vẫn còn là một tỷ lệ khiêm tốn. Tỷ lệ này có thể cao hơn nhưng vẫn kiểm soát được sự chi phối của cổ đông nước ngoài. Nếu tỷ lệ này được tăng lên sẽ giúp cho NHTMCP tranh thủ được một nguồn lực rất lớn cho việc gia tăng quy mô vốn của mình trong điều kiện cần thiết hiện nay.     – Sáp nhập các ngân hàng, hoặc mua lại các ngân hàng nhỏ để hình thành nên một ngân hàng có tiềm lực tài chính lớn hơn, hình thành nên một tập đoàn tài chính đa năng cũng là một giải pháp rất hiệu quả cho các NHTMCP hiện nay Thứ hai, chú trọng chiến lược phát triển nguồn nhân lực theo hướng nâng cao chất lượng. - NHTM phải có chiến lược đúng đắn cho nguồn nhân lực trong tương lai bằng cách đẩy mạnh hơn nữa chương trình liên kết, tài trợ tại các trường đại học và trung tâm đào tạo.     – Phải có chế độ đãi ngộ hợp lý đối với người lao động, tạo môi trường thuận lợi để người lao động phát huy hết năng lực của mình, phải biết tôn trọng tài năng của người lao động.     – Phải xây dựng các dự án bồi dưỡng nghiệp vụ cho nhân viên định kỳ để nâng cao tính chuyên nghiệp và khả năng ứng dụng công nghệ mới. Thứ ba, tiếp tục đầu tư đổi mới công nghệ ngân hàng nhằm đảm bảo tính hiện đại, an toàn, nhanh chóng, tiện lợi nhất trong giao dịch cung ứng dịch vụ cho khách hàng:     – NHTM phải tích cực hơn nữa trong việc đầu tư đổi mới công nghệ phù hợp chiến lược hiện đại hóa đối với ngành ngân hàng trong thời gian tới, chú trọng hơn nữa tính hiệu quả trong việc triển khai hệ thống ngân hàng lõi – Core banking     – Bồi dưỡng nâng cao trình độ và khả năng ứng dụng công nghệ thông tin của nhân viên, để nâng cao hiệu quả sử dụng công nghệ hiện đại. Thứ tư, tăng cường năng lực quản trị điều hành theo tiêu chuẩn quốc tế.     – Các NHTM cần phải chuẩn hóa mô hình tổ chức theo mô hình thông lệ quốc tế, mô hình tổ chức tập trung hướng tới khách hàng, theo đó Hội sở chính tập trung quản lý và xử lý tác nghiệp kinh doanh của ngân hàng, các chi nhánh tập trung vào việc bán các sản phẩm cho khách hàng và thực hiện chính sách chăm sóc khách hàng.     – Đổi mới cơ cấu quản trị theo tiêu chuẩn quốc tế: nhất quán hệ thống chính sách, tập trung quản trị rủi ro, phân chia trách nhiệm cụ thể và thù lao tương xứng. CHƯƠNG 4: TẠI SAO CÁC NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI VIỆT NAM KHÔNG BAO GIỜ BỊ PHÁ SẢN? Ngân hàng được xem là lĩnh vực kinh doanh mang lại lợi nhuận cao, nhưng cũng hết sức nhạy cảm. Sự sụp đổ của một ngân hàng thương mại có thể dẫn đến phản ứng dây chuyền, tác động mạnh đến sự ổn định của nền kinh tế. Tuy nhiên, đã là kinh doanh thì phải có rủi ro, có thành công và cả thất bại. Bên cạnh những ngân hàng đang làm ăn phát đạt, thể hiện bằng lợi nhuận hàng năm và giá trị cổ phiếu trên thị trường cao trên dưới 10 lần mệnh giá, thì cũng có những ngân hàng thực sự đã phá sản với khoản nợ khổng lồ. Vấn đề là ở chỗ cơ quan quản lý Nhà nước sẽ giải quyết như thế nào đối với ngân hàng vỡ nợ, tiếp tục cứu vớt hay cho phá sản? Tuy nhiên, Luật Phá sản vốn đã không đi vào cuộc sống nên áp dụng đối với các ngân hàng phá sản lại càng khó khăn. Hoạt động trong nền kinh tế thị trường tất cả đều có thể xảy ra, với hoạt động NH mang tính hệ thống rát cao nên việc phá sản không phải là không có nhưng xác suát xảy ra rất thấp và nếu xảy ra thì vẫn phải xử lý theo luật phá sản, các NHTM khi huy động vốn đã mua bảo hiểm tiền gửi (nhưng mức chi trả cao nhất là 50 triệu, phần trên 50 triệu sẽ được xử lý theo luật). 