Tiểu luận Việt Nam với bài toán tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội

MỤC LỤC

Lời mở đầu

Chương I: Tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội những khía cạnh lý thuyết

I. Tăng trưởng và công bằng: khái niệm, thước đo

II. Các quan điểm về quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và Công bằng xã hội

1. Tăng trưởng kinh tế tất yếu dẫn đến bất bình đẳng

2. Ưu tiên công bằng hơn tăng trưởng

3. Tăng trưởng đi liền với công bằng

Chương II: Việt Nam với bài toán tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội

I. Quan điểm về tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội ở Việt Nam

II. Thực trạng tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội ở nước ta

III. Giải pháp cho mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội ở Việt Nam

Kết luận

Tài liệu tham khảo

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

doc26 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 3738 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tiểu luận Việt Nam với bài toán tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ức khoẻ... Để thực hiện một chiến lược như vậy, một mặt phải có được một nguồn tài chính lớn dành cho các khoản trợ cấp này, và mặc khác, xây dựng một mạng lưới nhằm phân bổ và thực hiện các dịch vụ cho người nghèo. Một loạt chính sách hỗ trợ cho mục tiêu này như thực hiên thuế, lãi suất, giá cả ưu đãi. Mặc dù ý tưởng cuả chiến lược này khá hấp dẫn và hợp lý nhằm đảm bảo giải quyết công bằng trong điều kiện thúc đẩy tăng trưởng, song nó cũng bị phê phán về một số khía cạnh. Thứ nhất, để có thể thực hiện trợ cấp như vậy, chính phủ cần phải có một nguồn tài chính lớn mà trong nhiều trường hợp, đặc biệt ở giai đoạn đầu, lợi ích thu được từ tăng trưởng còn quá nhỏ. Thứ hai, liệu những trợ cấp như vậy có đủ đảm bảo cho người dân tham gia rộng rãi vào hệ thống kinh tế hay không, hay họ chỉ có khả tiếp cận đến giới hạn của nghèo khổ. Nói cách khác, quan điểm hướng vào nhu cầu cơ bản của con người về cơ bản là chương trình hành động xã hội nhiều hơn là một chiến lược tổng thể đảm bảo một cơ chế tương hỗ thực sự giữa tăng trưởng và công bằng. Hai là, tái phân phối cùng với tăng trưởng (Redistribution With Growth), hay được diễn đạt hơi khác đi như tăng trưởng với phân phối thu nhập được cải thiện, hoặc tăng trưởng cùng chia sẻ. Quan điểm này xét về mục đích giống như quan điểm trên nhưng khác về cách thức tiếp cận để đạt được mục tiêu. Đây là ý tưởng của Ngân hàng thế giới được thể hiện trong công trình nghiên cứu cùng tên do ngân hàng này đỡ đầu thực hiện. Phân phối lại cùng với tăng trưởng là con đường theo đó lợi ích thu được từ tăng trưởng kinh tế cần được phân phối lại sao cho cùng với thời gian, phân phối thu nhập dần dần được cải thiện hoặc không bị xấu đi trong khi quá trình tăng trưởng vẫn tiếp tục. Khác với quan điểm của những người theo mô hình hướng vào những nhu cầu cơ bản của con người nhấn mạnh vào việc đảm bảo các dịch vụ công cộng, quan điểm tái phân phối cùng với tăng trưởng nhấn mạnh việc tăng khả năng sản xuất và sức mua của dân chúng. Các chính sách của chính phủ cần đảm bảo một sự phát triển sao cho người dân tìm thấy những cơ hội kiếm tiền tốt hơn đồng thời nhận được những nguồn lợi