Tình hình phát triển của Công ty may Thăng Long

Lời nói đầu

Chương I : Vài nét về công ty may Thăng Long

I. Quá trình hình thành và phát triển.

1. Tình hình phát triển của Công ty may Thăng Long.

2. Chức năng, nhiệm vụ sản xuất kinh doanh mặt hàng sản xuất và số lượng sản

II. Cơ cấu tổ chức của Công ty may Thăng Long.

III. Một số đặc điểm quy trình sản xuất của Công ty may Thăng Long.

1. Quy trình Công nghệ.

2. Tổ chức sản xuất.

3. Đặc điểm về công tác cung ứng vật tư.

4. Thị trường tiêu thụ sản phẩm.

5. Tình hình tài chính của Công ty may Thăng Long.

6. Năng lực sản xuất.

7. Đặc điểm công tác tính giá thành.

II. 1. Định nghĩa Marketing. Của XAVIER LUCRON - PHILIP KOTLER.

II.2.Khái niệm Marketing Mix :

II.3. Nhu cầu và thị hiếu của người tiêu dùng.

II.4. Chu kỳ sống của sản phẩm.

II.5. Phân tích khả năng thị trường và phát hiện thị trường mới.

A. ý nghĩa quan trọng của chiến lược sản phẩm.

1. Giai đoạn suy thoái :

2. Hạch định sản phẩm mới :

3. Tạo uy tín sản phẩm :

4. Bao bì sản phẩm :

II.6. Giá cả và chính sách giá cả :

 

