Tiểu luận Xác định quyền năng nhận tiền gửi và đề xuất ý kiến về pháp luật hiện hành về quyền năng này áp dụng đối với ngân hàng có vốn đầu tư nước ngoài

Pháp luật huy động vốn bằng nhận tiền gửi của các tổ chức tín dụng vẫn còn phân biệt đối xử không đảm bảo tính bình đẳng trong kinh doanh và không phù hợp với luật quốc tế. Đây là một quan điểm được đưa ra trong thời kì trước, khi mà Việt Nam chưa gia nhập WTO, Luật các Tổ chức tín dụng còn quy định khá khắt khe đối với hoạt động ngân hàng của các tổ chức tín dụng nước ngoài nói chung và các ngân hàng có vốn đầu tư nước ngoài nói riêng. Theo Nghị định của Chính Phủ số 13/1999/NĐ-CP ngày 17/3/1999 về tổ chức, hoạt động của tổ chức tín dụng nước ngoài, văn phòng đại diện của tổ chức tín dụng nước ngoài có quy định: Tổ chức tín dụng là ngân hàng được phép hoạt động tại Việt Nam dưới hình thức chi nhánh ngân hàng nước ngoài và ngân hàng liên doanh. Đồng thời cũng quy định hạn chế hoạt động huy động vốn bằng nhận tiền gửi so với các ngân hàng nội địa khác.

doc19 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 2013 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tiểu luận Xác định quyền năng nhận tiền gửi và đề xuất ý kiến về pháp luật hiện hành về quyền năng này áp dụng đối với ngân hàng có vốn đầu tư nước ngoài, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
của Quỹ tín dụng nhân dân Trung ương (Quỹ TDND TW) thành ngân hàng hợp tác xã. Sự ra đời của ngân hàng hợp tác xã sẽ khắc phục những hạn chế hiện nay về hoạt động của Quỹ TDND TW, tạo điều kiện liên kết hệ thống các QTDND cơ sở và hỗ trợ cho hệ thống này phát triển và bảo đảm an toàn hoạt động, cụ thể ngân hàng hợp tác xã sẽ thực hiện chức năng thanh toán, tiền tệ kho quỹ, hỗ trợ vốn, hệ thống công nghệ thông tin, khả năng quản trị cho các QTDND cơ sở. Luật các TCTD 2010 bổ sung loại hình ngân hàng hợp tác xã để tạo cơ sở pháp lý cho sự ra đời của ngân hàng này. Theo đó, ngân hàng hợp tác xã có quyền nhận tiền gửi như ngân hàng thương mại : “Ngân hàng hợp tác xã được thực hiện một số hoạt động ngân hàng, hoạt động kinh doanh khác theo quy định tại mục 2 Chương IV của Luật này sau khi được Ngân hàng Nhà nước chấp nhận bằng văn bản” (Khoản 2 Điều 117 Luật các TCTD 2010). Mặc dù vậy, ngân hàng hợp tác xã vẫn bị hạn chế hơn khi các hoạt động của nó phải được sự chấp nhận bằng văn bản của Ngân hàng Nhà nước. Việc này xuất phát từ sự mới mẻ của loại hình TCTD này, cần có một cơ chế hợp lý để quản lí hoạt động đi đúng hướng. 2.4. Tổ chức tài chính vi mô: Theo khoản 1 điều 119 Luật các TCTD, tổ chức tài chính vi mô được huy động vốn bằng nhận tiền gửi dưới hình thức sau: “a) Tiết kiệm bắt buộc theo quy định của tổ chức tài chính vi mô; b) Tiền gửi của tổ chức và cá nhân bao gồm cả tiền gửi tự nguyện của khách hàng tài chính vi mô, trừ tiền gửi nhằm mục đích thanh toán”. Mới đây, ngày 25/8/2010, Thống đốc Ngân hàng Nhà nước đã trao giấy phép thành lập và hoạt động cho tổ chức tài chính vi mô đầu tiên tại Việt Nam. Đây là Tổ chức tài chính quy mô nhỏ TNHH một thành viên Tình Thương (TYM), trực thuộc Hội liên hiệp Phụ nữ Việt Nam. TYM được thành lập trên cơ sở quỹ TYM, được Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam thành lập từ năm 1992 theo phương pháp tiếp cận của Ngân hàng Grameen, nhằm mục đích “cải thiện chất lượng cuộc sống của phụ nữ nghèo thông qua việc hỗ trợ tín dụng và tiết kiệm, tạo cơ hội cho phụ nữ tham gia vào các hoạt động kinh tế, xã hội, góp phần nâng cao vị thế của người phụ nữ”. Tại lễ trao giấy phép thành lập, Thống đốc Nguyễn Văn Giàu cho biết, xuất phát từ thực tiễn phát triển của loại hình tổ chức tài chính vi mô, với tư cách là cơ quan quản lý, Ngân hàng Nhà nước đang khẩn trương hoàn thiện khung pháp lý nhằm tạo điều kiện thuận lợi để các tổ chức tài chính này phát triển và hoạt động an toàn, lành mạnh. 2.5. Ngân hàng có vốn đầu tư nước ngoài: 2.5.1. Giới thiệu về ngân hàng có vốn đầu tư nước ngoài: Theo khoản 8 Điều 4 Luật các TCTD 2010, TCTD nước ngoài tại Việt Nam được hiện diện dưới các hình thức sau: “Tổ chức tín dụng nước ngoài được hiện diện thương mại tại Việt Nam dưới hình thức văn phòng đại diện, ngân hàng liên doanh, ngân hàng 100% vốn nước ngoài, chi nhánh ngân hàng nước ngoài, công ty tài chính liên doanh, công ty tài chính 100% vốn nước ngoài, công ty cho thuê tài chính liên doanh, công ty cho thuê tài chính 100% vốn nước ngoài”. Trong đó, ngân hàng liên doanh, ngân hàng 100% vốn nước ngoài chi nhánh ngân hàng nước ngoài là các loại ngân hàng có vốn đầu tư nước ngoài. Ngân hàng liên doanh, ngân hàng 100% vốn nước ngoài là các ngân hàng thương mại, được hưởng các quyền hoạt động trong lĩnh vực ngân hàng như ngân hàng thương mại, trong đó có kể đến quyền năng nhận tiền gửi. Ngân hàng liên doanh: là ngân hàng được thành lập trên cơ sở hợp đồng liên doanh, bằng vốn góp của bên Việt Nam (gồm một hoặc nhiều ngân hàng Việt Nam) và bên nước ngoài (một hoặc nhiều ngân hàng nước ngoài). Ngân hàng liên doanh được thành lập dưới hình thức công ty trách nhiệm hữu hạn, là pháp nhân Việt Nam, có trụ sở tại Việt Nam, hoạt động theo giấy phép thành lập và hoạt động do ngân hàng nhà nước cấp và theo các quy định của pháp luật Việt Nam. Ngân hàng liên doanh chỉ thành lập hợp pháp khi bên nước ngoài có phần vốn góp không quá 50% vốn điều lệ của ngân hàng liên doanh. Thời hạn hoạt động tại Việt Nam của ngân hàng liên doanh tối đa không quá 30 năm. Một điểm nhấn trong việc phát triển hệ thống hàng liên doanh tại Việt Nam là sự kiện cuối năm 2006, Ngân hàng Liên doanh Việt - Nga được thành lập, tăng số lượng ngân hàng liên doanh tại Việt Nam lên 05 ngân hàng với 15 chi nhánh tại các vùng kinh tế trọng điểm như Hà Nội, Tp.Hồ Chí Minh, Hải Phòng, Đà Nẵng, Bình Dương, Cần Thơ, Đồng Nai. Hiện nay do số lượng nhỏ, các ngân hàng liên doanh vẫn giữ vị trí khiêm tốn trên thị trường tài chính Việt Nam và những thay đổi so với năm trước còn chưa thực sự rõ nét, cả về mạng lưới chi nhánh, các loại hình dịch vụ cung cấp, kết quả hoạt động kinh doanh. Ngân hàng 100% vốn nước ngoài: là ngân hàng được thành lập tại Việt Nam với 100% vốn điều lệ thuộc sở hữu nước ngoài; trong đó phải có một ngân hàng nước ngoài sở hữu trên 50% vốn điều lệ (ngân hàng mẹ). Ngân hàng 100% vốn nước ngoài được thành lập dưới công ty trách nhiệm hữu hạn, là pháp nhân Việt Nam, có trụ sở chính tại Việt Nam. (theo khoản 6 điều 7 Nghị định của Chính phủ số 22/2006/NĐ-CP ngày 28/02/2006 về tổ chức và hoạt động của chi nhánh ngân hàng nước ngoài, ngân hàng liên doanh, ngân hàng 100% vốn nước ngoài, văn phòng đại diện tổ chức tín dụng nước ngoài tại Việt Nam). Ngân hàng 100% vốn nước ngoài là một loại hình mới trong hệ thống các