Tình hình hoạt động và phát triển tại Công ty xuất nhập khẩu nông sản thực phẩm Hà Nội

LỜI NÓI ĐẦU.1

CÔNG TY XUẤT NHẬP KHẨU NÔNG THỰC PHẨM HÀ NỘI 2

I. QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN 2

1. Giới thiệu chung 2

2. Sơ lược hoạt động kinh doanh của Công ty 2

3. Các giai đoạn phát triển 4

3.1. Giai đoạn đầu (1963 - 1975) 4

3.2. Giai đoạn 1976 - 1985 5

3.3. Giai đoạn từ 1986 - 1990 9

3.4. Giai đoạn từ 1991 - 1994 11

3.5. Giai đoạn từ 1995 - 1997 13

3.6. Giai đoạn từ 1998 đến nay (Phần II) 20

4. Chức năng, nhiệm vụ của Công ty xuất nhập khẩu nông sản thực phẩm thực phẩm Hà Nội 20

5. Cơ cấu tổ chức của Công ty 21

5.1. Sơ đồ bộ máy quản lý của Công ty 21

5.2. Chức năng, nhiệm vụ của bộ máy 23

5.2.1. Giám đốc 23

5.2.2. Các phó giám đốc 23

5.2.3. Các phòng ban quản lý 23

5.2.4. Các phòng nghiệp vụ XNK : 6 phòng 25

5.2.5. Các chi nhánh 25

II. HOẠT ĐỘNG SẢN XUẤT KINH DOANH (5 NĂM TRỞ LẠI ĐÂY) 26

1. Sản phẩm 26

2. Thị trường 29

3. Vốn kinh doanh của Công ty 31

4. Lao động 323

4.1. Tình hình phân bổ lao động tại Công ty 33

4.2. Cơ cấu lao động của Công ty 35

4.3. Trình độ của cán bộ công nhân viên trong Công ty 36

5. Kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh 37

III. GIẢI PHÁP VÀ KIẾN NGHỊ 40

1. Giải pháp: 40

2. Phương hướng 41

3. Những kiến nghị 41

 