doc79 trang | Chia sẻ: huong.duong | Lượt xem: 1556 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tình hình phát triển của Công ty may Thăng Long, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
uồn : Cuốn “International Marketing” Analysis and Strategy, của Snack_Onk Vissir và Jhor J.Shaw, xuất bản 1990, trang 19. . - Mậu dịch quốc tế đóng một vai trò vô cùng quan trọng mà trước đây cộng đồng quốc tế chưa biết đến. Trong những thập kỷ qua, tuy mậu dịch quốc tế đã được tiến hành trên toàn cầu, song với mức độ quy mô ảnh hưởng đối với các quốc gia, các hãng cá nhân không được sâu rộng như hiện nay. - Trong hai thập kỷ qua mậu dịch thế giới đã tăng từ 200 tỷ USD lên hơn 4000 tỷ USD Nguồn : cuốn “International Marketing” Michael R.Czinkota và Ukka A.Ronkainer, trang 17. < thời báo kinh tế Việt nam số 11, 14/3/1999 - 20/3/1999). Đã đưa ra con số như sau : Tổng kim ngạch buôn bán của thế giới năm 1998 là 10.170 tỷ USD, trong đó xuất khẩu là 5.011 tỷ USD và nhập khẩu là 5.159 tỷ USD. Năm 1998 so với năm 1997 tăng 18,8%. Nước Mỹ đạt 1.343 tỷ USD, Cộng hoà Liên bang Đức 965,5 tỷ USD, Nhật Bản 779 tỷ USD. Có những nước trước đây chưa bao giờ được coi là thành viên của mậu dịch quốc tế, bỗng chốc trở thành một thế lực có tiềm lực kinh tế mạnh. Các hãng bắt đầu đầu tư lớn trên phạm vi toàn cầu, kết quả là các ngành Công nghiệp đều di chuyển vị trí. Chuyên môn hoá quốc tế, trao đổi thông tin giữa các nước phát triển làm cho sản xuất có hiệu quả hơn nhiều, đồng thời cũng làm cho các nhà tiêu dùng, các lãnh đạo công đoàn, các nhà quyết định chính sách và bản thân các nhà sản xuất cũng thấy khó mà phân biệt một sản phẩm cụ thể được sản xuất ở đâu. - Các liên minh thương mại mới đang nổi lên : Liên minh Châu Âu ở Châu Âu, liên minh Canada, Mỹ, Mêhicô ở Châu Mỹ, và gần đây là nhóm châu Á do Nhật bản đứng đầu mới ra đời. Các hãng này ngày càng tin tưởng rằng để tồn tại và thành công họ cần phải có hoạt động kinh doanh với các khối kinh tế : Mỹ - Châu Âu - Nhật Bản. Tổ chức thương mại thế giới được thành lập ngày 1/1/1998. Các chính phủ đã ký kết các thương lượng của vòng đàm phán Uruguay vào ngày 15/12/1993 và các bộ trưởng đã đưa ra cam kết chính trị cho các kết quả này bằng việc ký kết hiệp định cuối cùng tại Marrkesh, Monacco tháng 4.1997, “ Tuyên bố Marrakesh” ngày 15/4/1997 khẳng định rằng kết quả của vòng đàm phán Uruguay là nhằm “tăng cường nền kinh tế thế giới và thúc đẩy thương mại, đầu tư, tăng việc làm và thu nhập trên thế giới”. - Mậu dịch quốc tế đã dẫn tới mối quan hệ thị trường, công nghệ trên toàn thế giới. Đồng thời nó cũng ảnh hưởng sâu sắc đến việc đề ra các chính sách mới nhằm thích ứng với những cơ hội mới xuất hiện và những đe doạ mới đối với các nhà kinh doanh. Kinh doanh trên thị trường thế giới các cá nhân và các hãng kinh doanh bắt đầu nhận ra rằng họ không chỉ phải canh tranh trong nước mà còn phải cạnh tranh trên phạm vi toàn thế giới. Để tồn tại và phát triển trong bối cảnh của môi trường kinh doanh quốc tế như vậy, các nhà doanh nghiệp không thể không vận dụng Marketing quốc tế. - Tầm quan trọng và lợi ích của Marketing thì đã quá rõ ràng. Song để có được những lợi ích đó là cả vấn đề nan giải. Thế giới đang bước vào thập kỷ 21 - thập kỷ của sự hợp tác và hội nhập quốc tế. Các khối, các liên minh kinh tế lần lượt ra đời như : EU, NAFTE, GCC, ASEAN ... EU : Liên minh Châu Âu. NAFTA : Hiệp định tự do thương mại Bắc _ Mỹ. GCC : Hội đồng các Công ty vùng vịnh. ASEAN : Hiệp hội các nước Đông Nam Á. . C. Gia công quốc tế. Vì đề tài của luận văn có liên quan mật thiết tới vấn đề gia