1. Bài học từ Ngân hàng Việt Hoa là một ví dụ điển hình. “Ra đời vào năm 1993 trên cơ sở sáp nhập các hợp tác xã tín dụng của quận 5, thành phố Hồ Chí Minh, với số vốn ban đầu là 20 tỷ đồng. Chỉ trong một thời gian ngắn, Việt Hoa phát triển nhanh nghiệp vụ thanh toán quốc tế. Lợi dụng lãi suất trong nước thời điểm đó rất cao, ngân hàng nhập hàng trả chậm, mang về bán với giá thấp hơn giá nhập, lấy vốn kinh doanh bất động sản, quay vòng hưởng lãi suất. Khi lãi suất nhanh chóng tụt xuống và tỷ giá ngoại hối biến động, Việt Hoa đã trôi theo cơn lũ với những khoản nợ chất chồng hàng ngàn tỷ đồng” (Thời báo Kinh tế Sài Gòn 17/9/2006). Đó cũng là lúc Ngân hàng Nhà nước phải đưa cánh tay “kiểm soát đặc biệt” vào ngân hàng này, và sau đó là “cho vay đặc biệt” đối với ngân hàng với con số lên đến hàng trăm tỷ đồng. Sau khi tiến hành thanh tra và xác minh được thực trạng khó khăn trong thanh khoản của Ngân hàng Việt Hoa, Thống đốc Ngân hàng Nhà nước đã quyết định thành lập Ban kiểm soát đặc biệt đối với Ngân hàng này. Trách nhiệm của Ban kiểm soát đặc biệt là phải chỉ đạo lãnh đạo Ngân hàng Việt Hoa xây dựng phương án củng cố, hoạt động; chỉ đạo và giám sát Việt Hoa thực thi triển khai các bước đi trong phương án đó; thường xuyên báo cáo với Ngân hàng Nhà nước Chi nhánh thành phố Hồ Chí Minh nơi Ngân hàng Việt Hoa đặt trụ sở chính về tình hình, diễn biến của Ngân hàng; định kỳ hàng tháng báo cáo đánh giá kết quả thực hiện phương án củng cố ngân hàng lên Thống đốc Ngân hàng Nhà nước. Sau 7 năm nằm trong sự kiểm soát đặc biệt của Ngân hàng Nhà nước, từ một ngân hàng không còn đồng vốn nào, lại mang trong mình một số nợ trong và ngoài nước khổng lồ, tháng 8 vừa qua, Việt Hoa thông báo công khai về việc yêu cầu các cổ đông cũ đến đối chiếu cổ phiếu. Dự kiến đến cuối 2006, Ngân hàng Việt Hoa sẽ tiến hành Đại hội đồng cổ đông, xác định đường đi nước bước trong thời gian tới. Sở dĩ Ngân hàng Việt Hoa được “hồi sinh” là bởi các chủ nợ nước ngoài đã có văn bản đồng ý giảm 95% nợ, cộng với vốn thu hồi từ xử lý tài sản thì Ngân hàng này chỉ còn mất cân đối khoảng trên dưới 200 tỷ đồng. Trong bối cảnh các ngân hàng đang có giá và đua nhau nâng cấp từ ngân hàng nông thôn trở thành ngân hàng đô thị thì cái tên Ngân hàng Việt Hoa lại trở nên có giá trị. Một doanh nhân tính toán: Ngân hàng Việt Hoa cần 500 tỷ, 60% số đó để trả nợ sòng phẳng, còn lại đăng ký vốn điều lệ mới 200 tỷ đồng. Cái giá này không quá đắt khi mà cổ phiếu các ngân hàng đô thị thấp nhất cũng đang ở mức gấp 3 lần mệnh giá. 2. Tác động của việc phá sản các ngân hàng. Việt Hoa không phải là ngân hàng duy nhất có con đường “tái sinh” như trên. Trong quá trình thực hiện chức năng quản lý và kiểm soát của Ngân hàng Nhà nước, không ít ngân hàng đã được vực dậy từ tình trạng kiểm soát đặc biệt và đang phát triển như: EximBank, VPBank Hàng Hải, song cũng có một số ngân hàng sau đó hoặc là được