doc45 trang | Chia sẻ: huong.duong | Lượt xem: 1127 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tình hình hoạt động và phát triển tại Công ty xuất nhập khẩu nông sản thực phẩm Hà Nội, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
g năm bị mất. Điều này công ty cần tổng kết và rút ra kinh nghiệm khắc phục cho giai đoạn sau. Ngoài những bạn hàng cũ của giai đoạn trước ra Tổng công ty đã nỗ lực tìm kiếm thêm thị trường mới với kết quả là có thêm 2 thị trường rộng lớn đó là Mỹ và Trung Quốc đây là hai thị trường có sự mua vào loại nhất nhì trên thế giới ở thời kỳ này đối với hàng nông sản nếu công ty biết khai thác triệt để nó sẽ đem lại một kim ngạch xuất khẩu lớn . Đặc biệt với thị trường Trung Quốc một thị trường đã quen thuộc với công ty từ trước những năm 1979, một thị trường khá dễ tính và Tổng công ty cũng đã có rất nhiều kinh nghiệm thực hiện hợp đồng xuất khẩu sang thị trường này do trước đây để lại mà ít có một công ty nào có thể sánh được kể từ khi nước ta bình thường hoá quan hệ với Trung Quốc. Và thực tế đã cho thấy rằng kim ngạch xuất khẩu sang hai nước này trong những năm đầu của mối quan hệ là một con số tương đối lớn. Họ đã trở thành một trong những bạn hàng chính của Tổng công ty trong thời kỳ này ( xem bảng 11: thị trường xuất khẩu chủ yếu của công ty giai đoạn 1995-1997). Bảng 11: Thị trường xuất khẩu chủ yếu của công ty giai đoạn 1995-1997 Đơn vị: R-USD Năm Thị trường 1995 1996 1997 Asean 10.387.126 1.318.751 1.635.053 Tây âu 2.283.607 -- 60.605 LB Nga 1.199.016 399.960 -- Trung Quốc 798.254 22.500 962.341 Nhật 183.528 127.720 33.210 Hồng Kông 561.067 -- 398.510 Đài Loan 263.473 352.277 383.207 Mỹ 581.688 -- 19.621 Các nước khác -- 570.126 268.284 Tổng 16.257.759 2.791.334 3.760.831 Cùng với đa dạng hoá các mặt hàng kinh doanh là việc Công ty phải chia các phòng ban thành các nhóm tổng hợp kết hợp với chuyên doanh. Đi kèm với nó là cơ chế khoán đến từng phòng, đã phát huy tích cực khả năng sáng tạo của đội ngũ cán bộ kinh doanh, hoạt động kinh doanh có hướng rõ rệt và tính được hiệu quả kinh doanh của mình. Hiện nay, phòng kinh doanh xuất nhập khẩu đang đi đầu trong cơ chế khoán của Công ty. Trong thời kỳ cạnh tranh gay gắt của nền kinh tế thị trường thì chất lượng hàng hoá là hết sức quan trọng, xét riêng mặt hàng lạc nhập khẩu của Công ty. Nhu cầu trên thị trường về hàng lạc nhân của Công ty thì rất cao trong khi đó khối lượng lạc nhân sản xuất trong nước chỉ bán ra thị trường quốc tế khoảng 38%. Nguyên nhân chính là do chất lượng hàng của ta là chưa đáp ứng được phần lớn nhu cầu của bạn hàng trên thế giới. Trong năm 1996, trị giá lạc nhân bị khiếu nại vì chất lượng là 141827 USD. Cũng từ đó, yêu cầu đặt ra cho chất lượng hàng hoá của Công ty là gay gắt hơn. Công ty đã áp dụng nhiều biện pháp nhằm khắc phục các hạn chế trước kia như việc Công ty phân rõ trách nhiệm giữa người làm nghiệp vụ với người kiểm tra chất lượng; giữa các đơn vị giao hàng với Công ty .... Mặt khác, Công ty cũng bổ sung các văn bản quy chế về kiểm tra chất lượng, giải quyết các vấn đề phát sinh để nâng cao ý thức trách nhiệm cho cán bộ kinh doanh. Nhờ đó mà tình trạng kiém chất lượng giảm hẳn trong năm 1997, uy tín của Công ty càng được nâng lên. Nhờ vậy mà Công ty có được những kết quả nhất định. Kim ngạch xuất nhập khẩu tăng đều đặn, không có sự biến động lớn. Cụ thể một số chỉ tiêu tài chính trong năm 1996 - 1997 được trình bày trong bảng sau: Bảng 12 Một số chỉ tiêu tài chính năm 1997 và 1998 Đơn vị; Triệu đồng Năm Chỉ tiêu 1996 1997 So với kế hoạch Doanh thu 100.104 175.082 Nộp ngân sách 1.142 