tổ chức tín dụng tại Việt Nam. Cụ thể, từ ngày 1/4/2007, các ngân hàng Mỹ và nước khác sẽ được thành lập chi nhánh 100% vốn nước ngoài tại Việt Nam. Đây là sự phát triển mới trong hệ thống ngân hàng Việt Nam khi Việt Nam gia nhập WTO. Cụ thể, thực hiện các cam kết với WTO, Ngân hàng Nhà nước đã cấp giấy phép thành lập và hoạt động cho 5 ngân hàng 100% vốn nước ngoài tại Việt Nam, đó là Ngân hàng HSBC, Standard Chartered, ANZ, Shinhan và Hong Leong. Hầu hết, các ngân hàng nước ngoài đều mở chi nhánh tại hai thành phố lớn là Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh. Chi nhánh ngân hàng nước ngoài: là đơn vị phụ thuộc ngân hàng mẹ, không có tư cách pháp nhân theo pháp luật Việt Nam, được ngân hàng mẹ bảo đảm bằng văn bản về việc chịu trách nhiệm đối với mọi nghĩa vụ và cam kết của chi nhánh tại Việt Nam. Theo khoản 9 Điều 4 Luật các TCTD năm 2010, chi nhánh ngân hàng nhà nước được định nghĩa như sau: “…là đơn vị phụ thuộc của ngân hàng nước ngoài, không có tư cách pháp nhân, được ngân hàng nước ngoài bảo đảm chịu trách nhiệm về mọi nghĩa vụ, cam kết của chi nhánh tại Việt Nam”. Như vậy, chi nhánh ngân hàng nước ngoài không có tư cách của một chủ thể độc lập mà theo chế độ ủy quyền của ngân hàng nước ngoài khi thực hiện các giao dịch tại Việt Nam. Trường hợp một ngân hàng mở nhiều chi nhánh tại Việt Nam thì các chi nhánh này là những đơn vị được tổ chức độc lậpvới nhau, phụ thuộc ngân hàng nước ngoài, được ngân hàng nước ngoài cấp vốn hoạt động. Các chi nhánh ngân hàng nước ngoài được coi là nhóm ngân hàng năng động và hoạt động hiệu quả nhất, nhiều chi nhánh ngân hàng nước ngoài đã có chiến lược xây dựng và mở rộng mạng lưới khách hàng. Với kinh nghiệm quản lý điều hành và lợi thế về công nghệ, các ngân hàng nước ngoài luôn luôn dẫn đầu trong việc phát triển và áp dụng công nghệ hiện đại cũng như các sản phẩm mới vào thị trường Việt Nam như hoạt động ngân hàng điện tử, bao thanh toán, môi giới kinh doanh.Thời hạn hoạt động tối đa của chi nhánh ngân hàng nước ngoài, ngân hàng liên doanh, ngân hàng 100% vốn nước ngoài không quá 99 năm; thời hạn hoạt động của chi nhánh ngân hàng nước ngoài không vượt quá hoạt động của ngân hàng mẹ. Có thể nói, các ngân hàng có vốn đầu tư nước ngoài ngày càng thể hiện rõ vai trò của mình trong nền kinh tế. Đến nay, có 5 ngân hàng liên doanh, 5 ngân hàng 100% vốn nước ngoài, 48 chi nhánh ngân hàng nước ngoài, 8 công ty cho thuê tài chính, 56 văn phòng đại diện nước ngoài đang hoạt động tại Việt Nam. Các tổ chức này đều là những ngân hàng và tổ chức tài chính lớn, có uy tín và độ an toàn cao, có khả năng cạnh tranh tốt. Mặc dù thị phần hoạt động của các TCTD nước ngoài vẫn còn ở mức khiêm tốn (khoảng 10%), nhưng có vị trí quan trọng trong hệ thống các định chế tài chính tại Việt Nam. Các TCTD nước ngoài là kênh truyền dẫn vào Việt Nam các công nghệ ngân hàng hiện đại và kinh nghiệm quản trị ngân hàng tiên tiến, đồng thời bổ sung nguồn tài chính không nhỏ cho thị trường tài chính Việt Nam. 2.5.2. Quyền năng nhận tiền gửi của ngân hàng có vốn đầu tư nước ngoài: Việt Nam được đánh giá là đất nước có nền kinh tế phát triển và là nơi tiêu thụ hàng hóa lớn của thế giới, do vậy, các ngân hàng nước ngoài đua nhau xâm nhập vào thị trường màu mỡ này. Nhất là khi Việt Nam gia nhập WTO, với những cam kết mở cửa thị trường, trong đó có lĩnh