sáp nhập, mua lại rồi đổi tên, hoặc giải thể như: Ngân hàng Châu á Thái Bình Dương, Ngân hàng Vũng Tàu Gia Định (bị giải thể); Ngân hàng Nam Đô, Ngân hàng Cổ phần Hải Phòng sáp nhập vào ngân hàng khác… Chưa có ngân hàng thương mại cổ phần nào từ trước đến nay trong lịch sử ngân hàng Việt Nam bị tuyên bố phá sản. Đặc điểm dễ nhận thấy nguồn vốn hoạt động chủ yếu của các ngân hàng thương mại Việt Nam là nặng về huy động vốn từ trong dân cư (chiếm tới 70% - 80% lợi nhuận thu được của mỗi ngân hàng). Nếu để phá sản một ngân hàng, người dân gửi tiền vào ngân hàng đó sẽ phải gánh chịu hậu quả kèm theo nhiều vấn đề xã hội phức tạp. Ngoài ra, nền kinh tế cũng bị ảnh hưởng nghiêm trọng với các hệ quả dây chuyền, thậm chí “sinh mệnh” các ngân hàng khác cũng có nguy cơ bị đe dọa nếu dân chúng mất lòng tin, đồng loạt đi rút tiền. Do đó, Ngân hàng Nhà nước phải gánh trọng trách là “người cho vay cuối cùng” nhằm mục đích quản lý, duy trì sự bình ổn của hệ thống ngân hàng và sự bình ổn của cả nền kinh tế. ở trường hợp Ngân hàng Việt Hoa, nếu để phá sản, không chỉ Nhà nước mất tiền mà các khoản nợ khác cũng không thu hồi được. Tuy nhiên, Ngân hàng Nhà nước không thể lúc nào cũng phải đóng vai trò “bà đỡ” khi các ngân hàng hoạt động yếu kém. Giải pháp kiểm soát đặc biệt chỉ hiệu quả đối với từng trường hợp cụ thể. Đã đến lúc phải để các ngân hàng vỡ nợ phá sản theo quy luật của kinh tế thị trường. Chỉ có điều, cho đến nay, các vấn đề pháp lý trong phá sản ngân hàng vẫn còn nhiều bất cập. Hệ thống pháp luật xung quanh việc phá sản ngân hàng còn chưa đồng bộ. Các quy định về Luật Đất đai trong vấn đề phát mãi tài sản đảm bảo còn chưa tạo ra được cơ chế thuận lợi, khiến việc phát mãi tài sản đảm bảo gặp rất nhiều khó khăn. Một chuyên gia trong lĩnh vực ngân hàng cho biết, các quy định của pháp luật có liên quan đến việc xử lý nợ khi tiến hành giải thể một ngân hàng cho đến nay vẫn là một mớ bùng nhùng, khiến đến cán bộ quản lý cũng còn rất ngại khi phải động chạm. Xét về tổng thể, những quy định của Luật Phá sản cũng chỉ theo xu hướng áp đặt, nên thủ tục tiến hành khi sự việc đã đến đường cùng chứ không phải là những giải pháp để con nợ và các chủ nợ thương lượng, đàm phán về khoản nợ. Bởi vậy, rất ít các doanh nghiệp cũng như người cho vay muốn áp dụng Luật Phá sản chứ không riêng gì các ngân hàng. Ngày 7/4/2006, Văn phòng Chính phủ đã có công văn số 1827 truyền đạt ý kiến của Thủ tướng Chính phủ giao cho Ngân hàng Nhà nước soạn thảo Nghị định về phá sản ngân hàng. Như vậy, việc giải quyết phá sản một ngân hàng sẽ có khung pháp lý cụ thể hơn và chuyện phá sản không còn là xa lạ. Tuy nhiên, vì những yếu tố mang tính nhạy cảm đặc trưng như đã nêu trong ngành Ngân hàng, các quy định về phá sản ngân hàng cần được xây dựng có nhiều yếu tố riêng biệt. Trong phá sản ngân hàng cần lưu ý đến các khoản ưu tiên thanh toán như: tiền gửi của dân, bảo hiểm tiền gửi, cho vay đặc biệt... Thủ tục về phá sản cũng đòi hỏi công khai, minh bạch và phải quan tâm đến yếu tố tâm lý trong dân cư. Nhưng, điều quan trọng nhất là thay đổi cách nhìn nhận về phá sản ngân hàng nói riêng, phá sản doanh nghiệp nói chung, vì bản chất của phá sản