30.540 177% Lợi nhuận sau thuế 1.010 200 8% Quỹ lương 1.064 2.030 110% Thu nhập bình quân 0,75 0,72 Nguồn: Báo cáo kết quả công tác năm 1996 - 1997 Tuy có được mức tăng của doanh thu nhưng lợi nhuận của Công ty các năm 1995 - 1997 lại giảm đi nhiều so với năm 1994. Kết quả đạt được của giai đoạn này là do một số nguyên nhân sau: - Công ty định hướng đúng đắn về công tác thị trường, tập trung vào khai thác thương nhân, phát triển thị trường, tháo gỡ khó khăn bằng cách định ra các chủ trương biện pháp phù hợp với thị trường trong và ngoài nước như: có mức giá phù hợp, quan tâm tới chất lượng, phương thức thanh toán, chọn đối tác kinh doanh. Do đó, Công ty đã thu hút được nhiều bạn hàng mới, đồng thời duy trì được một số bạn hàng cũ. - Công ty định hướng đúng về xuất khẩu hàng chuyên doanh. Để giải quyết sự hụt hẫng sau khi thị trường truyền thống mất đi, Công ty đã xây dựng hướng kinh doanh tổng hợp các mặt hàng dựa trên các mặt hàng truyền thống chuyên doanh. - Việc chia lại bộ máy tổ chức thành các phòng ban chuyên doanh và việc để cho các phòng tự chủ trong kinh doanh cũng góp phần tạo điều kiện cho cán bộ, nhân viên phát huy được hết năng lực của họ, tận dụng hết khả năng của Công ty để kinh doanh tăng kim ngạch và tăng lợi nhuận. - Trong hoạt động kinh doanh sôi động đầy tính cạnh tranh, với lượng tiền của đưa vào lưu thông lớn, xấp xỉ 100 tỷ đồng. Nhưng Công ty vẫn đảm bảo được vốn gốc gần như 100%. Đó là một thắng lợi lớn trong kinh doanh và quản lý của Công ty trong các năm này. - Tỷ trọng giữa xuất khẩu và nhập khẩu là 35/65, tỷ trọng giữa kinh doanh tự doanh và uỷ thác thường là 50/50 giữa kinh doanh nội địa và kinh doanh đối ngoại là 1/9. Với những con số này là phù hợp với điều kiện kinh tế thị trường và của Công ty lúc đó. Riêng năm 1997 tổng kim ngạch xuất nhập khẩu đạt con số 21,549 triệu USD tăng gấp hai so với năm 1996 số thương vụ thực hiện ở các phòng lên đến gần 100, trong đó có thương vụ trị giá lớn 3 - 4 triệu USD. Tuy nhiên, những năm này, do vấp phải một số khó khăn khách quan trên đã ảnh hưởng không nhỏ đến hoạt động kinh doanh của Công ty. Việc tan rã khối SEV và Liên Xô đã làm mất đi nhiều bạn hàng lớn, cùng với đó là sự cạnh tranh gay gắt của các Công ty và các tổ chức xuất khẩu khác đã làm Công ty phải giảm giá xuất hàng hoá của mình để thu hút bạn hàng. Năm 1997, cơ chế chính sách của nhà nước trong điều hành thương mại tiếp tục hoàn thiện. Việc nhà nước kiên quyết đấu tranh ngăn chặn nạn buôn lậu sẽ tạo điều kiện cho các doanh nghiệp nhà nước, trong đó có Công ty tiến hành kinh doanh xuất nhập khẩu thuận lợi, nhất là những mặt hàng có thuế suất cao. Bên cạnh thuận lợi này là một khó khăn lớn vì tình hình kinh tế đất nước bước vào thời kỳ khó khăn thử thác mới. Nếu khó khăn diễn ra đầu năm 1997 là vấn đề vốn lưu động trong kinh doanh thì sáu tháng cuối năm lại nổi lên tỷ giá đồng Việt Nam so với ngoại tệ tăng lên đột biến, hiện tượng này có lợi cho Công ty trong việc xuất khẩu nhưng lại gây ảnh hưởng không tốt đến việc nhập khẩu. Giá vốn tăng, tồn đọng hàng, lãi vay quá hạn.... Mà trong thời gian này mặc dù phương hướng của Công ty là đẩy mạnh kim ngạch xuất khẩu, song có nhiều nguyên nhân làm cho lợi nhuận thu được từ xuất khẩu giảm, do vậy Công ty phải tranh thủ nhập khẩu với phương châm "lấy nhập bù xuất". Hơn nữa, vào những tháng cuối năm, ngân hàng không đủ đô la mỹ để bán nên hoạt động nhập khẩu của Công ty bị hạn chế. Cơ chế điều hành thương mại có nhiều tiến bộ song còn nhiều bất công, quản lý nhiều ngành, nhiều cấp chồng chéo, gây cản trở thương mại. Cơ chế chính sách chưa