công quốc tế, người viết xin được trình bày đôi nét về lĩnh vực này : * Gia công : - Từ “gia công” có nguồn gốc Hán nôm nghĩa là “bỏ sức lực ra”. Tuỳ theo góc độ nghiên cứu mà có định nghĩa khác nhau : 1.1. Một số định nghĩa : Gia công hàng hoá dưới góc độ khoa học - công nghệ : Được hiểu là việc bỏ sức lao động vào để làm ra một sản phẩm mới hay thực hiện một số công đoạn trong quá trình sản xuất ra một sản phẩm nào đó. Ở đây khái niệm “lao động” bao hàm : Lao động giản đơn (chủ yếu là lao động chân tay - cơ bắp, thời gian đào tạo không đáng kể) và lao động phức tạp có kỹ thuật, có sự trợ giúp của công cụ máy móc tinh vi cùng với những quy trình công nghệ cao, đòi hỏi nhiều trí tuệ (thời gian đào tạo lâu và chi phí tốn kém). Và sản phẩm làm ra mang trong nó một khái niệm mới : Hàm lượng lao động nói chung và hàm lượng khoa học công nghệ nói riêng. Từ đó hình thành khái niệm gia công hàng bao cấp - hàng hoá có hàm lượng khoa học, công nghệ cao (ở các nước Công nghệp phát triển), còn ở các nước kém phát triển, trong thời kỳ mà nền sản xuất còn giản đơn, tự cung tự cấp, việc bỏ sức lao động để làm ra một sản phẩm chưa mang tính chất thương mại. Hàng hoá được sản xuất ra và được tiêu thụ do cùng một người chịu trách nhiệm, khi đó gia công hàng hoá đồng nghĩa với khái niệm sản xuất hàng hoá. Khi nền kinh tế phát triển mạnh mẽ, hàng hoá mang tính chất thương mại, sự phân công lao động vượt ra ngoài biên giới quốc gia và sức lao động trở thành hàng hoá, thì khái niệm gia công đã có một sắc thái mới và ta có một cách định nghĩa khác. b ) Gia công quốc tế : Dưới góc độ thương mại là một phương thức kinh doanh trong đó một bên (gọi là bên nhận gia công) nhận nguyên vật liệu hoặc bán thành phẩm của một bên khác (gọi là bên đặt gia công) để chế biến, cải tiến hoặc lắp ráp thành ra sản phẩm để giao lại cho bên đặt gia công và nhận một khoản thù lao gọi là chi phí gia công. - Sự xuất hiện của loại hình gia công hàng hoá cho nước ngoài trên thị trường quốc tế chính là hệ quả của sự chênh lệch về trình độ công nghệ và khoa học kỹ thuật giữa các quốc gia và một phần nửa là do lợi thế các nguồn lực về tài nguyên, nhân công khác nhau của các nước. Thực tế cho thấy rằng : Hầu hết các hợp đồng gia công quốc tế được ký kết giữa một bên là các doanh nghiệp trong nước có nền khoa học - công nghệ phát triển với một bên là các doanh nghiệp thuộc một quốc gia có kinh tế kém phát triển nhưng lại có nguồn nhân lực dồi dào, giá rẻ. - Trong quan hệ gia công cho nước ngoài nói chung, bên gia công dựa vào cơ sở vật chất kỹ thuật và lao động sẵn có để tiến hành công việc gia công, đôi khi họ còn nhận được cả sự giúp đỡ về máy móc, thiết bị, công nghệ sản xuất hoặc sự hướng dẫn đào tạo của các chuyên gia kỹ thuật ... do phía đặt gia công cung cấp. Nội dung gia công gồm : việc sản xuất, chế biến, sửa chữa, tái chế, lắp ráp, phân loại, đóng gói hàng hoá ... theo yêu cầu và bằng nguyên vật liệu của bên đặt gia công. - Việc tiến hành phương thức kinh doanh gia công quốc tế thực sự đã mang lại lợi ích về nhiều mặt cho tất cả các bên tham gia : bên nhận gia công không cần bỏ vốn, không phải lo thị trường tiêu thụ mà vẫn tiến hành sản xuất và thu được tiền công; còn bên đặt gia công thì có thể rảnh tay lo việc tiêu thụ hàng hoá, và nếu tìm được nguồn nguyên vật liệu rẻ, giá nhân công hạ thì thu về lợi nhuận càng lớn. Vì vậy phương thức kinh doanh gia công quốc tế ngày càng phát triển mạnh và trở thành một phương thức phổ biến trong buôn bán ngoại thương của nhiều nước. Và đây cũng là loại hình kinh doanh rất phù hợp với quá trình phát triển