vực tài chính ngân hàng càng thu hút mạnh mẽ sự đầu tư của các ngân hàng nước ngoài. Huy động vốn bằng nhận tiền gửi là hoạt động tạo nguồn vốn của các ngân hàng nói chung và ngân hàng có vốn đầu tư nước ngoài cũng không nằm ngoài quy luật đó. Năm 2011 được xem là năm bản lề trong lĩnh vực tài chính-ngân hàng vì chính thời điểm này, Việt Nam sẽ thực hiện các cam kết về gỡ bỏ các rào cản trong lĩnh vực này, đảm bảo nguyên tắc đối xử quốc gia đầy đủ, trong đó có các hạn chế trong quyền năng nhận tiền gửi. Quy định pháp luật về quyền năng nhân tiền gửi của ngân hàng có vốn đầu tư nước ngoài bao gồm các nội dung chính như sau: - Các quy định chung về các chủ thể trong quan hệ tiền gửi (điều kiện đối với mỗi loại chủ thể, các quyền và nghĩa vụ của các chủ thể trong quan hệ tiền gửi); - Các quy định về các loại tiền gửi; - Các quy định giới hạn quyền huy động vốn bằng nhận tiền gửi của Ngân hàng có vốn đầu tư nước ngoài; - Các quy định về trách nhiệm, nghĩa vụ của ngân hàng có vốn đầu tư nước ngoài trong hoạt động huy động vốn bằng nhận tiền gửi; - Các quy định quản lí nhà nước đối với hoạt động huy động vốn bằng nhận tiền gửi của ngân hàng có vốn đầu tư nước ngoài. Các chủ thể là Ngân hàng có vốn đầu tư nước ngoài trong quan hệ tiền gửi. Đối với ngân hàng liên doanh và ngân hàng 100% vốn nước ngoài là ngân hàng thương mại do vậy được thực hiện các hoạt động ngân hàng như ngan hàng thương mại bình thường khác. Có thể thấy, cùng với sự phát triển của nền kinh tế, hoạt động ngân hàng phát triển, hệ thống các ngân hàng ngày càng nhiều với nhiều loại hình khác nhau. Theo đó, việc quy định vấn đề nhận tiền gửi của ngân hàng nói chung và ngân hàng có vốn đầu tư nước ngoài nói riêng mà không hạn chế loại tiền gửi nào đã tạo điều kiện tốt cho việc huy động vốn bằng nhận tiền gửi của các ngân hàng. Bởi căn cứ vào tính đặc thù của hoạt động này, tính nghiệp vụ ngân hàng đặc trưng và đây là hoạt động huy động vốn rất có hiệu quả của các ngân hàng nên việc quy định này đã mở rộng quyền năng huy động vốn bằng nhận tiền gửi đối với mỗi loại tiền gửi tương ứng với mỗi loại ngân hàng sẽ thúc đẩy được hoạt động ngân hàng, đặc biệt là ngân hàng có vốn đầu tư nước ngoài ngày càng mở rộng hơn. Luật các tổ chức tín dụng khi quy định về hoạt động này không hề có sự phân biệt giữa ngân hàng có vốn đầu tư nước ngoài với ngân hàng thương mại khác. Điều này thể hiện sự chú trọng của nhà nước trong vấn đề thu hút vốn đầu tư nước ngoài trong hoạt động ngân hàng. Đồng thời tạo điều kiện cho các ngân hàng có vốn đầu tư nước ngoài, đảm bảo những cam kết của Việt Nam với WTO về lĩnh vực ngân hàng. Đối với chi nhánh ngân hàng nước ngoài, khoản 1 Điều 123 Luật các TCTD 2010 quy định cho loại ngân hàng này được thực hiện các quy định tại mục 2 Chương IV (mục 2 quy định về hoạt động của ngân hàng thương mại) những lại hạn chế ở chỗ: “Hoạt động mà ngân hàng nước ngoài không được phép thực hiện tại nước nơi ngân hàng nước ngoài đặt trụ sở chính” thì chi nhánh ngân hàng nước ngoài cũng không được thực hiện. Quy định này là phù hợp với thông lệ quốc tế, giúp tránh những xung đột pháp luật xảy ra khi có sự khác nhau giữa các hệ thống pháp luật của các nước khác nhau, tạo điều kiện thuận lợi cho quá trình giải quyết những tranh chấp phát sinh sau này. Cụ thể hơn, trong Nghị định của Chính phủ số 22/2006/NĐ-CP