ổn định như viên nhà nước ngừng nhập khẩu 12 mặt hàng, nhưng lúc ngừng, lúc cho nhập hay việc thay đổi bổ sung thuế nhập khẩu liên tục làm cho Công ty lúng túng, không chủ động được trong kinh doanh. Đứng trước những khó khăn như vậy, Công ty đã đề ra một số phương hướng và biện pháp thực hiện kế hoạch một số tiếp theo như sau: Đẩy mạnh xuất khẩu nông sản tập trung vào các mặt hàng điều, cà phê, hạt tiêu, gạo.... Đặc biệt chú ý tới việc phát triển mặt hàng chuyên doanh như lạc nhân. Trong 1998 có thể chính phủ sẽ bỏ quản lý hạn ngạch nhiều mặt hàng để tiến tới tự do hoá kinh doanh. Do vậy các đơn vị nhất là chi nhánh phía Nam cần tập trung trí tuệ, nguồn lực khai thác triệt để lợi thế kinh doanh, đầu tư vào những mặt hàng trên. Để phát triển doanh số những loại mặt hàng này, trước hết Công ty cần nghiên cứu ngay chính sách thị trường, khách hàng. Củng cố thị trường khách hàng hiện có, có chính sách ưu đãi với khách hàng về giá cả, phương thức thanh toán và điều kiện giao hàng để xây dựng hệ thống khách hàng lâu dài, đồng thời cần xúc tiến nghiên cứu, thâm nhập các thị trường mới, nhất là việc chú ý tới thị trường Đông Âu cũ, vì đây là thị trường rất quen thuộc với Công ty đã bị gián đoạn nhiều năm do các nước này thay đổi cơ cấu chính trị, nay họ đã và đang phát triển trở lại. Chú trọng tới việc tạo được nguồn hàng xuất khẩu phù hợp với yêu cầu của khách hàng đề ra. Một vấn đề nữa là Công ty cần duy trì thị trường tiêu thụ nội địa, khai thác triệt để khả năng sẵn sàng có và quan tâm khai thác đồng đều tiềm năng cả 3 miền đất nước. Ngoài ra, Công ty còn có một số dự án liên doanh liên kết với nước ngoài và trong nước. Đã cơ bản xong sự án liên doanh xây dnựg trung tâm Thương mại OPERA tại số 6 Tràng Tiền (thành khu nhà cao tầng làm văn phòng cho thuê với đối tác liên doanh là Mỹ). Đây là cố gắng lớn của Công ty cùng với sự giúp đỡ nhiệt tình và tạo điều kiện của các cơ quan hữu quan, dự kiến trong quý II năm 1998 sẽ khởi công xây dựng liên doanh này. Dự án sản xuất chế biến nông sản xuất khẩu ở kho Đông Khê - Hải Phòng và Kho Đà Nẵng. Dự án đầu tư giống lạc có chất lượng tổ của Trung Quốc ở Diễn Châu - Nghệ An và Thái Bình. 3.6. Giai đoạn từ 1998 đến nay (Phần II) 4. Chức năng, nhiệm vụ của Công ty xuất nhập khẩu nông sản thực phẩm thực phẩm Hà Nội - Tổ chức xây dựng kế hoạch dài hạn, ngắn hạn hàng năm về mua bán, chế biến, vận chuyển, bảo quản và xuất khẩu nông sản. - Tổ chức thu mua nông sản và một số mặt hàng theo yêu cầu của khách hàng, cùng với đó là tổ chức xuất khẩu các loại sản phẩm theo kế hoạch được giao. - Tổ chức nhập khẩu cá loại vật tư hàng hoá cần thiết phục vụ cho sản xuất nông nghiệp trong nước. - Tổ chức thực hiện tốt kế hoạch của nhà nước, của Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn, của nhu cầu sản xuất nông nghiệp và của các ngành khác trong nước. - Cùng với các cơ quan xuất nhập khẩu trong và ngoài ngành, tổ chức nghiên cứu cùng tìm kiếm xây dựng thị trường xuất khẩu và nguồn hàng ổn định. - Trên cơ sở các văn bản, quy định của nhà nước, Bộ nông nghiệp và phát triển nông thôn, Công ty tổ chức liên doanh liên kết với các cơ sở, đơn vị trong và ngoài nước, đảm bảo tự hạch toán kinh doanh, đảm bảo hoàn vốn và có lãi. - Tổ chức quản lý và sử dụng hợp lý các cơ sở vật chất, kỹ thuật, phương tiện trực tiếp phục vụ nhu cầu kinh doanh của Công ty. - Tổ chức đào tạo nghiệp vụ cho cán bộ trong ngành, hướng dẫn các công ty xuất nhập khẩu trực thuộc thực hiện những kế hoạch, nhiệm vụ cần thiết khác. - Là doanh nghiệp được phép xuất nhập khẩu trực tiếp các mặt hàng theo giấy phép kinh