theo xu hướng chuyên môn hoá ngày càng sâu rộng của nền kinh tế thế giới trên cơ sở sử dụng tối ưu những lợi thế của mỗi quốc gia. - Để có kế sách thích hợp cho loại hình kinh doanh này, từ góc độ kinh tế ta cần phân tích xem mỗi bên được gì, mất gì> Bên đặt gia công : Cái mà họ bỏ ra chủ yếu là vốn đầu tư không nhiều (vì lợi dụng được mặt bằng sản xuất ở phía bên kia) và chi phí gia công rẻ. · Lợi ích lớn nhất đối với bên thuê gia công là giảm được chi phí sản xuất do tận dụng được nguồn nhân lực và một phần nguyên phụ liệu thường là rẻ ở nước nhận gia công. Chính lợi thế này quyết định xu hướng chuyển dần các ngành sản xuất đòi hỏi nhiều nhân công, nhiều công đoạn tỷ mỉ (nhưng không yêu cầu người lao động phải có trình độ khoa học - công nghệ cao) từ các nước có nền Công nghiệp phát triển sang các nước mới phát triển có nguồn lao động dồi dào và rẻ. Bằng phương thức thuê gia công, nhà kinh doanh ở các nước phát triển đã tiết kiệm đến mức tối đa chi phí đầu vào cho sản xuất. Đó là chi phí sức lao động ở nước ngoài thấp, còn nếu tự sản xuất trong nước với chi phí tiền công cao thì làm cho giá thành sản phẩm tăng khiến hàng hoá mất sức cạnh tranh trên thị trường. Nguồn gốc lợi nhuận của nhà kinh doanh gia công quốc tế chính là từ phần lao động thặng dư không được trả công của người lao động nước ngoài tạo nên. Mức lợi nhuận này cao hơn với cùng một số tư bản như vậy nhưng đầu tư ở trong nước. · Một lợi thế khác là bên đặt gia công có thể chủ động điều chỉnh được nguồn hàng để phục vụ cho yêu cầu kinh doanh của mình một cách có lợi nhất. Người đi thuê gia công thường có thế mạnh là có thị trường tiêu thụ hoặc là các thị trường truyền thống, hoặc là các thị trường khó tính mà chỉ họ mới đáp ứng được. Cho nên, khi thị trường phát sinh những nhu cầu lớn, thì họ có thể đáp ứng được ngay mà không cần bỏ thêm vốn đầu tư mở rộng phân xưởng sản xuất, thu hút nhân công ... một cách không cần thiết (đôi khi vì tốn thời gian nên mất cơ hội làm ăn) bằng cách thuê nước ngoài gia công. Do vậy, họ vừa giữ được thị trường tiêu thụ vừa tiết kiệm được vốn đầu tư mà vẫn thu được lợi nhuận cao. Trong quá trình tiến hành gia công quốc tế, bên đặt gia công nhiều khi có thể đặt thêm thị trường tiêu thụ hàng hoá cho mình ngay tại nước nhận gia công. Những quy cách, mẫu mã, kiểu dáng, chất lượng của hàng hoá đặt gia công cũng có thể đáp ứng được thị hiếu số đông người tiêu dùng ở nước nhận gia công, dần dà đi đến chiếm lĩnh thị trường tiêu thụ ở nước đó và các nước lân cận. Đây là một thực tế mà các nhà hoạch định chính sách cần hết sức cảnh giác. Vì thương trường là chiến trường nên muốn thắng trong phương thức kinh doanh này (ít ra là không bị mắc lừa) ta cần hiểu người hiểu mình. Bên nhận gia công : - Cái phải bỏ ra là sức lao động và vốn cố định (nhà xưởng, kho bãi ...). · Cái mà thu về được không phải là nhỏ, nhưng không dễ dàng nhận thấy ngay được là giải quyết được những khó khăn bỡ ngỡ ban đầu của các nước chậm phát triển khi mới tham gia vào thị trường thế giới và việc thực hiện chiến lược phát triển ngoại thương nhằm mục tiêu tăng trưởng nền kinh tế của mình. · Còn lợi ích dễ nhận thấy là : * Khai thác được lợi thế nguồn nhân lực dồi dào trong nước, giải quyết công ăn việc làm cho một bộ phận lao động dư thừa trong xã hội, góp phần cải thiện đời sống cho người lao động, giảm nạn thất nghiệp (nguồn gốc của các tệ nạn xã hội). * Giải quyết được khó khăn về vốn đầu tư và kỹ thuật, làm tiền đề để xây dựng các ngành Công nghiệp chế biến và Công nghiệp nhẹ trong nước, dần dần làm thay đổi cơ cấu hàng xuất khẩu theo hướng