ngày 28/02/2006 về tổ chức và hoạt động của chi nhánh ngân hàng nước ngoài, ngân hàng liên doanh, ngân hàng 100% vốn nước ngoài có quy định cụ thể nội dung trong hoạt động huy động vốn bằng nhận tiền gửi đối với từng loại hình ngân hàng có vốn đầu tư nước ngoài như sau: Chi nhánh ngân hàng nước ngoài, Ngân hàng liên doanh, ngân hàng 100% vốn nước ngoài được thực hiện các nghiệp vụ hoạt động của loại hình ngân hàng thương mại, ngân hàng phát triển, ngân hàng đầu tư, hoặc của các loại hình ngân hàng khác theo quy định của Luật các Tổ chức tín dụng, các quy định của pháp luật về hoạt động của loại hình ngân hàng đó (Điều 39, 50, 57 Nghị định số 22/2006/NĐ-CP). Các loại tiền gửi: Thời điểm trước năm 2007, hoạt động huy động vốn bằng nhận tiền gửi của các ngân hàng nước ngoài gặp nhiều khó khăn. Trong khi các ngân hàng nội địa phát triển mạnh mẽ về số lượng, quy mô vốn điều lệ và chỉ tiêu hoạt động…thì khối các ngân hàng có vốn đầu tư nước ngoài đặc biệt là chi nhánh ngân hàng nước ngoài lại khá trầm lắng. Theo số liệu thống kê của Vụ Các ngân hàng (Ngân hàng Nhà nước), trong vòng 10 năm (1997-2006) mức tăng vốn điều lệ chung của các tổ chức tín dụng gấp 4,96, nhưng các chi nhánh ngân hàng nước ngoài chỉ đạt 2,35 lần. Bên cạnh đó thị phần của khối này cũng giảm sút: Tổng tài sản giảm từ 16,6% còn 9,7%; vốn hoạt động giảm từ 15,9% còn 9,7% và dư nợ giảm từ 19,8% còn 8,9%. Do nhiều nguyên nhân về hệ thống pháp lý, mức độ phát triển kinh tế, hạ tầng kỹ thuật, mức thu nhập và dân trí của Việt Nam... nên sản phẩm và dịch vụ của chi nhánh ngân hàng nước ngoài cung cấp còn khá hạn chế. Tuy nhiên từ ngày 10/02/2007, các ngân hàng nước ngoài bắt đầu được huy động tiền gửi bằng VND - một quyền lợi mới khi Việt Nam thực hiện cam kết gia nhập WTO. Theo công văn số 1210/NHNN-CNN của ngân hàng nhà nước hướng dẫn các chi nhánh ngân hàng nước ngoài tại Việt Nam nhận tiền gửi bằng đồng Việt Nam (VND), các chi nhánh ngân hàng nước ngoại tại Việt Nam được nhận tiền gửi VND từ các thể nhân Việt Nam mà ngân hàng không có quan hệ tín dụng theo tỷ lệ trên mức vốn được cấp của chi nhánh với mức tiền gửi tối đa và theo lộ trình. Cụ thể: từ ngày 1/1/2007, tỷ lệ được huy động là 650% vốn được cấp; từ ngày 1/1/2008 là 800% vốn được cấp; từ ngày 1/1/2009: 900% vốn được cấp; từ ngày 1/1/2010: 1000% vốn được cấp và sau ngày 1/1/2011 sẽ được đối xử quốc gia đầy đủ. Như vậy, hiện nay các ngân hàng có vốn đầu tư nước ngoài đã hoàn toàn được nhận tiền gửi bằng đồng Việt Nam như các ngân hàng trong nước khác. Đây được coi là bước đi mở, một điều kiện rất tốt để hoạt động huy động vốn bằng nhận tiền gửi của khối các ngân hàng có vốn đầu tư nước ngoài có cơ hội đứng vững và phát triển trong nền kinh tế Việt Nam hiện nay và cũng là thách thức cho các ngân hàng trong nước khi phải cạnh tranh lành mạnh với các ngân hàng nước ngoài giàu kinh nghiệm. Giới hạn quyền huy động vốn bằng tiền gửi của ngân hàng có vốn đầu tư nước ngoài: Pháp luật huy động vốn bằng nhận tiền gửi của các tổ chức tín dụng vẫn còn phân biệt đối xử không đảm bảo tính bình đẳng trong kinh doanh và không phù hợp với luật quốc tế. Đây là một quan điểm được đưa ra trong thời kì trước, khi mà Việt Nam chưa gia nhập WTO, Luật các Tổ chức tín dụng còn quy định khá khắt khe đối với hoạt động ngân hàng của các tổ chức tín dụng nước ngoài nói chung và