cần thiết để tạo ra lợi nhuận. Theo một nhóm nghiêm cứu của Ngân hàng thế giới, có bảy công cụ chính sách có thể được sử dụng là: Các biện pháp tạo ra sự biến đổi cả lao động và tư bản, khuyến khích sử dụng lao động lành nghề. “Phân phối lại một cách năng động” tài sản bằng cách định hướng đầu tư vào các lĩnh vực mà những người nghèo có thể là sở hữu tài sản như đất đai hoặc cửa hiệu nhỏ. Mở rộng giáo dục để cải thiện mức độ biết đọc, biết viết, kĩ năng lành nghề, cách tiếp cận với nền kinh tế hiện đại. Chế độ thuế tiến bộ. Cung cấp rộng rãi các mặt hàng tiêu dùng như lương thực, thực phẩm thiết yếu cho người nghèo. Can thiệp vào thị trường hàng hoá để giúp đỡ người sản xuất và tiêu thụ nghèo. Phát triển công nghiệp nhằm giúp cho những người có thu nhập thấp có được năng lực sản xuất cao hơn. Những biện pháp chính sách này là định hướng chung và được chú trọng cụ thể cho mỗi loại nước. Chẳng hạn, những nước sản xuất công nghiệp là chủ yếu thì phát triển nông thôn được chú trọng hơn. Quan điểm tăng trưởng đi liền với công bằng dựa trên một giả thuyết rất quan trọng là công bằng không đối lập với tăng trưởng, ngược lại là một yếu tố góp phần vào tăng trưởng kinh tế. Ngay từ năm 1968, Murdal là người đầu tiên đã khẳng định rằng bất bình đẳng có thể làm hại cho tăng trưởng kinh tế và bất bình đẳng ở mức thấp sẽ kích thích tăng trưởng kinh tế. Tiếp đó, Ahluwalia (1974) đã khẳng định trong công trình nghiên cứu thực tế của mình rằng “không có mô hình tiêu biểu cho mối quan hệ giữa những thay đổi trong phân phối thu nhập và tốc độ tăng trưởng GDP... Điều này chỉ ra rằng, có rất ít cơ sở thực tế vững chắc để chứng minh cho quan điểm tốc độ tăng trưởng cao chắc chắn sẽ nảy sinh bất bình đẳng lớn hơn”. Hart Mut Elseahans (1989) cũng lập luận khá đầy đủ về tác động của công bằng đối với tăng trưởng. Nhiều nhà nghiên cứu khác như Alesina và Perrotti (1994), Alesina và Rodrik (1994), Nancey Birdsall, David Ross vàRichard Sobot (1995) cũng như các chuyên gia ở Ngân hàng thế giới đã tiến hành các công trình nghiên cứu và đưa ra bằng chứng để chứng minh tại sao bất bình đẳng cao có thể hạn chế tăng trưởng. Chương II Việt Nam với bài toán tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội I. Quan điểm về tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội ở Việt Nam Đề cập đến việc xử lý mối quan hệ giữa hai yếu tố cơ bản đó trong quá trình phát triển, Đại hội VI của Đảng mới chỉ bước đầu xác định: “ Trình độ phát triển kinh tế là điều kiện vật chất để thực hiện chính sách xã hội, nhưng những mục tiêu xã hội lại là mục đích của hoạt động kinh tế. Phải đến Đại hội VII của Đảng (6-1991), Báo cáo chính trị của Ban chấp hành Trung ương khoá VI mới chính thức nêu lên các quan điểm có ý nghĩa triết lý chỉ đạo việc kết hợp hài hoà giữa cái kinh tế và cái xã hội trong quá trình đổi mới như sau: Mục tiêu của chính sách xã hội thống nhất với mục tiêu phát triển kinh tế, đều nhằm phát huy sức mạnh của nhân tố con người và vì con người. Kết hợp hài hoà giữa phát triển kinh tế với phát triển văn hoá, xã hội, giữa tăng trưởng kinh tế với tiến bộ xã hội, giữa đời sống vật chất và đời sống tinh thần của nhân dân. Coi phát triển kinh tế là cơ sở và tiền đề để thực hiện các chính sách xã hội, thực hiện tốt chính sách xã