tăng dần tỷ trọng hàng đã qua chế biến, giảm tỷ lệ hàng là nguyên liệu thô, tăng hiệu quả kinh tế của hoạt động xuất khẩu. * Khắc phục được khó khăn về thị trường tiêu thụ, không phải chịu những rủi ro khi tiềm kiếm thị trường nước ngoài. Đồng thời lại sử dụng được mạng lưới và kinh nghiệm tiêu thụ hàng hoá của nước đặt gia công, từ đó tích luỹ được kinh nghiệm, tập dượt cho việc chiếm lĩnh thị trường mới. * Nhờ gia công hàng xuất khẩu mà có thể xuất khẩu được một số vật tư, nguyên liệu sẵn có trong nước, phát triển thêm nguồn hàng, trang bị và khai thác máy móc thiết bị tiên tiến hoặc quy trình công nghệ mới và không mất nhiều thời gian nghiên cứu thử nghiệm. * Góp phần tăng thu ngoại tệ cho đất nước, giảm bớt sự cân đối trong cán cân thanh toán quốc tế. Chính vì đem lại những lợi ích to lớn như vậy, nên phương thức kinh doanh gia công trên thị trường quốc tế ngày càng phát triển, không chỉ những nước kinh tế chưa phát triển mới quan tâm mà ngay cả các nước công nghiệp phát triển cũng vẫn sử dụng nhằm tận dụng tối đa những lợi ích mà phương thức gia công đem lại. Vậy thì gia công quốc tế bao gồm những loại hình thức nào ? 1.2. Các hình thức gia công quốc tế : Người ta thường căn cứ vào các tiêu thức sau để phân loại: Xét về quyền sở hữu nguyên liệu : Gia công quốc tế có thể được tiến hành dưới các hình thức sau đây : · Giao nguyên vật liệu, thu thành phẩm : Bên đặt gia công giao nguyên vật liệu hoặc bán thành phẩm và các yêu cầu về mẫu mã cùng các tài liệu kỹ thuật cần thiết cho bên nhận gia công vì sau một thời gian sản xuất, chế tạo sẽ thu hồi thành phẩm và trả phí gia công. Ở hình thức này, quyền sở hữu về nguyên liệu, hàng hoá thuộc về bên đặt gia công trong suốt thời gian sản xuất, vì vậy người đặt gia công phải lo tiêu thụ sản phẩm. Bên nhận gia công có thuận lợi là không phải bỏ vốn ra mua nguyên liệu, và nếu như có một đội ngũ cán bộ kỹ thuật giỏi công nhân tay nghề cao biết sử dụng nguyên phụ liệu một cách tiết kiệm so với định mức tiêu hao, thì còn được hưởng phần nguyên vật liệu dôi ra. Tuy vậy, ở phương thức này, bên nhận gia công cũng gặp phải những điều bất lợi : bị phụ thuộc nhiều vào bên thuê gia công về tiến độ giao nguyên vật liệu, về thị trường tiêu thụ, dễ bị động trong việc tổ chứ sản xuất và phí gia công thường thấp, hiệu quả kinh tế kém. · Bán nguyên liệu, mua thành phẩm : Bên đặt gia công bán đứt nguyên liệu cho bên nhập gia công, sau một thời gian sản xuất chế tạo sẽ mua lại thành phẩm. Ở hình thức này quyền sở hữu nguyên liệu đã chuyển từ bên đặt gia công sang bên nhận gia công. Người thuê gia công không phải chịu chi phí ứng trước về nguyên vật liệu do vậy ít chịu rủi ro của quá trình sản xuất. Bên nhận gia công có thể chủ động trong khâu sản xuất và có thể đưa thêm một số nguyên phụ liệu sẵn có trong nước vào trong quá trình gia công giảm chi phí sản xuất. Kết quả là thu được số tiền nhiều hơn so với kiểu làm thuê thông thường. b ) Xét về mặt giá cả gia công : Có hai hình thức : · Hợp đồng thực chi, thực thanh : là hợp đồng gia công trong đó bên nhận gia công thanh toán với bên đặt gia công toàn bộ chi phí thực tế của mình cộng với tiền thù lao gia công. · Hợp đồng khoán : là hợp đồng gia công trong đó người xác định một giá định mức cho mỗi sản phẩm, bao gồm chi phí định mức và thù lao định mức. Dù chi phí thực tế của bên nhận gia công là bao nhiêu đi chăng nữa, hai bên vẫn thanh toán với nhau trên cơ sở giá định mức đó. c )Xét về bên tham gia hợp đồng gia công : Có hai hình thức : · Hình thức gia công hai bên : Ở đây mối quan hệ giữa đặt gia công và bên nhận gia công