doanh được cấp, bao gồm: Nông lâm sản và các sản phẩm chế biến Phân bón, thuốc trừ sâu, trừ cỏ các loại. Các loại hạt ngũ cốc và sản phẩm của nó. Các hoá chất phục vụ cho sản xuất nông nghiệp, công nghiệp. Tơ các loại và các sản phẩm thuộc ngành tơ dệt Dịch vụ xuất nhập khẩu Thương nghiệp bán buôn bán lẻ, giới thiệu hàng nông sản thực phẩm vật tư nông nghiệp và hàng tiêu dùng. 5. Cơ cấu tổ chức của Công ty Công ty xuất nhập khẩu nông sản thực phẩm Hà Nội có bộ máy tổ chức được thực hiện theo mô hình trực tuyến chức năng nghĩa là Công ty được tổ chức theo chế độ một thủ trưởng và các nhân viên dưới quyền được nhóm vào các bộ phận phòng ban trên cơ sở hình thành tay nghề hoặc các hoạt động giống nhau, tuy không phải không có nhược điểm nhưng đây là mô hình quản lý phù hợp nhất với Công ty. 5.1. Sơ đồ bộ máy quản lý của Công ty Công ty AGREXPORT Hà Nội với 91 CBCNV từ những nhiệm vụ, chức năng, đặc điểm sản xuất kinh doanh của Công ty, đòi hỏi phải có bộ máy quản lý và sản xuất hợp lý thì mới sản xuất kinh doanh có hiệu quả. Cơ cấu tổ chức quản trị của từng doanh nghiệp không nhất thiết phải giống nhau mà phụ thuộc vào đặc điểm riêng của từng doanh nghiệp để xây dựng được cơ cấu tổ chức quản trị phù hợp với mục tiêu của từng doanh nghiệp. AGREXPORT Hà Nội căn cứ vào những nguyên tắc phù hợp với cơ chế quản trị mới như: - Có mục tiêu chiến lượng thống nhất - Có chế độ trách nhiệm rõ ràng, quyền hạn trách nhiệm cân xứng nhau - Có sự mềm dẻo về tổ chức - Có sự tập chung thống nhất về một đầu mối - Đảm bảo phát triển hiệu quả trong kinh doanh Dựa vào các nguyên tắc trên, Công ty đã xây dựng bộ máy tổ chức quản lý theo mô hình sau: Sơ đồ bộ máy tổ chức Ban giám đốc: Giám đốc 2 Phó giám đốc Các phòng ban quản lý Các phòng nghiệp vụ XNK Phòng tổ chức hành chính Phòng tài chính kế toán Phòng kế hoạch thị trường Ban đề án thanh toán nợ XNK 1 XNK 2 XNK 3 XNK 4 XNK 5 XNK 6 5.2. Chức năng, nhiệm vụ của bộ máy 5.2.1. Giám đốc Điều hành mọi hoạt động sản xuất kinh doanh, chịu trách nhiệm với Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn về kết quả sản xuất kinh doanh của Công ty 5.2.2. Các phó giám đốc Có hai người , thực hiện các nhiệm vụ được ban giám đốc giao phó, thay mặt giám đốc Công ty điều hành các công việc khi được giám đốc uỷ quyền. 5.2.3. Các phòng ban quản lý Làm chức năng nhiệm vụ tham mưu cho giám đốc trong công tác quản lý hành chính nhà nước không trực tiếp tham gia xuất nhập khẩu. 5.2.3.1. Phòng tổ chức hành chính: Tham mưu lên giám đốc để sắp xếp bộ máy và tổ chức công tác của Công ty nhằm thực hiện có hiệu quả nhiệm vụ kinh doanh của đơn vị. Giúp giám đốc trong các hoạt động thanh tra, kiểm tra các hoạt động kinh tế của các đơn vị cơ sở, thực hiện các chính sách đào tạo bồi dưỡng cán bộ, giúp giám đốc thực hiện các mặt công tác bảo vệ nội bộ an toàn, khen thưởng và kỷ luật lao động. 5.2.3.2. Phòng Tài chính kế toán: Giúp cho giám đốc kiểm tra quản lý điều hành các hoạt động tài chính tiền tệ của Công ty và đơn vị cơ sở. Kiểm tra tình hình sản xuất kinh doanh, kế hoạch thu tài chính, thu nộp ngân sách, thanh toán việc sử dụng vốn. Phát hiện và ngăn chặn kịp thời các hoạt động tiêu cực vi phạm hành chính chế độ kinh tế tài chính của nhà nước trong hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu của các đơn vị trực thuộc Công ty. Tiến hành phân tích hoạt động kinh tế, tài chính phục vụ công tác kinh doanh xuất nhập khẩu và cung cấp số liệu, tài liệu thông tin cần thiết cho các công việc điều hành, kiểm tra của giám đốc, để các hoạt động sản xuất kinh doanh có hiệu quả. Phòng tài chính kế