hội là động lực thúc đẩy phát triển kinh tế. Đại hội VIII của Đảng (tháng 6-1996) đề ra quyết tâm tiếp tục nắm vững hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc, đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Mục tiêu của công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước là xây dựng nước ta thành một nước công nghiệp có cơ sở vật chất - kỹ thuật hiện đại, cơ cấu kinh tế hợp lý, quan hệ sản xuất tiến bộ, phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, đời sống vật chất và tinh thần cao, quốc phòng an ninh vững chắc, dân giàu, nước mạnh xã hội công bằng, văn minh. Đại hội VIII của Đảng (6-1996) lại bổ sung một quan điểm quan trọng nữa là: “Tăng trưởng kinh tế phải gắn liền với tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng bước và trong suốt quá trình phát triển. Công bằng xã hội phải thể hiện ở cả khâu phân phối tư liệu sản xuất lẫn khâu phân phối kết quả sản xuất, ở tạo điều kiện cho mọi người đều có cơ hội phát triển và sử dụng tốt năng lực của mình”. Rõ ràng chủ nghĩa tư bản hiện đại còn tự tiếp tục tự điều chỉnh để phát triển và cũng có khả năng phát triển mạnh về kinh tế trong những thập kỷ mới. Song dù tự điều chỉnh như thế nào, thì nó vẫn không thể khắc phục nổi những mâu thuẫn vốn có, mà mâu thuẫn cơ bản nhất là mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất ngày càng xã hội hoá cao độ, vượt ra khỏi biên giới quốc gia, với chế độ chiếm hữu tư nhân TBCN về những tư liệu sản xuất chủ yếu từ trong mỗi nước tư bản và toả ra nhiều nước khác trên thế giới, qua đó làm nảy sinh nhiều vấn đề kinh tế và xã hội nan giải. Khi trả lời báo Yomiuri (Nhật Bản) về câu hỏi “Liệu CNTB và nền văn minh thị trường có thoả mãn đời sống dân chúng không?”, nhà đại tài phiệt Mỹ George Soros đã nói: “Có nhiều người cảm thấy không thoải mái với chủ nghĩa tư bản vì đó là một hệ thống vô nhân đạo hiểu theo nhiều cách. Có những người lo ngại về sự thiếu công bằng xã hội và tôi nằm trong số những người đó. Những người khác người khác lo ngại về sự xâm lược chủ quyền quốc gia”. Đại hội VIII cũng xác định rõ, trong giai đoạn đến năm 2000 và những năm tiếp sau, nhiệm vụ của nhân dân ta là tập trung mọi lực lượng, tranh thủ thời cơ, vượt qua thử thách, đẩy mạnh công cuộc đổi mới một cách toàn diện và đồng bộ, tiếp tục phát triển nền kinh tế nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa, tăng trưởng kinh tế nhanh, hiệu quả cao và bền vững đi đôi với giải quyết những vấn đề bức xúc về xã hội, bảo đảm an ninh, quốc phòng, vượt qua tình trạng nước nghèo và kém phát triển, cải thiện đời sống của nhân dân. Quan điểm của Đảng ta là tăng trưởng kinh tế phải gắn liền với tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng bước, trong suốt quá trình phát triển. Công bằng xã hội phải thể hiện ở cả khâu phân phối kết quả sản xuất cũng như ở việc tạo điều kiện phát triển năng lực của mọi thành viên trong cộng đồng. Phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa đòi hỏi chúng ta phải quan tâm hơn đến tiến bộ xã hội và công bằng xã hội trong quá trình tăng trưởng kinh tế, nhất là trong quá trình chuyển sang nền kinh tế thị trường. Tuy nhiên, vấn đề là quan niệm thế nào cho đúng về công bằng xã hội trong nền kinh tế thị trường phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Tăng