các ngân hàng có vốn đầu tư nước ngoài nói riêng. Theo Nghị định của Chính Phủ số 13/1999/NĐ-CP ngày 17/3/1999 về tổ chức, hoạt động của tổ chức tín dụng nước ngoài, văn phòng đại diện của tổ chức tín dụng nước ngoài có quy định: Tổ chức tín dụng là ngân hàng được phép hoạt động tại Việt Nam dưới hình thức chi nhánh ngân hàng nước ngoài và ngân hàng liên doanh. Đồng thời cũng quy định hạn chế hoạt động huy động vốn bằng nhận tiền gửi so với các ngân hàng nội địa khác. Trong quyền năng nhận tiền gửi của chi nhánh ngân hàng nước ngoài hoạt động tại Việt Nam và ngân hàng liên doanh thì: Chi nhánh ngân hàng nước ngoài nhận tiền gửi có kì hạn và không kì hạn theo quy định của ngân hàng nhà nước, không được nhận tiền gửi dưới bất kì hình thức nào; Ngân hàng liên doanh nhận tiền gửi có kì hạn và không kì hạn. Tuy nhiên, khi Việt Nam gia nhập WTO, áp dụng lộ trình nới lỏng các quy định đối với các tổ chức tài chính nước ngoài, nhất là về việc mở chi nhánh và các điểm giao dịch, đặc biệt là việc cho phép hoạt động ngân hàng 100% vốn nước ngoài được hoạt động tại Việt Nam, đồng thời việc cho phép quyền năng huy động vốn bằng nhận tiền gửi của các ngân hàng nước ngoài được mở rộng. Mặc dù Luật các TCTD 2010 ra đời trên tinh thần đảm bảo sự bình đẳng giữa ngân hàng trong nước và ngân hàng có vốn đầu tư nước ngoài. Tuy nhiên, lại chưa có nghị định hướng dẫn thi hành do vậy, các hoạt động của ngân hàng có vốn đầu tư nước ngoài vẫn chịu sự điều chỉnh của cá nghị định cũ. Do vậy, ở một góc độ nào đó khi nhìn bức tranh toàn cảnh trong hoạt động ngân hàng của hệ thống các ngân hàng ở Việt Nam hiện nay, ta cũng có thể dễ dàng nhận ra một số những điểm trong quy định về hoạt động này đối với các ngân hàng nội địa và ngoại địa không hoàn toàn giống nhau, nghĩa là sự mở rộng trong quy định này còn có phần ưu ái hơn giữa ngân hàng nội địa với ngân hàng có vốn đầu tư nước ngoài. Ví dụ: Tại Điều 4 Quyết định của Thống đốc Ngân hàng nhà nước số 1160/2004/QĐ-NHNN ngày 13 tháng 9 năm 2004 về việc ban hành quy chế về tiền gửi tiết kiệm quy định: Ngân hàng thương mại, ngân hàng phát triển, ngân hàng đầu tư, ngân hàng chính sách, ngân hàng hợp tác, quỹ tín dụng nhân dân được nhận tiền gửi tiết kiệm của mọi cá nhân theo các loại kì hạn khác nhau; đối với chi nhánh ngân hàng nước ngoài, ngân hàng liên doanh, tổ chức tín dụng 100% vốn nước ngoài, phạm vi nhận tiền gửi tiết kiệm được thực hiện theo quy định hiện hành của Thống đốc ngân hàng nhà nước về đối tượng gửi tiền, kì hạn và mức độ huy động tối đa. Như vậy, mặc dù trong quy định trên không chỉ rõ hoạt động cụ thể trong việc nhận tiền gửi của từng loại ngân hàng, tuy nhiên nó đã thể hiện việc phân biệt trong quy định của pháp luật về quyền năng nhận tiền gửi của ngân hàng có vốn đầu tư nước ngoài. Có thể thấy quan điểm của các nhà làm luật là việc e ngại khi có sự xuất hiện ồ ạt của các ngân hàng có vốn đầu tư nước ngoài tại Việt Nam bởi nó sẽ có tác động nhất định tới hoạt động của các ngân hàng nội địa. Sự “ưu ái” hơn, những quy định có lợi hơn dành cho các ngân hàng nội địa là một quy định hợp lí bởi sẽ là rất khó khăn cho các ngân hàng nội địa trong quá trình cạnh tranh với ngân hàng có vốn đầu tư nước ngoài khi pháp luật các tổ chức tín dụng quy định một cách đồng bộ trong lĩnh vực hoạt động ngân hàng, cụ thể là huy động vốn bằng nhận tiền