toán của Công ty là một cơ cấu hoàn chỉnh cũng theo kiểu trực tuyến chức năng. Nó tạo ra các vị trí hợp lý cũng như cơ cấu việc làm hợp lý của các nhân viên trong phòng. Theo cơ cấu này thì các nhân viên trong phòng đều phải hoạt động dưới sự chỉ đạo và giám sát của trưởng phòng. Chính nhờ đó mà nó giúp cho trưởng phòng có thể dễ dàng giám sát và quản lý nhân viên của mình. 5.2.3.3. Phòng kế hoạch thị trường: - Bộ phận kế hoạch Tham mưu cho giám đốc xây dựng chương trình kế hoạch mục tiêu hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu ngắn hạn, trung hạn và trung hạn. Tổng hợp và xây dựng kế hoạch kinh doanh xuất nhập khẩu hàng năm và từng thời gian để trình cơ quan quản lý cấp trên phê duyệt. Tổng hợp giao hàng theo tháng, quý, tổng kết hoạt động của doanh nghiệp. Phối hợp với các phòng nghiệp vụ xuất nhập khẩu tham gia xây dựng phương án kinh doanh, ký kết các hợp đồng kinh tế giúp giám đốc chỉ đạo quản lý quy định về giá trong việc ký kết các hợp đồng kinh tế đối ngoại. - Bộ phận thị trường Giúp giám đốc quản lý về công tác đối ngoại, chính sách thị trường thương nhân, về công tác pháp lý, tuyên truyền quảng cáo, về thông tin liên lạc và lễ tân đối với thị trường trong và ngoài nước. Công tác thị trường nghiên cứu tổng hợp quản lý toàn diện về đối nội đối ngoại của Công ty bao gồm cả công việc giao dịch, bản dịch thông tin.... Công tác lễ tân chuẩn bị tiếp đón và nghi lễ giao dịch cần thiết đối với khách ngoại và khách nội. Quản lý và bảo quản các vật dụng, tài sản thuộc phòng khách nhằm phục vụ cho công tác giao dịch được tốt. 5.2.3.4. Ban đề án thanh toán nợ Giải quyết các khoản nợ trong và ngoài nước tồn đọng trước đây trong nước và ngoài nước. Xây dựng và đề xuất các phương án thu hồi công nợ còn tồn đọng ở các địa phương, trình để giám đốc duyệt, đồng thời phối hợp với các phòng ban kinh doanh tổ chức đối chiếu sổ lưu cũ và kế hoạch thị trường, đàm phán thương lượng với khách hàng trong nước cũng như thương nhân nước ngoài nhằm giải quyết tốt công tác thanh toán nợ. Duy trì và phát triển mối quan hệ hợp tác với khách hàng Phối hợp với các phòng ban, cá nhân có liên quan, cung cấp các chứng từ cần thiết, tổng hợp các báo cáo định kỳ về tình hình thu hồi công nợ cho lãnh đạo Công ty và giúp tiến hành thanh toán công nợ được tiến hành thuận lợi. Tìm các đối tác xây dựng các đề án kinh doanh và làm thủ tục liên quan đến đề án có tính khả thi. 5.2.4. Các phòng nghiệp vụ XNK : 6 phòng Trực tiếp xuất nhập khẩu các mặt hàng của Công ty đã được uỷ ban kế hoạch thành phố cho phép kinh doanh, ngoài ra còn làm đại lý tiêu thụ các mặt khác mà pháp luật cho phép. Khai thác các mặt hàng trong phạm vi cả nước, xây dựng phương án thu mua và xuất khẩu Được phép liên doanh liên kết xuất nhập khẩu với các tổ chức sản xuất kinh doanh trong và ngoài nước và các đơn vị khác có liên quan trên cơ sở phương án được giám đốc duyệt. Được phép làm uỷ thác khi thấy cần thiết và hiệu quả. 5.2.5. Các chi nhánh Có chức năng nhiệm vụ giống như phòng kinh doanh XNK giúp Công ty mở rộng thị phần trên phạm vi cả nước Các chi nhánh Hải phòng, TPHCM, Đà Nẵng Nhà máy chế biến nông sản thực phẩm Bắc Giang: chuyên thu mua và chế biến Dứa và Dưa chuột để xuất khẩu. Ngoài ra, thực hiện kinh doanh các mặt hàng khác (nếu có). Xí nghiệp chế biến nông sản Vĩnh hoà: Chủ yếu thu mua, chế biến Điều để xuất khẩu. Như vậy, Công ty có mô hình quản lý theo kiểu trực tuyến chức năng, giám đốc là người trực tiếp điều hành mọi hoạt động của Công ty thông qua các phòng ban quản lý. Các công văn, lệnh từ giám đốc đến các phòng ban nghiệp vụ xuất nhập