trưởng kinh tế gắn liền với tiến bộ và công bằng xã hội luôn luôn là mục tiêu cơ bản mà Đảng ta, nhân dân ta không ngừng phấn đấu để đạt tới. Chúng ta không thể ngồi chờ kinh tế phát triển cao, dân giàu lên, mới thực hiện sự tiến bộ và công bằng xã hội. Chúng ta cũng không thể hi sinh sự tiến bộ, công bằng xã hội để phát triển kinh tế một cách thuần tuý. Mỗi chính sách về kinh tế của chúng ta đều nhằm mục tiêu phát triển xã hội, mỗi chính sách xã hội đều chứa đựng nội dung và ý nghĩa thúc đẩy kinh tế phát triển. Công bằng xã hội trong phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa không chỉ là việc điều hoà lợi ích, điều tiết phân phối lại thu nhập của các giai tầng trong xã hội cho hợp lý mà quan trọng hơn là phải đảm bảo cho mọi tầng lớp xã hội được hưởng các quyền lợi xã hội như giáo dục, chăm sóc sức khoẻ, đào tạo nghề nghiệp, được giúp đỡ lúc khó khăn, hoạn nạn. Công bằng xã hội đảm bảo cho mọi thành viên trong xã hội không ngừng nâng cao mức sống và tự khẳng định mình. Công bằng không phải là sự cào bằng, thực hiện chủ nghĩa bình quân. Vấn đề mấu chốt để thực hiện công bằng xã hội là phải gắn nó với sự tăng trưởng kinh tế. Công bằng xã hội của nước ta gắn liền với chủ nghĩa xã hội, là một trong những biểu hiện đặc trưng của chủ nghĩa xã hội. Chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam là sự thống nhất và phát triển biện chứng giữa giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng xã hội và giải phóng con người. Chủ nghĩa xã hội sẽ tiến tới xoá bỏ mọi áp bức, bóc lột, bất công và mưu cầu hạnh phúc cho mọi người, mọi gia đình và toàn xã hội. Đó là công bằng xã hội lớn nhất, triệt để nhất mà chúng ta phấn đấu. Mục tiêu lâu dài đó được cụ thể hoá trong giai đoạn trước mắt ở nước ta bằng khẩu hiệu toàn dân đoàn kết phấn đấu vì sự nghiệp “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh”. Bằng khẩu hiệu đó, Đảng và Nhà nước ta chủ trương khuyến khích mọi người tham gia làm giàu chính đáng. Phấn đấu để nghèo thì đủ ăn, người đủ ăn thì trở nên khá giả, người khá giả thì trở nên giàu có. Chúng ta thừa nhận có một bộ phận dân cư, một số vùng giàu lên trước là cần thiết để thúc đẩy hỗ trợ cho sự phát triển và tiến bộ chung. Đồng thời, phải có những chính sách kinh tế, xã hội đặc biệt để trợ giúp người nghèo, vùng nghèo khá dần lên. Có hai loại quan niệm cho rằng, thứ nhất, phát triển kinh tế nhanh nhưng phải chấp nhập phân hoá giàu nghèo trong xã hội lớn hơn, tiêu cực nhiều hơn; thứ hai, xã hội bình đẳng hơn, phân hoá thấp hơn nhưng tốc độ phát triển chậm. Những quan niệm nêu trên đều sai lầm vì nó dựa trên một định đề không đúng: phát triển nhanh nhất thiết đòi hỏi phân hoá xã hội cao. Những phân tích ở các chương trên đã cho thấy, tăng trưởng nhanh không nhất thiết phải ra tăng bất bình đẳng. Nhưng cũng phải thấy rằng, sự phân hoá xã hội, phân hoá giàu nghèo là một thực tế lịch sử ở nhiều quốc gia. Do vậy, khi chuyển nền kinh tế nước ta sang kinh tế thị trường, chúng ta chấp nhận sự chênh lệch giàu nghèo. Song chúng ta không đồng nhất sự phân hoá giàu nghèo với sự bất bình đẳng và công bằng nói chung. Sự phân hoá giàu nghèo có tính hai mặt: mặt hợp lý (tức công bằng) và mặt bất hợp lý (tức bất công). Nếu giàu nghèo là do tài năng và