gửi giữa các ngân hàng. Bởi với sự đi lên từ một nền kinh tế còn nhiều khó khăn như Việt Nam, quá trình gia nhập WTO là một bước đi để Việt Nam vươn mình ra biển lớn, vì vậy nếu không có những quy định phù hợp trong hoạt động ngân hàng – lĩnh vực tiềm ẩn nhiều rủi ro cao theo dây chuyền sẽ làm ảnh hưởng rất lớn đến sự phát triển của nền kinh tế. Tuy nhiên, cũng cần thấy rằng sự xuất hiện của các ngân hàng có vốn đầu tư nước ngoài sẽ tạo điều kiện thúc đẩy nền kinh tế nói chung, đặc biệt là hoạt động ngân hàng tại Việt Nam. Theo đánh giá của Chính phủ và các chuyên gia, Ngân hàng là lĩnh vực “gay go, quyết liệt” trong đàm phán vào WTO. Sức ép nhiều nhất khi thực hiện các cam kết cũng là ngành ngân hàng. Vì vậy, mặc dù có sự nới lỏng trong việc quy định đối với hoạt động ngân hàng của các ngân hàng có vốn đầu tư nước ngoài, pháp luật các tổ chức tín dụng vẫn dành một quyền ưu tiên nhất định cho các ngân hàng nội địa, để đảm bảo tính ổn định và phát triển trong nền kinh tế nước nhà. Trách nhiệm, nghĩa vụ của ngân hàng có vốn đầu tư nước ngoài trong hoạt động huy động vốn bằng nhận tiền gửi: Việc quy định quyền huy động vốn bằng nhận tiền gửi cho ngân hàng có vốn đầu tư nước ngoài để đảm bảo hoạt động cho chính ngân hàng đó. Tuy nhiên, song song với quyền đó, Luật các TCTD 2010 còn quy định nghĩa vụ cho ngân hàng có vốn đầu tư nước ngoài khi nhận tiền gửi nhằm đảm bảo lợi ích của người gửi tiền và bảo đảm khả năng chi trả của ngân hàng đó. Cụ thể: Thứ nhất: Tham gia tổ chức bảo toàn hoặc bảo hiểm tiền gửi, mức bảo toàn hoặc bảo hiểm tiền gửi do Chính phủ quy định. Bảo hiểm tiền gửi là một loại hình bảo hiểm đối với hoạt động ngân hàng. Theo các quy định hiện hành thì bảo hiểm tiền gửi là một loại hình bảo hiểm phi thương mại. Bảo hiểm tiền gửi ở nước ta, xét về tính chất nó là loại hình bảo hiểm bắt buộc. Bởi vì pháp luật về bảo hiểm tiền gửi có quy định về điều kiện bảo hiểm, mức phí bảo hiểm mà các bên tham gia quan hệ bảo hiểm có nghĩa vụ phải thực hiện. Việc áp dụng chế độ bảo hiểm bắt buộc đối với tiền gửi không chỉ nhằm xử lí rủi ro đối với tổ chức nhận tiền gửi cụ thể là ngân hàng có vốn đầu tư nước ngoài, bảo vệ lợi ích của người gửi tiền mà còn bảo vệ sự an toàn cho cả hệ thống các tổ chức tín dụng, sự ổn định tiền tệ quốc gia, tạo ra sự bình đẳng công bằng trong các ngân hàng có vốn đầu tư nước ngoài và góp phần nâng cao uy tín của các ngân hàng có vốn đầu tư nước ngoài. Bảo hiểm tiền gửi ở nước ta là loại bảo hiểm trách nhiệm pháp lí dân sự, đối tượng của bảo hiểm tiền gửi là nghĩa vụ hoàn trả tiền gửi của ngân hàng có vốn đầu tư nước ngoài đối với người gửi tiền. Có thể nói đây là nghĩa vụ bắt buộc đối với mọi tổ chức tín dụng hoạt động ngân hàng nói chung và ngân hàng có vốn đầu tư nước ngoài nói riêng. Với việc mở cửa hoạt động ngân hàng dành cho các ngân hàng có vốn đầu tư nước ngoài tham gia vào hệ thống ngân hàng Việt Nam, tuy nhiên do tâm lí của người dân Việt Nam theo lối sống “ăn chắc mặc bền”, vì vậy việc ngân hàng có vốn đầu tư nước ngoài hoạt động được và xây dựng được sự tin cậy đối với người dân là rất khó khăn – yếu tố cần thiết để đảm bảo hoạt động ngân hàng, đặc biệt là hoạt động huy động vốn bằng nhận tiền gửi. Do vậy, việc quy định nghĩa vụ bảo hiểm tiền gửi là rất cần thiết, giúp cho ngân hàng có vốn đầu tư nước ngoài hoạt động dễ dàng