khẩu hoặc cũng có thể từ giám đốc xuống các phòng ban quản lý như phòng tổ chức hành chính, phòng tài chính kế toán, phòng kế hoạch thị trường, ban đề án thanh toán công nợ Công ty hoạt động dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt nam, trực tiếp là cấp uỷ đảng Công ty. Dưới sự quản lý thống nhất của nhà nước, Công ty thực hiện chế độ tự chủ trong sản xuất kinh doanh trong phạm vi pháp luật quy định. Công ty được quản lý theo chế độ một thủ trưởng trên cơ sở thực hiện quyền làm chủ của tập thể người lao động. II. Hoạt động sản xuất kinh doanh (5 năm trở lại đây) 1. Sản phẩm Với chức năng là xuất nhập khẩu nông sản thực phẩm theo quyết định cấp ngày 10/5/1995 của bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn, ngành nghề kinh doanh của Công ty là xuất nhập khẩu các mặt hàng thuộc lĩnh vực nông nghiệp (phân bón, thuốc trừ sâu.....), kinh doanh nguyên vật liệu xây dựng. Đến năm 1998, ngành nghề kinh doanh của Công ty được bổ sung thêm, Công ty được phép xuất khẩu các mặt hàng như thủ công mỹ nghệ và tiêu dùng, nhập khẩu phương tiện vận tải, vật tư, nguyên liệu máy móc thiết bị phụ tùng nông sản và hoá chất. Hiện nay các mặt hàng chủ yếu của Công ty là: - Xuất khẩu mặt hàng: lạc nhân, hạt điều, hạt tiêu, quế, hoa hồi, các loại đậu, chè, tơ, tằm, vừng ngô.... - Nhập khẩu các loại thuốc trừ sâu, bánh quy bơ, sữa, dầu cọ, Malt bia...ống nước, phụ tùng, lốp xe.... Bảng 13: Các loại sản phẩm kinh doanh của Công ty Đơn vị: USD TT Năm Mặt hàng 1998 1999 2000 2001 2002 Tổng kim ngạch XNK 21328397 10542325 20223982 24202372 21502784 I Xuất khẩu 2720316 2930579 9157368 15054705 9331803 1 Lạc nhân 694346 237487 716342 16028 27083 2 Cao su 361068 405924 802945 656705 530744 3 Hạt điều 79950 1096971 590656 1330428 4 Cà phê 350136 58296 361704 260737 5 Chè 260688 321876 212069 145853 397073 6 Quế 173682 161007 108814 347627 7 Rượu 264334 69120 144461 153418 8 Hoa hồi 391931 329098 694028 724208 9 Hoa hoè 66124 84137 10 Hoa quả tươI 2998603 3541584 1570684 11 ý dĩ 92400 299040 201600 384000 420802 12 Chậu gốm 174558 283578 13 Dép xốp 121960 14 Hàng khác 641115 1343622 2569613 8048230 3201284 II Nhập khẩu 18608081 12111746 11066614 9147667 12170981 1 Thuốc trừ sâu 2053598 1822275 2276672 1745417 1847632 2 Phân bón 1046540 1100030 117620 91000 120687 3 Sữa các loạI 2743731 1854667 2568616 2640912 1976072 4 Rượu 452973 308799 235633 237677 5 Malt bia 3251303 2437001 1115682 705748 903288 6 Lúa mì 65808 1999546 437150 570627 7 Hounlon 418074 201039 83955 220930 189691 8 Máy nước nóng 25900 160907 91350 124670 9 Gạch kính 207546 238557 212081 269595 243121 10 Neo công tác 133811 61872 51812 11 Hàng khác 3434316 4366469 2088925 2648060 5905704 Nhận xét Nhìn chung tổng kim ngạch nhập khẩu có sự tăng giảm thất thường, nhưng không lớn lắm. Điều đáng ghi nhận trong những năm này là Công ty đã dần nâng cao được tổng kim ngạch xuất khẩu. Đặc biệt là năm 2001 tổng kim ngạch xuất khẩu vượt nhập khẩu đạt 15054705 USD chiếm 62,2% tổng kim ngạch XNK. Năm 1998: Kim ngạch xuất nhập khẩu đạt 21328397 USD đạt 170,63% so với kế hoạch, 174,54% so với năm 1997. Điều này là một kết quả tốt nhưng tỷ lệ xuất khẩu so với nhập khẩu vẫn còn rất thấp (xấp xỉ 1/7). Sang năm 1999 thì kết quả kinh doanh xuất nhập khẩu gặp nhiều khó khăn. Kim ngạch chỉ đạt 15042325 USD đạt 91% so với kế hoạch tổng Công ty giao và bằng 70,5% so với năm 1998. Trong khi kim ngạch xuất khẩu không tăng bao nhiêu 2930579 USD (98: 2720316 USD) thì kim ngạch nhập khẩu lại giảm đáng kể từ 18 608 081 USD xuống còn 12111746 USD. Điều này được giải thích là do tình