phẩm chất trong lao động, do những điều kiện khách quan chưa có thể khắc phục được thì xã hội phải chấp nhận đó là lẽ công bằng. Ngược lại nếu làm giàu do lừa đảo, lợi dụng quyền chức, tham nhũng, làm ăn phi pháp, buôn lậu, v.v. thì đó là sự bất công cần phải đấu tranh để từng bước xoá bỏ. Càng ngày người ta nhận thức được một cách rõ ràng là tăng trưởng kinh tế là điều kiện cần thiết khách quan để xoá bỏ những bất bình đẳng và bất công đã tồn tại hàng nghìn năm lịch sử. Thế nhưng, tăng trưởng kinh tế lại làm nảy sinh những bất bình đẳng mới. Những bất bình đẳng tồn tại gắn liền với sự khác nhau về trí tuệ, năng lực và phẩm chất của cá nhân lao động, quản lý và hệ quả tất yếu là thu nhập không ngang nhau cho các thành viên khác nhau của xã hội không ngừng tăng lên, những nhu cầu này được thoả mãn thì những nhu cầu mới lại nảy sinh, và xã hội không thể thoả mãn như nhau cho mọi thành viên trong xã hội. Như vậy tăng trưởng kinh tế trong nền kinh tế thị trường luôn làm nảy sinh và tạo điều kiện để giải quyết mâu thuẫn trong vấn đề công bằng xã hội. II.Thực trạng tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội ở nước ta Thời kỳ 1976-1985, tốc độ tăng trưởng kinh tế bình quân hàng năm ở nước ta chỉ đạt 2% trong khi tốc độ tăng dân số bình quân hàng năm là 2,4%; nền kinh tế tăng trưởng thấp, làm không đủ ăn và dựa và nguồn bên ngoài ngày càng lớn. Trong thời kỳ này, chế độ phân phối vẫn mang nặng tính chất bình quân do đó làm triệt tiêu động lực của người lao động, công bằng xã hội bị vi phạm nghiêm trọng, kinh tế xã hội rơi và khủng hoảng nặng nề kéo dài. Tại Đại hội VI (năm 1986), Đảng ta đã khởi xướng công cuộc đổi mới. Những nội dung quan trọng của đường lối đổi mới kinh tế là thực hành dân chủ hoá đời sống kinh tế, chuyển cơ chế quản lý kế hoạch tập trung cao độ sang cơ chế thi trường có sự quản lý của nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa, chuyển việc phát triển kinh tế quốc doanh và tập thể ồ ạt sang phát triển kinh tế nhiều thành phần, chuyển việc cấp phát hiện vật và bao cấp sang sử dụng quy luật giá trị của sản xuất hàng hoá, mở cửa nền kinh tế, thu hút đầu tư nước ngoài, chuyển quan hệ kinh tế đối ngoại từ đơn phương sang đa phương theo hướng nền kinh tế mở, đa dạng hoá hình thức và đa phương hoá quan hệ. Thời kỳ 1986-1996, tốc độ tăng trưởng kinh tế đã được nâng lên đáng kể. Từ năm 1992 đến năm 1995, tăng trưởng kinh tế hàng năm đều vượt trên 8%. Nền kinh tế nước ta đang trên đà cất cánh. Trong 5 năm 1986-1990, thu nhập quốc dân tăng 4,2%, thu nhập bình quân đầu người tăng với nhịp độ 1,65% trong điều kiện dân số vẫn tăng cao với nhịp độ 2,2%. Cơ chế mới đi vào thực tiễn từ năm 1989, chế độ tem phiếu được xoá bỏ, lạm phát phi mã đã được kìm lại, đời sống người dân được cải thiện một bước. Trong thời kỳ 1991-1995, tổng sản phẩm trong nước (GDP) tăng trung bình hàng năm 8,2%, nhịp độ tăng thu nhập đầu người đạt 6,0%. Cơ cấu kinh tế đã có bước chuyển đổi: tỷ trọng công nghiệp và xây dựng trong GDP từ 22,6% năm 1990 lên 29,1% năm 1995, tỷ trọng dịch vụ từ 38,6% lên 41,9%, tỷ trọng nông nghiệp (gồm cả lâm, ngư nghiêp) từ 38,7% giảm xuống còn 29%. Nền kinh tế bắt đầu có tích luỹ nội bộ. Vốn đầu tư cơ bản toàn xã hội năm 1990 chiếm 15,8% GDP, năm 1995 tăng kên 27,4%, trong