là việc chấm dứt sở hữu từ người không thể (con nợ), và chuyển nó sang bàn tay của người có thể (các chủ nợ), hạn chế việc hình sự hóa các vấn đề dân sự, khiến cho con nợ mỗi khi nghĩ đến việc tuyên bố phá sản doanh nghiệp mình bớt khiếp sợ, né tránh. Về điều này thì Luật Phá sản còn khó đạt được nên một văn bản hướng dẫn luật cũng không thể hy vọng nhiều. Thách thức lớn nhất đối với các ngân hàng thương mại Việt Nam nằm ở nội lực của chính các ngân hàng, với quy mô vốn nhỏ, nguồn nhân lực hạn chế, trình độ công nghệ còn chậm tiến so với các nước trong khu vực. Mặc dù vốn điều lệ của các ngân hàng đã tăng mạnh so với trước đây nhưng còn nhỏ bé so với thế giới và khu vực. Mức vốn tự có trung bình của một ngân hàng thương mại Nhà nước là 4.200 tỷ đồng, tổng mức vốn tự có của 5 ngân hàng thương mại Nhà nước chỉ tương đương với một ngân hàng cỡ trung bình trong khu vực. Hệ thống ngân hàng thương mại quốc doanh chiếm đến trên 75% thị trường huy động vốn đầu vào và trên 73% thị trường tín dụng. Trong khi đó, hệ số an toàn vốn bình quân của các ngân hàng thương mại Việt Nam thấp (dưới 5%), chưa đạt tỷ lệ theo yêu cầu của Ngân hàng Nhà nước và thông lệ quốc tế (8%). Chất lượng và hiệu quả sử dụng tài sản Có thấp (dưới 1%), lại phải đối phó với rủi ro lệch kép là rủi ro kỳ hạn và rủi ro tỷ giá. Điểm hạn chế thứ hai của các ngân hàng trong nước là hệ thống dịch vụ ngân hàng trong nước còn đơn điệu, chất lượng chưa cao, chưa định hướng theo nhu cầu khách hàng và nặng về dịch vụ ngân hàng truyền thống. Các ngân hàng huy động vốn chủ yếu dưới dạng tiền gửi chiếm 94% tổng nguồn vốn huy động và cấp tín dụng là hoạt động chủ yếu của ngân hàng, chiếm trên 80% tổng thu nhập lãi suất tiền gửi tăng lên làm cho lãi suất cho vay cũng tăng, tạo thêm gánh nặng về chi phí cho các doanh nghiệp phụ thuộc nặng nề vào nguồn vay từ ngân hàng. Hậu quả là, ngân hàng vẫn tiếp tục cho vay để nuôi nợ, dẫn đến tình trạng mất vốn ngày càng lớn. Một yếu điểm nữa của thị trường tài chính nước ta là, cơ cấu hệ thống tài chính còn mất cân đối, hệ thống ngân hàng vẫn là kênh cung cấp vốn trung và dài hạn cho nền kinh tế chủ yếu. Tính chung cả nội tệ và ngoại tệ, thì số vốn vay huy động ngắn hạn chuyển cho vay trung và dài hạn chiếm tới khoảng 50% tổng số vốn huy động ngắn hạn. “Việc sử dụng vốn cho vay trung và dài hạn ở nước ta hiện nay tới 50% là quá cao, nếu duy trì quá lâu sẽ là yếu tố gây rủi ro lớn và có nguy cơ gây ra thiếu an toàn cho toàn bộ hệ thống" Tính đến nay, hệ thống ngân hàng nước ta có 6 ngân hàng thương mại nhà nước (NHTMNN), 37 NHTMCP, 31 chi nhánh ngân hàng nước ngoài, 6 ngân hàng liên doanh, 6 công ty tài chính và 10 công ty cho thuê tài chính, 926 tổ chức tín dụng nhân dân và 46 văn phòng đại diện của các ngân hàng nước ngoài. Hơn nữa, hiện nay NHNN đã chấp nhận về nguyên tắc cho ra đời thêm 4 NHNN cổ phần, càng chứng tỏ hệ thống ngân hàng đang vững mạnh hơn. Nếu so với cách đây hơn chục năm thì đây quả là một sự trưởng thành vượt bậc. Thứ nhất, hệ thống ngân hàng đã huy động và cung cấp một lượng vốn khá lớn cho nền kinh tế, ước tính hàng năm chiếm khoảng 16-18% GDP, gần 50% vốn đầu tư toàn xã hội. Tăng trưởng tín