hình khu vực Châu á ( thị trường chính của Công ty ) lâm vào cuộc khủng hoảng, nên doanh số thị trường này đều bị giảm. Các mặt hàng có giá trị nhập lớn đều bị giảm như thuốc trừ sâu, sữa, Malt bia... Để khắc phục tình trạng này ngoài việc hy vọng tình hình kinh tế các nước trong khu vực thoát ra khỏi hủng hoảng thì Công ty cần phải có những giải pháp kịp thời. Việc tìm được những nguồn hàng mới có hiệu quả kinh doanh cao, các thị trường lớn ổn định đã tạo điều kiện để Công ty nâng cao tổng kim ngạch xuất khẩu. Có thể nói năm 2000 là một mốc son của xuất khẩu. tuy về giá trị vẫn chưa bằng so với nhập khẩu song xuất khẩu đã tăng lên 9157368 USD tăng gấp 3 lần so với năm 1999 và đạt 150,12% so với kế hoạch. Có được kết quả này do Công ty đã xuất khẩu được một số mặt hàng mới có kim ngạch cao như: hoa quả tươi (thanh long, chôm chôm, nhãn.....) 2998603 USD, hạt điều cũng có sự tăng mạnh lên 1096971 USD, ngoài ra các mặt hàng truyền thống cũng đều có được sự tăng trưởng trở lại như lạc nhân, cao su... Một mặt hàng khác là cá mực khô cũng có được kim ngạch xuất khẩu khá lớn 1.007718 USD. Chính nhờ những loại mặt hàng này mà đã có tác động trực tiếp đến việc tăng kim ngạch xuất khẩu tiếp đó là tổng kim ngạch xuất nhập khẩu của toàn Công ty tăng lên. Về nhập khẩu một số mặt hàng truyền thống có giá trị nhập lớn cũng có sự thay đổi. Có mặt hàng tăng nhưng có mặt hàng lại giảm. VD: như Thuốc trừ sâu, phân bón, sữa....có sự tăng nhẹ trở lại. Đặc biệt chú ý là Malt bia, vì mặt hàng này luôn có giá trị nhập cao, nhưng năm 2000 lại có sự giảm đi đáng kể (hơn một nửa, còn 1115682 USD). Ngược lại lúa mì lại tăng hơn 30 lần từ 65808 USD lên 1999546 USD. Chính vì vậy mà kim ngạch nhập khẩu giảm không đáng kể. Năm 2001, xuất khẩu vốn có được sự tăng trưởng mạnh lên mức cao nhất trong lịch sử Công ty 15054705 USD lần đầu tiên xuất khẩu đã vượt nhập khẩu "xuất siêu" kế hoạch này đã được đặt ra từ rất lâu, đến nay mới thực hiện được. Nhìn vào tổng thể, thì hầu hết các mặt hàng xuất khẩu đều tăng nhưng có những mặt hàng có sự tăng trưởng mạnh và giá trị lớn phải kể đến đó là Hoa quả tươi, cá mực khô, hàng khô.... Ngoài ra còn rất nhiều mặt hàng mới được xuất như áo Kimono, chậu gốm, dép xốp, Hoa hoè... Do vậy mà đã có tác động rất lớn đến việc tăng kim ngạch xuất khẩu. Năm 2002 do giá cả nông sản có nhiều biến động, tăng giảm đột ngột , đặc biệt là cuối năm 2002 do một số mặt hàng như cà phê, cao su, hạt tiêu, đều tăng rất cao trên thị trường thế giới do vậy mà giá cả trong nước cũng tăng theo làm cho công tác thu mua gặp khó khăn, hơn nữa do năm 2001 giá cả xuống thấp nên làm cho tâm lý nông dân hoang mang, doanh thu không đủ chi phí, nên đã phá bỏ hoặc ít chú ý đầu tư chăm sóc cây trồng do vậy mà năng suất năm 2002 bị giảm đi đáng kể, làm cho nguồn hàng trong nước bị thiếu hụt, thêm nữa nhiều nhà buôn tích trữ đầu cơ giữ hàng chờ giá, càng làm cho tình hình kinh doanh thêm khó khăn. Hơn nữa thị trường Trung Quốc rất hứa hẹn, do vậy mà Công ty gặp phải sự cạnh tranh rất quyết liệt của nhiều đơn vị khác, nên đã tác động trực tiếp làm giảm kim ngạch xuất khẩu của Công ty từ 15054705 USD xuống còn 9331803 USD tức là giảm đi 38%. Một số mặt hàng giảm mạnh như Hoa quả tươi, hàng không sang Trung quốc. Riêng cá mực khô không còn xuất. Do vậy ảnh hưởng rất lớn tới kim ngạch xuất khẩu. Còn về nhập khẩu Công ty vẫn có được nguồn hàng và đối tác, vẫn đảm bảo được kinh doanh có lãi, các mặt hàng truyền thống như thuốc trừ sâu, sữa, lúa mì, vật liệu xây

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docBC941.doc
Tài liệu liên quan