đó nguồn đầu tư trong nước chiếm 16,7% GDP. Đời sống vật chất của số đông nhân dân được cải thiện, tuy mức độ cải thiện không đều giữa các tầng lớp, giữa các vùng. Mỗi năm thêm 1 triệu lao động có việc làm. Trong 5 năm, khối lượng hàng hoá tiêu thụ trên thị trường đã tăng gấp đôi (bình quân mỗi năm tăng 7,4%). Số lượng đáng kể nhà ở và đường giao thông được cải tạo và xây dựng mới cả ở thành thị và nông thôn đã nâng cao hơn điều kiện ăn ở, đi lại và hưởng thụ văn hoá của nhân dân. Các chỉ tiêu dân số, tăng trưởng kinh tế (1976-1996) Năm Dân số (1000 người) Tốc độ tăng trưởng (%) Toàn bộ nền kinh tế Nông nghiệp Công nghiệp Xuất khẩu Nhập khẩu 1976 1977 1978 1979 1980 1981 1982 1983 1984 1985 1986 1987 1988 1989 1990 1991 1992 1993 1994 1995 1996 1996/1975(%) 49.160 50.413 51.421 52.462 53.722 54.921 56.170 57.373 58.653 59.872 61.109 62.452 63.727 64.774 66.233 67.774 69.405 71.026 72.510 74.000 75.520 153,7 … 2,8 2,3 -2,0 -1,4 2,3 8,8 7,2 8,3 5,7 6,5 3,4 4,6 2,7 5,1 6,0 8,6 8,1 8,8 9,5 9,4 280,5 14,3 -5,2 -1,8 8,7 7,5 4,4 11,3 3,3 5,3 2,5 4,8 0,4 4,3 7,4 1,4 2,9 8,1 6,2 3,9 4,7 4,8 248,9 … 10,8 8,2 -4,7 -10,3 1,0 8,7 13,0 13,2 9,9 6,2 10,0 14,3 -3,3 3,1 10,4 17,1 12,7 13,5 14,0 14,2 398,5 … 44,8 1,4 -0,2 5,5 18,5 31,2 17,1 5,4 7,5 12,9 3,8 21,6 87,4 23,5 -13,2 23,6 15,7 20,6 35,0 37,5 278,5 … 18,9 6,9 17,1 13,9 5,2 6,5 3,7 14,3 6,4 16,0 13,9 12,3 -6,9 7,3 -17,1 8,7 33,8 27,4 33,0 46,6 768,7 Nguồn: Tổng cục Thống kê. Tạp chí Con số và dữ kiện, 2-1995; 10-1996;1-1997 Tuy nhiên, quá trình tăng trưởng kinh tế nước ta trong nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa vẫn còn tồn tại tình trạng phân hoá giàu nghèo ngày càng mở rộng giữa các vùng, giữa thành thị và nông thôn và giữa các tầng lớp dân cư. Đời sống của một bộ phận nhân dân, nhất là ở một số vùng căn cứ cách mạng và kháng chiến trước đây, vùng đồng bào dân tộc, còn quá khó khăn. Chất lượng phục vụ y tế, giáo dục, đào tạo ở nhiều nơi rất thấp. Người nghèo không đủ tiền để chữa bệnh và cho con em đi học. Tệ nạn xã hội gia tăng. Tệ quan liêu, tham nhũng, buôn lậu, sử dụng lãng phí ngân sách và tài sản công phổ biến và nghiêm trọng. Tiêu cực trong bộ máy nhà nước, đảng và đoàn thể, nhất là trên các lĩnh vực nhà đất, xây dựng cơ bản, hợp tác đầu tư, thuế xuất nhập khẩu và cả trong hoạt động của các cơ quan thi hành pháp luật nghiêm trọng kéo dài. Tình trạng đó kéo căng thêm sự bất bình đẳng xã hội. Tại buổi gặp mặt trao đổi về vấn đề vận động công nhân trong tình hình mới do Tổng Liên đoàn lao động Việt Nam tổ chức ngày 11-10-2000 ở Hà Nội, Chủ tịch Cù Thị Hậu thẳng thắn thừa nhận: “Nền kinh tế thị trường tạo ra sự gay gắt trong nhiều lĩnh vực, phân hoá giàu nghèo ngày càng lớn, tình trạng thất nghiệp không thể tránh khỏi; lối sống cá nhân, thực dụng, vụ lợi, ích kỷ làm xói mòn truyền thống nhân ái của dân tộc, làm suy giảm tình hữu ái và đoàn kết giai cấp”. ở một phương diện nhất định, phân hoá giàu nghèo thể hiện rõ nhất sự bất bình đẳng xã hội. Nghèo đói không phải là vấn đề xã hội ở các nước lạc hậu mà có tính toàn cầu. Ngay tại các nước công nghiệp phát triển cũng tồn tại một bộ phận dân cư nghèo đói. Hội nghị về chống đói nghèo ở khu vực châu á - Thái Bình Dương do ESCAP tổ chức tháng 9-1993 tại Bangkok đã đưa ra khái niệm