được xác định trong một hợp đồng gia công. · Hình thức gia công nhiều bên (hay gia công chuyển tiếp) : Theo hình thức này thì sản phẩm gia công của đơn vị gia công trước là nguyên vật liệu gia công của đơn vị sau. Việc giao nhận giữa bên thuê gia công và bên nhận gia công có thể phải qua nhiều nước hoặc qua nhiều tổ chức gia công khác nhau trong cùng một nước. Loại hình này đã có từ lâu, và về cơ bản cũng giống như hình thức giao nguyên vật liệu, nhận thành phẩm thông thường, nhưng có khác về chủ thể trong mối quan hệ gia công. Bên đặt gia công vẫn là một bên trong hợp đồng, còn bên nhận gia công có thể là nhiều đối tượng khác nhau nhưng các đối tượng chuyển tiếp này phải được bên thuê gia công chỉ định. CHƯƠNG III : PHÂN TÍCH CÔNG TÁC MARKETING Ở CÔNG TY MAY THĂNG LONG * Tầm quan trọng của thị trường đối với nhà sản xuất và kinh doanh : Có thể nói thị trường là nơi quyết định sự thành bại của các doanh nghiệp. Sự phán đoán đúng được hướng biến động của thị trường, có sự nghiên cứu và chuẩn bị kỳ công các phương sách, kế hoạch phụ trợ cũng như tháo gỡ khó khăn thì chắc chắn sẽ dẫn tới sự thành công và thu lợi nhuận. Ngược lại, nếu thiếu đi sự quan sát, tìm hiểu thị trường thì khả năng đứng vững của các doanh nghiệp trong thời buổi kinh tế thị trường như ngày nay khó mà xác định được. Đôi nét giới thiệu về Công nghiệp dệt may. Từ nửa cuối năm 1990, như một hệ quả tất yếu của những biến động chính trị chưa từng có trong lịch sử, các thị trường Liên Xô cũ và Đông Âu tan dã nhanh chóng. Cuộc khủng hoảng nghiêm trọng, sâu sắc về nhiều mặt của hệ thống XHCN Đông Âu và sự giải thể hội đồng tương trợ kinh tế đã đặt hoạt động xuất nhập khẩu của Việt Nam trước những khó khăn, chồng chất nan giải nhất là không có thị trường tiêu thụ sản phẩm. Trong bối cảnh đó, ngành dệt may một mặt cố gắng khôi phục lại vị trí của mình trên thị trường truyền thống, mặt khác phải tìm cách thâm nhập vào thị trường mới đặc biệt là các nước phát triển. Thị trường các nước mới phát triển với yêu cầu cao về chất lượng, mẫu mã, thời hạn giao hàng ... gây nhiều bỡ ngỡ cho doanh nghiệp ngành dệt may Việt Nam từ lau đã quen với cách làm ăn của thị trường các anh em dễ tính. Tuy vậy, sau một vài năm trong cơ chế mới, ngành dệt may đã tìm ra cho mình hướng đi đúng, vượt qua những trở ngại tưởng chừng không thể khắc phục nổi và bước đầu đạt được kết quả đáng khích lệ : ổn định sản xuất trong nước, từng bước phát triển đáp ứng nhu cầu tiêu dùng của nhân dân. Liên tcu từ năm 1992 đến nay, kim ngạch xuất khẩu toàn ngành đạt năm sau cao hơn năm trước, với tốc độ bình quân 20%/năm. Tiêu biểu nhất là các năm 1998 so với năm 1997 tăng 34,5% đạt 750 triệu USD, năm 1999 vượt năm 1998 tới 52%, lần đầu tiên kim ngạch xuất khẩu vượt qua mức 1 tỷ USD. Riêng năm 2000 mức tăng có thấp hơn (18%) vì là năm cuối cùng của Hiệp định buôn bán hàng dệt may với EU (1993-2000); năm 1999 đã dùng trước một phần quota của năm 2000 để xuất khẩu sang thị trường EU, Nauy, Canada, Thổ Nhĩ Kỳ; mặt khác thị trường phi hạn ngạch, đặc biệt là Nhật Bản - thị trường nhập khẩu lớn nhất của ta hiện nay đang gặp khó khăn do sức mua trong nước giảm; các nước Châu Á còn lại thì đang trong cơn khủng hoảng tài chính. Đến nay, mặt hàng dệt may Việt Nam đã có trên 50 nước và khu vực trên thế giới. Sở dĩ có được những thành tích như vậy là do ngành dệt may sớm ý thức được sự cần thiết phải chuyển hướng thị trường, chuyển hướng đầu tư, xây dựng mới, trang thiết bị các cơ sở sản xuất với những máy móc thiết bị hiện đại, không ngừng nâng cao chất lượng để thoả mãn nhu cầu khách hàng. Bảng : Giá trị sản xuất Công nghiệp dệt - may năm 2000 ở nước ta Tên sản phẩn Đơn vị Giá trị sản xuất (tỷ đồng) So với năm 1999 Vải lụa thành phẩm Triệu mét 258 106,2 Sợi toàn bộ Tấn 61 107,2 Quần áo dệt kim 1000 cái 25,491 102,4 Quần áo may sẵn 1000 cái 226,134 113,4 (Nguồn : Thời báo kinh tế số xuân 2000) Ngành Dệt - may đóng góp giá trị kinh tế lớn bổ sung vào ngân sách Nhà nước hàng năm để nâng cao đời sống xã hội về nhiều mặt. Những năm gần đây, kim ngạch xuất nhập khẩu của ngành liên tục tăng và đứng trong nhóm ba mặt hàng xuất khẩu (cùng với gạo và dầu thô) có đóng góp ngoại tệ lớn nhất. Bảng : Tỷ trọng kim ngạch xuất nhập khẩu hàng dệt - may trong tổng kim ngạch xuất nhập khẩu của Việt nam từ năm 1992 tới tháng 8.2001 (đơn vị triệu USD theo giá FOB). Năm Kim ngạch xuất khẩu hàng dệt - may Kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam Tỷ trọng % 1992 211 2475 8,52 1993 350 3000 11,66 1997 550 4200 13,09 1998 750 5800 12,93 1999 1150 7200 15,97 2000 1350 8850 15,52 Tám tháng đầu 2001 858 6196 13,84 Tốc độ tăng trưởng sản xuất hàng Dệt - may trong các năm này bình quân đạt 10,7%. (Nguồn : Ngành dệt - may Việt Nam, hiện tại và tương lai Tổng Công ty Dêt - may Việt Nam). Ngành dệt -may góp phần đáng kể cho sự tăng trưởng kinh tế của Việt Nam. Bảng : Một số chỉ tiêu kinh tế dệt may trên thế giới Các nước Tiêu dùng dệt /người (kg/người) Lương lao động dệt - may USD/ giờ GNP/ người USD/ người Việt Nam 0,8 0,18 220 Thái Lan 3,0 0,78 2315 Inđônêsia 1,9 0,23 780 Malayxia 6,5 0,95 3530 Singapore 29,0 3,16 22520 Đài Loan 5,00 11236 Trung Quốc 5,7 0,34 435 Hồng Kông 12,8 3,39 21558 Ấn Độ 2,5 0,54 310 Hàn Quốc 14 3,6 8520 Nhật Bản 20,3 16,37 38750 Mỹ 27,1 10,33 25900 Anh 18,5 10,06 16600 Pháp 25 12,63 24155 Thế giới 7,2 (Nguồn : Asia Week Review 9/1998) Các nước NIC Châu Á như : Hàn Quốc, Malaysia, Đài Loan ... đang chuyển sản xuất dệt may sang các nước có lao động dồi dào và rẻ hơn như : ấn Độ, Inđônêsia, Băng Lađét, Việt Nam ... chúng ta tiếp nhận nhiều công trình liên doanh hoặc 100% vốn từ các nước đó. Bảng : Tốc độ tăng trưởng kinh tế năm 2000 của một số nước và khu vực trên thế giới. Nước GNP ( % ) Trung Quốc 19 Hàn Quốc 14 Inđônêsia 13 Nam Á 9 Trung Đông 6 Nhật Bản 6 Nam Mỹ 4 Bắc Mỹ 1 Châu Âu 1 Việt Nam 8,8 (Nguồn : Văn phòng thống kê Chính Phủ Australia ). Với đặc trưng cần nhiều lao động lại không phải đào tạo công phu, ngành dệt - may còn giúp đáng kể nhu cầu công ăn việc làm cho xã hội, đặc biệt là lao động nữ, ngăn chặn các hậu quả do nạn thất nghiệp gây ra, ổn định đời sống nhân dân, góp phần tạo sự ổn định tình hình chính trị kinh tế - xã hội mà Đảng và Nhà nước ta quan tâm. Theo đà tăng trưởng của sản xuất, số lao động được sử dụng trong ngành cũng không ngừng tăng lên. Ước tính toàn ngành hiện đang sử dụng 50 vạn lao động các loại, chiếm 22,7% số lượng công nhân toàn quốc. Đối với các nước trên thế giới: Từ rất lâu, trên thế giới ngành Công nghiệp này đã được hình thành và đi lên cùng với sự phát triển ban đầu của CNTB, vì đây là ngành thu hút nhiều lao động với kỹ năng không cao và có điều kiện mở rộng thương mại quốc tế - vốn đầu tư ban đầu cho một cơ sở sản xuất không lớn. Do vậy trong quá trình Công nghiệp hoá từ rất sớm ở các nước tư bản phát triển như : Anh, Ý, Pháp ... cho đến các nước Công nghiệp mới như : Hàn Quốc, Đài Loan, Hồng Kông, Singapore ... ngành dệt may đều có vị trí quan trọng trong quá trình Công nghiệp hoá của họ. Song hiện nay, giờ công lao động của các nước này cao hơn ta rất nhiều, do vậy hiệu quả sản xuất dệt may ở các nước đó chưa cao như có thể đạt được