dụng liên tục tăng trong các năm và năm 2006 ước tăng khoảng 24%, cao hơn mức 19% năm 2005. Hệ thống ngân hàng cũng có nhiều đóng góp cho tăng trưởng, phát triển và ổn định nền kinh tế trong những năm qua. Thứ hai, hệ thống ngân hàng đã có cuộc đổi mới toàn diện. Nhiều văn bản luật đã được ban hành một cách đồng bộ; Cơ chế chính sách về hoạt động ngân hàng đã ngày một hoàn chỉnh và phù hợp với thông lệ quốc tế; Khuôn khổ thể chế ngày một thông thoáng và minh bạch hơn. Những phân biệt đối xử giữa loại hình tổ chức tín dụng, tổ chức tín dụng trong nước và tổ chức tín dụng nước ngoài đã từng bước được loại bỏ; Chức năng cho vay tín dụng chính sách và cho vay tín dụng thương mại đã được tách bạch; Các NHTM, các tổ chức tín dụng đã được tự chủ và tự chịu trách nhiệm khá đầy đủ. Tính cạnh tranh của các tổ chức tín dụng được nâng cao; Thị trường dịch vụ ngân hàng được phát triển an toàn và hiệu quả. Thứ ba, chính sách tiền tệ (CSTT) được đổi mới và điều hành theo nguyên tắc thị trường và phù hợp với thông lệ quốc tế. Các công cụ gián tiếp điều hành CSTT đã được hình thành và phát triển. Chính sách lãi suất và tỷ giá hối đoái đã được áp dụng linh hoạt theo cơ chế thị trường. Chính sách tín dụng được mở rộng và đổi mới theo hướng tạo sự công bằng, bình đẳng đối với mọi thành phần kinh tế, doanh nghiệp và mọi đối tượng dân cư. Thứ tư, hệ thống ngân hàng đã được cơ cấu lại tài chính, tăng vốn điều lệ cho các NHTMNN, xử lý nợ xấu (hiện tỷ lệ nợ xấu trên tổng dư nợ đã giảm từ gần 20% trong những năm 90 xuống còn khoảng 3,1%), đào tạo cán bộ và nâng cấp hệ thống trên cơ sở công nghệ hiện đại, nối mạng và thanh toán điện tử… Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu đáng được ghi nhận nêu trên, hệ thống ngân hàng còn nhiều bất cập, nhiều vấn đề cần được khắc phục để hội nhập được tốt, có khả năng cạnh tranh cao trong môi trường quốc tế. Nguy cơ khó khăn của Ngân hàng Có 3 nguy cơ cần đề phòng khi nới lỏng chính sách tiền tệ, đó là lạm phát gia tăng, thâm hụt thương mại và phát sinh nợ xấu. Nguy cơ lạm phát gia tăng trở lại có thể không lớn vì giá cả vật tư nguyên liệu đang giảm rất mạnh, khó gây áp lực lạm phát chi phí đẩy. Nguy cơ nợ xấu có thể trở thành vấn đề của trung hạn. Theo dự báo của Ngân hàng Nhà nước, nợ xấu năm 2008 chiếm khoảng 4% tổng dư nợ của nền kinh tế, năm 2009 có thể tăng lên gần 5%, song vẫn thấp hơn mức dự kiến trong chiến lược phát triển ngành ngân hàng giai đoạn 2006-2010. Điều này cho thấy nợ xấu vẫn nằm trong tầm kiểm soát của ngân hàng Trung ương và các ngân hàng thương mại. Với khoản trích lập dự phòng rủi ro hiện nay của các ngân hàng thương mại và dự kiến sẽ tăng thêm trong thời gian tới, có thể bù đắp được 60%-70% nợ xấu nêu trên. Một nguy cơ trong bối cảnh khủng hoảng này mà nhiều người, nhiều nhà lãnh đạo các tập đoàn lớn tin rằng những tin xấu sẽ còn tệ hơn nhiều trong vài tháng tới, đặc biệt là về khía cạnh cắt giảm việc làm, thua lỗ và phá sản. Tác động dễ thấy nhất là làn sóng sáp nhập và mua lại đang diễn ra ngày càng sôi động hơn trong hệ thống ngân hàng. Ngân hàng lớn, còn sống được qua ngày, bỏ tiền mua lại ngân hàng gặp vấn đề, đang đứng trước nguy cơ phá