và hiệu quả hơn, đồng thời nhanh chóng gây dựng được thương hiệu hoạt động riêng để việc huy động vốn bằng nhận tiền gửi được thực hiện dễ dàng, tạo điều kiện cho hoạt động ngân hàng của các ngân hàng có vốn đầu tư nước ngoài. Thứ hai: Tạo thuận lợi cho khách hàng gửi và rút tiền theo yêu cầu; bảo đảm trả đầy đủ, đúng hạn gốc và lãi mọi khoản tiền gửi. Đây là nghĩa vụ cần thiết để giúp cho hoạt động của ngân hàng có vốn đầu tư nước ngoài tạo được uy tín và đảm bảo quyền lợi cho khách hàng gửi tiền tại ngân hàng. Thực tế hiện nay, với việc huy động vốn là điều cần thiết của các ngân hàng, đặc biệt là những dịp cuối năm khi mà nhà đầu tư muốn rút vốn để đầu tư lớn thì sự ảnh hưởng tới các ngân hàng là không nhỏ, và có thể là nguyên nhân khiến các ngân hàng lao đao. Vì thế, việc tạo điều kiện thuận lợi cho khách hàng sau khi gửi tiền được đảm bảo mọi quyền lợi sẽ góp phần xây dựng nên những mối quan hệ thân thiết giữa khách hàng và ngân hàng, điều kiện cần thiết để ngân hàng tránh những sụt giảm về vốn trong hoạt động ngân hàng. Thứ ba: Bảo đảm bí mật số dư tiền gửi của khách hàng; từ chối việc điều tra phong tỏa, cầm giữ, trích chuyển tiền gửi mà không có sự đồng ý của khách hàng, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác. Thứ tư: Thông báo công khai mức lãi suất tiền gửi. Lãi suất tiền gửi là điều kiện để các ngân hàng tạo được sức hút từ người dân khi tham gia vào hoạt động gửi tiền tại ngân hàng. Theo các chuyên gia tài chính, lãi suất là mối quan tâm hàng đầu của khách hàng khi quyết định gửi tiền vào các ngân hàng thương mại. Nhiều người có thể sẵn sàng rời bỏ ngân hàng (NH) này để sang NH khác có lãi suất cao hơn. Vì vậy, các NH liên tục đẩy lãi suất huy động vốn lên cao.Tuy nhiên, việc quy định ngân hàng phải thông báo công khai mức lãi suất tiền gửi nhằm tránh những cạnh tranh không đúng luật của các ngân hàng. Đặc biệt, với sự tham gia của các ngân hàng có vốn đầu tư nươc ngoài, đòi hỏi cần phải có những quy định khắt khe, đảm bảo tính công khai, minh bạch trong hoạt động ngân hàng. Đồng thời giúp cho Ngân hàng nhà nước có sự kiểm soát và điều chỉnh tốt hơn, tránh hiện tượng quá nóng trong cuộc đua tăng lãi suất của các ngân hàng với nhau. Thứ năm: Phải mở tài khoản tiền gửi tại Ngân hàng nhà nước và duy trì tại đó số dư bình quân không thấp hơn mức dự trữ bắt buộc do Ngân hàng nhà nước quy định. Đây là điều kiện bắt buộc đối với mỗi ngân hàng. Khác với việc lập quỹ dự trữ của tổ chức tín dụng, dự trữ bắt buộc là biện pháp mà ngân hàng nhà nước áp dụng đối với các tổ chức tín dụng để thực hiện chính sách tiền tệ quốc gia. Theo quy định của Luật Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, tổ chức tín dụng phải nộp tại Ngân hàng nhà nước số tiền gửi theo mức từ 0% đến 20% tổng số dư tiền gửi ở Tổ chức tín dụng. Tỷ lệ dự trữ bắt buộc do Ngân hàng Nhà nước quy định đối với từng loại hình tổ chức tín dụng, từng loại tiền gửi trong từng thời kì. Quản lí nhà nước đối với hoạt động huy động vốn bằng nhận tiền gửi của ngân hàng có vốn đầu tư nước ngoài: Với sự kiện Việt Nam gia nhập WTO, nhiều tổ chức tài chính nước ngoài đã

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docXác định quyền năng nhận tiền gửi và đề xuất ý kiến về pháp luật hiện hành về quyền năng này áp dụng đối với ngân hàng có vốn đầu tư nước ngoài.doc
Tài liệu liên quan