nghèo như sau: “Nghèo là tình trạng một bộ phận dân cư không được hưởng và thoả mãn những nhu cầu cơ bản của con người, mà những nhu cầu này đã được xã hội thừa nhận tuỳ theo trình độ phát triển kinh tế-xã hội và phong tục tập quán địa phương”. Để diễn đạt mức độ rất nghèo khổ của một bộ phận dân cư có thể mức độ nghèo và đói theo đó, đói là tình trạng một bộ phận dân cư nghèo có mức sống dưới mức tối thiểu, cơm không đủ ăn, áo không đủ mặc, thu nhập không đảm bảo duy trì cuộc sống. Nhìn chung, không có mâu thuẫn giữa các tổ chức quốc tế và các cơ quan, các ngành của Việt Nam về cách tiếp cận khái niệm nghèo đói. Song do sự khác nhau trong việc xác định số nhu cầu cơ bản cần được ưu tiên trong đánh giá nghèo đói, mức độ thỏa mãn và khả năng thích ứng của hệ thống chính sách nhà nước về xoá đói giảm nghèo nên dẫn đến sự khác nhau trong việc đưa ra những ranh giới nghèo đói, số lượng và tỷ lệ đói nghèo. Năm 1995, theo Ngân hàng thế giới, tỷ lệ đói nghèo ở Việt Nam là 51%, còn theo Tổng cục thống kê Việt Nam thì tỷ lệ đó khoảng 20%. ở đây, chuẩn mực đói nghèo được xác định trên ba yếu tố cơ bản là: Nhu cầu cơ bản tối thiểu của con người. Thu nhập bình quân đầu người của các tầng lớp dân cư phân chia theo hộ. Điều kiện và khả năng kinh tế, chính sách của nhà nước trong từng thời kỳ. Mức sống dân cư ở nông thôn luôn thấp hơn nhiều so với khu vực thành thị. Nông dân bị hạn chế hơn rất nhiều so với dân thành thị về nhiều phương diện, trước hết là vấn đề việc làm và thu nhập, dịch vụ chăm sóc sức khoẻ và giáo dục, đào tạo. Vì vậy, 90% hộ đói nghèo nước ta tập trung ở nông thôn. Tính đến cuối năm 1996, nước ta còn khoảng 2,8 triệu hộ gia đình với gần 15 triệu nhân khẩu (chiếm gần 20% tổng số hộ gia đình cả nước) thuộc diện nghèo đói. Vùng Bắc Trung Bộ và Tây Nguyên có tỷ hộ đói nghèo cao nhất, xấp xỉ 30%; vùng Đông Nam Bộ có tỷ lệ đói nghèo thấp nhất:6,47%. Như vậy chênh lệch giữa tỷ lệ đói nghèo cao nhất và thấp nhất là gần 5 lần. Miền Tây Nam Bộ, còn gọi là vùng đồng bằng sông Cửu Long, có hơn 1,9 triệu ha đất lúa, cung cấp cho đất nước hơn 13 triệu tấn thóc (năm 1996), trong đó có hơn một nửa hàng hóa là thóc. Lúa gạo miền Tây Nam Bộ nhiều và tăng nhanh nhưng nông thôn vùng này vẫn rất nghèo, cả về vật chất lẫn văn hoá tinh thần. Nhiều hộ nông dân không có ruộng hoặc ít ruộng, phải đi làm thuê gần như quanh năm. ở giữa miền Tây đầy lúa gạo mà có hơn nửa triệu hộ nghèo thu nhập bình quân từ 25kg – 35kg/tháng. Cái nghèo ở nông thôn đồng bằng sông Cửu Long còn thể hiện rõ về nhà ở và môi trường sống. Đến nay, toàn vùng còn 56,7% số hộ ở nhà tạm, trong đó 3,7% ở nhà lều chòi và chỉ có 23,5% số hộ dùng điện, 25,8% số hộ có nước sạch, 12,9% số hộ có hố xí hợp vệ sinh. Đời sống vật chất đã vậy, đời sống tinh thần còn nghèo hơn. Khoảng 40% dân nghèo miền Tây mù chữ. ở vùng sâu, vùng xa, cơ sở vật chất trường học còn yếu kém, một phần do lũ lụt triền miên, nhưng chủ yếu do đầu tư ít, chỉ 1,65% số trường cấp một, 9,9% trường cấp hai được xây dựng kiên cố. Theo ước tính, số người có trình độ đại học và cao đẳng nông nghiệp toàn vùng chỉ chiếm 0,4% số dân. Hộ nghèo năm 1996 theo các vùng kinh tế Số hộ Tỷ lệ (%) Trung du và miền núi phía Bắc Đồng bằng sông Hồng Bắc Trung Bộ Duyên hải miền Trung Tây Nguyên Đông