sản. Nhà nước bỏ tiền ra quốc hữu hóa một phần hoặc toàn bộ một số ngân hàng và tổ chức tài chính lớn. Nói cách khác, nhiều tên tuổi sẽ mất đi, nhường chỗ cho sự vươn lên của nhiều gã khổng lồ hơn. Và các ngân hàng này không chỉ nhắm tới sáp nhập hay mua lại ngân hàng khác, mà còn nhắm đến cả những định chế tài chính khác như bảo hiểm chẳng hạn. Thêm nữa, hệ thống ngân hàng lại sẽ phải lo tới nỗi lo nhân lực. Đó là thiếu nhân lực có chuyên môn cao để phát triển các nghiệp vụ phòng ngừa rủi ro. Do sau khủng hoảng, chắc chắn nhu cầu về sản phẩm phòng ngừa rủi ro và những yêu cầu an toàn cho ngân hàng sẽ ngày càng khắc nghiệt. Cuối cùng là thiếu nhân sự chuyện dự báo. Qua một năm mà người ta cảm thấy tác hại của dự báo kém đến mức nào thì dự báo trở nên quan trọng. Và ngân hàng cũng biết rằng phải đầu tư nhiều cho lực lượng chuyên gia dự báo định lượng giỏi, về lãi suất, về tỷ giá và kinh tế nói chung.  Ngân hàng thương mại lo điều chỉnh giảm tăng trưởng tín dụng Với mức tăng trưởng tín dụng đến cuối tháng 2.2011 đã quá cao, nhiều ngân hàng thương mại (NHTM) cổ phần ở Hà Nội đang rất khó khăn khi phải điều chỉnh giảm mức tăng dư nợ. Một số lãnh đạo NHTM cổ phần lo ngại về việc giảm mạnh tốc độ tăng trưởng dư nợ sẽ ảnh hưởng đến mục tiêu lợi nhuận của ngân hàng, đồng thời khó khăn cho khách hàng vay vốn, nhất là các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Tuy nhiên, đại diện lãnh đạo Ngân hàng Nhà nước nhấn mạnh: các NHTM phải thực hiện để đảm bảo mục tiêu kiềm chế lạm phát. Hiện nay, hầu hết NHTM cổ phần đang rà soát lại tình hình thị trường và khách hàng, lập phương án kiểm soát tăng trưởng dư nợ theo lộ trình giảm dần về mức yêu cầu, xem xét bớt tỷ lệ cho vay vào các lĩnh vực phi sản xuất. Một số NHTM đang nghiên cứu các biện pháp chuẩn bị áp dụng phòng khi Ngân hàng Nhà nước có thể có những biện pháp hạn chế trong một số lĩnh vực như: giao dịch vàng, huy động và cho vay ngoại tệ, kiểm tra tình hình mua trái phiếu doanh nghiệp… 3. Việc Phá sản các tổ chức tín dụng ở Việt Nam a. Điều kiện xác định TCTD lâm vào tình trạng phá sản là TCTD không có khả năng thanh toán các khoản nợ đến hạn khi chủ nợ có yêu cầu, sau khi Ngân hàng Nhà nước (NHNN) đã có văn bản không áp dụng hoặc chấm dứt áp dụng các biện pháp phục hồi khả năng thanh toán hoặc chấm dứt áp dụng kiểm soát đặc biệt thì được coi là lâm vào tình trạng phá sản. Những người có quyền nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản gồm: Chủ nợ không có bảo đảm hoặc có bảo đảm một phần của TCTD; người lao động làm việc trong TCTD; chủ sở hữu của TCTD nhà nước, cổ đông của TCTD cổ phần. Trong khi thực hiện chức năng, nhiệm vụ, nếu nhận thấy TCTD lâm vào tình trạng phá sản, NHNN và các cơ quan có liên quan theo quy định của pháp luật có nhiệm vụ thông báo bằng văn bản cho những người nêu trên biết để họ xem xét việc nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản. Cơ quan thông báo phải chịu trách nhiệm về tính chính xác của thông báo đó. Ngoài ra, đại

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docxViệc cần thiết xây dựng một quy chế pháp lý riêng trong phá sản các Ngân hàng Thương mại.docx
Tài liệu liên quan