bằng cách đặt gia công ở những nước kém phát triển. * Công tác thị trường của Công ty may Thăng Long trong gia công may mặc xuất khẩu : 1. Nghiên cứu thị trường. Với sản xuất, xuất khẩu trực tiếp thì vấn đề thị trường là quan trọng hàng đầu, không có thị trường thì sản phẩm không thể tồn tại, phát triển được và chúng ta có thể nói rằng thị trường là một trong những yếu tố quyết định về sự tồn tại và phát triển của tất cả các ngành sản xuất. Cùng với những lợi thế sẵn có, Việt Nam nói chung và Công ty nói riêng có thể phát triển ngành may mặc sản xuất thành một ngành mũi nhọn. Vấn đề quan trọng đầu tiên của Doanh nghiệp là thị trường nước ngoài với những khó khăn và thuận lợi như thế nào. Một câu hỏi luôn đặt ra là làm thế nào để có đủ sức cạnh tranh với sản phẩm của các nước trên thế giới. Cũng như bất kỳ sản phẩm nào khác, việc đầu tiên là công tác nghiên cứu thị trường để đưa ra những sản phẩm bán trên thị trường là những sản phẩm mà thị trường cần chứ không phải bán những sản phẩm mà mình có. * Các thị trường chính của Công ty : Kết quả xuất nhập khẩu hàng may mặc của Công ty trên thị trường Năm 1997 1998 1999 2000 Thị trường Giá trị (1000 USD) Tỷ trọng trong tổng hạn ngạch (%) Giá trị (1000 USD) Tỷ trọng trong tổng hạn ngạch (%) Giá trị (1000 USD) Tỷ trọng trong tổng hạn ngạch (%) Giá trị (1000 USD) Tỷ trọng trong tổng hạn ngạch (%) EU 6934,7 51,5 10548 63,05 11603 62,8 12763,3 63,6 Đông Âu 1028,7 7,6 1259,6 7,5 1385,5 7,5 1524,1 7,4 Châu Á 1884,8 4,5 3020,4 18,05 3322,4 18 3654,6 18,5 Các thị trường khác 2626,8 19,5 1967,8 11,4 2164,5 11,7 2381 11,5 Cộng 13475 100 1673,7 100 18475 100 20323 100 (Nguồn : Tạp chí thời báo kinh tế số tháng 6/2000). Xét về tổng thể, Công ty có những chuyển biến rõ rệt qua các năm, doanh thu năm sau cao hơn năm trước, phần thị trường có những biến chuyển rất lớn trong những năm gần đây. Nhưng phần lớn Công ty mới chỉ tập trung vào một số thị trường chính như : EU, Đông Âu, Châu Á ... (EU : thị trường chủ đạo). * Đặc điểm : a) Ngành dệt may ở EU đã có lịch sử phát triển lâu đời, sản phẩm chiếm tỷ trọng khá lớn trong tổng sản phẩm xã hội và kim ngạch xuất khẩu. Năm 2000, các nước EU xuất khẩu 48.390 triệu USD hàng dệt, chiếm 41% tổng giá trị xuất khẩu hàng dệt thế giới. Xuất khẩu hàng dệt chiếm tới 5,7% tổng khối lượng mậu dịch của Đức; 5,3% của Bỉ ...(năm 2000). Trong 15 nước xuất khẩu hàng dệt lớn nhất thế giới năm 2000 thì có tới 6 nước EU. Cụ thể là Đức (đứng đầu EU và đứng đầu thế giới) với lượng xuất khẩu là 13.900 triệu USD, chiếm 28,7% xuất khẩu toàn EU; tiếp đến là Bỉ với 6500 trên Pháp với 6300 triệu ... (theo tạp chí thương mại số tháng 9/2000). b) Xu hướng tăng tỷ trọng nhập khẩu từ các nước bên ngoài EU. Do giá công nhân ngày càng cao và các nguyên nhân khác khiến cho giá thành sản xuất trong nội bộ EU tăng cao. Để giải quyết vấn đề này, các thành viên EU đã tăng nhập khẩu từ nước ngoài để thoả mãn nhu cầu bằng việc thuê nước ngoài sản xuất với những nguyên liệu hay bán thành phẩm mình cung cấp hay còn gọi là gia công. Các nước trong EU xuất khẩu vải hoặc các mảnh quần áo đã cắt sẵn cùng phụ liệu để gia công ở một số nước khác, sau đó lại nhập thành phẩm vào EU. Phương thức này còn gọi là OPT (out ward processing trade). Các nước gia công chủ yếu cho EU là các nước Đông Âu như : Ba Lan, Kumani, Litva, Hungari ... và các nước đang phát triển như : Bangladet, Việt Nam ... c) Thị trường có quy mô lớn, yêu cầu cao : Thị trường EU với số dân 360 triệu người là nơi tiêu thụ khá

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docA0506.doc
Tài liệu liên quan