Nam Bộ Đồng bằng sông Cửu Long Cả nước 695.503 330.519 609.372 413.660 188.878 116.728 502.912 2.857.122 27,24 11,01 30,80 23,14 29,45 6,47 16,25 19,23 III. Giải pháp cho mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội ở Việt Nam 1. Tăng trưởng kinh tế phải gắn liền với tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng bước và trong suốt quá trình phát triển. Công bằng xã hội phải thể hiện ở cả khâu phân phối hợp lý tư liệu sản xuất lẫn ở khâu phân phối kết quả sản xuất, cũng như ở việc tạo điều kiện phát triển năng lực của mọi thành phần trong cộng đồng. Thực hiện nhiều hình thức phân phối theo kết quả lao động và hiệu quả kinh tế là chủ yếu, đồng thời phân phôi dựa trên mức đóng góp các nguồn lực khác, như vốn, tài sản, tri thức công nghệ, sáng kiến kỹ thuật vào kết quả sản xuất - kinh doanh và phân phối thông qua phúc lợi xã hội, đi đôi với chính sách điều tiết hợp lý, bảo hộ quyền lợi người lao động. Nhà nước điều tiết qua các sắc thuế, đặc biệt là thuế thu nhập cá nhân để giảm bớt chênh lệch thu nhập giữa cá tầng lớp dân cư và huy động đóng góp của những người có thu nhập cao vào sự phát triển xã hội. Các chính sách kinh tế vĩ mô phải phối hợp đồng bộ thúc đẩy tăng trưởng và đảm bảo quyền lợi của người lao động. Chẳng hạn, chính sách của nhà nước tìm mọi biện pháp mua hết số lượng thóc hàng hoá của nông dân với giá cả hợp lý, không để lúa rớt giá quá thấp là chính sách đúng đắn, vừa đảm bảo yêu cầu thúc đẩy sản xuất lương thực và yêu cầu đảm bảo công bằng xã hội trong phân phối thu nhập. Tuy nhiên, biện pháp thực có khi không đáp ứng được các yêu cầu trên. Chẳng hạn, bù giá mua lương thực lại lợi bất cập hại, chỉ đưa lại lợi ích cho tầng lớp trung gian, tiểu thương thu gom lương thực và một số doanh nghiệp kinh doanh lương thực. ở nhiều nơi, đặc biệt là vùng đồng bằng sông Cửu Long, nhiều nông dân không có đất – tư liệu sản xuất chủ yếu của nông dân, để sản xuất. Điện, một hàng hoá thiết yếu cho cả sản xuất và đời sống dân cư, được bán với giá khác nhau ở nông thôn và thành thị, trong đó dân cư nông thôn thường phải trả gấp hai, ba lần hoặc hơn so với dân thành phố. Những thực tế này đặt ra vấn đề, chính sách của Nhà nước cần quán triệt sâu sắc hơn nữa nguyên tắc đảm bảo công bằng xã hội đến mức tối đa trong giới hạn có thể. 2. Tăng cường hơn nữa công tác kế hoạch hoá gia đình. Một nguyên nhân quan trọng dẫn đến nghèo đói và nhiều người dân, đặc biệt là phụ nữ và trẻ em, không được chăm sóc y tế và học hành làm dân số tăng nhanh, quy mô gia đình lớn. Đặc biệt, những gia đình quá nhiều con phải chịu rất nhiều thiệt thòi. Vì vậy, làm cho các gia đình trở nên ít con là một điều kiện một yếu tố cực kỳ quan trọng để có tăng trưởng kinh tế gắn liền với tiến bộ và công bằng xã hội. Đến năm 1997, dân số nước ta là 77,5 triệu người. Với tốc độ gia tăng dân số tự nhiên 2% như hiện nay, nước ta vẫn là nước có tỷ lệ tăng dân số cao nhất trong khu vực. Nhận thức rõ ràng tầm quan trọng của công tác dân số - kế hoạch hoá gia đình, Đảng và Nhà nước ta đã đề ra nhiều chỉ thị, nghị quyết, tập trung nhiều nguồn lực nhằm hạ tỷ lệ phát triển dân số. Nhờ đó, phong trào thực hiện kế hoạch hoá gia đình trong nhân dân cả

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docTăng trưởng kinh tế.doc