Tóm tắt Luận án Chất lượng đội ngũ kiểm toán viên của kiểm toán nhà nước

Chương 3

THỰC TRẠNG CHẤT LƯỢNG

ĐỘI NGŨ KIỂM TOÁN VIÊN NHÀ NƯỚC VIỆT NAM

3.1. THỰC TRẠNG CƠ CẤU TỔ CHỨC VÀ KẾT QUẢ HOẠT

ĐỘNG CỦA CƠ QUAN KIỂM TOÁN NHÀ NƯỚC VIỆT NAM

3.1.1. Thực trạng cơ cấu tổ chức của cơ quan Kiểm toán nhà nước Việt Nam

Ở Việt Nam, cơ quan Kiểm toán nhà nước được thành lập và hoạt

động theo Nghị định số 70/CP ngày 11 tháng 7 năm 1994 của Chính phủ

về việc thành lập cơ quan Kiểm toán nhà nước, Quyết định số 61/TTg

ngày 24 tháng 1 năm 1995 của Thủ tướng Chính phủ về việc ban hành

Điều lệ tổ chức và hoạt động của cơ quan Kiểm toán nhà nước.

Sau 20 năm hoạt động, đến nay cơ quan Kiểm toán nhà nước đã trở

thành một thiết chế hiến định độc lập. Địa vị pháp lý của cơ quan Kiểm

toán nhà nước, Tổng Kiểm toán nhà nước được quy định tại Điều 118 của

Hiến pháp nước Cộng hòa XHCN Việt Nam.

Hiện nay cơ quan Kiểm toán nhà nước đã có bộ máy tổ chức tập trung

thống nhất với 32 đơn vị trực thuộc, gồm: 8 đơn vị tham mưu, 8 đơn vị

Kiểm toán nhà nước chuyên ngành, 13 đơn vị Kiểm toán nhà nước khu

vực, 3 đơn vị sự nghiệp.

pdf28 trang | Chia sẻ: lavie11 | Lượt xem: 430 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tóm tắt Luận án Chất lượng đội ngũ kiểm toán viên của kiểm toán nhà nước, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
IỂM TOÁN VIÊN NHÀ NƯỚC 2.2.1. Khái niệm kiểm toán viên nhà nước và đội ngũ kiểm toán viên nhà nước Kiểm toán viên nhà nước là chức danh của công chức nhà nước thực hiện nhiệm vụ kiểm toán của cơ quan Kiểm toán nhà nước và được chia 7 thành 4 cấp bậc, gồm: Kiểm toán viên dự bị, kiểm toán viên, kiểm toán viên chính, kiểm toán viên cao cấp. Đội ngũ kiểm toán viên nhà nước là tập hợp toàn bộ kiểm toán viên nhà nước làm việc trong hệ thống cơ quan Kiểm toán nhà nước từ các đơn vị tham mưu, các Kiểm toán nhà nước chuyên ngành ở Trung ương cho đến các Kiểm toán nhà nước khu vực ở các địa phương có cơ cấu về số lượng, chuyên môn và trình độ đào tạo, cấp bậc, độ tuổi, giới tính và có đạo đức nghề nghiệp kiểm toán. 2.2.2. Nhiệm vụ của kiểm toán viên nhà nước và đội ngũ kiểm toán viên nhà nước Theo quy định tại Điều 30 của Luật Kiểm toán nhà nước năm 2005, nhiệm vụ của từng cá nhân kiểm toán viên nhà nước, gồm: - Thực hiện nhiệm vụ kiểm toán và chịu trách nhiệm trước Tổ trưởng, Trưởng Đoàn kiểm toán về việc thực hiện nhiệm vụ kiểm toán được phân công; đưa ra ý kiến đánh giá, xác nhận, kết luận và kiến nghị về những nội dung đã kiểm tra trên cơ sở thu thập đầy đủ và đánh giá các bằng chứng kiểm toán thích hợp. - Tuân thủ pháp luật, nguyên tắc hoạt động, chuẩn mực, quy trình, phương pháp chuyên môn nghiệp vụ kiểm toán nhà nước và các quy định khác có liên quan của Tổng Kiểm toán nhà nước. - Chịu trách nhiệm trước Tổng Kiểm toán nhà nước và trước pháp luật về những bằng chứng, đánh giá, xác nhận, kết luận và kiến nghị của mình. - Thu thập bằng chứng kiểm toán, ghi sổ nhật ký kiểm toán và các tài liệu làm việc khác theo quy định của Tổng Kiểm toán nhà nước. - Giữ bí mật thông tin, tài liệu thu thập được trong quá trình kiểm toán. - Khai báo kịp thời và đầy đủ với người ra quyết định thành lập Đoàn kiểm toán và các tình huống khác làm ảnh hưởng đến tính độc lập của kiểm toán viên nhà nước. Cơ quan Kiểm toán nhà nước thực thi nhiệm vụ của mình chủ yếu thông qua đội ngũ kiểm toán viên nhà nước. Hay nói cách khác đội ngũ kiểm toán viên nhà nước có nhiệm vụ chính là thực hiện chức năng, nhiệm vụ của cơ quan Kiểm toán nhà nước. Vì vậy, lực lượng kiểm toán viên nhà nước mạnh hay yếu là yếu tố ảnh hưởng trực tiếp đến kết quả hoạt động, 8 hiệu lực và hiệu quả cũng như uy tín của cơ quan Kiểm toán nhà nước. Do vậy, để nâng cao chất lượng hoạt động kiểm toán nhà nước đáp ứng yêu cầu của công cuộc đổi mới đất nước, xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN ở nước ta hiện nay phải đặc biệt chú trọng nâng cao chất lượng đội ngũ kiểm toán viên nhà nước. 2.2.3. Đặc điểm của đội ngũ kiểm toán viên nhà nước Thứ nhất, là những người thực thi công vụ, thực hiện nhiệm vụ kiểm toán theo quy định của Nhà nước Đây là đặc điểm cơ bản phân biệt sự khác nhau giữa kiểm toán viên nhà nước với Kiểm toán viên của kiểm toán độc lập (công ty, doanh nghiệp kiểm toán) và Kiểm toán viên nội bộ. Thứ hai, hoạt động mang tính độc lập cao Kiểm toán viên nhà nước độc lập và chỉ tuân theo pháp luật trong quá trình thực hiện kiểm toán và trong việc đưa ra ý kiến nhận xét, đánh giá, kết luận, kiến nghị về những nội dung đã kiểm toán. Thứ ba, là lực lượng lao động có trình độ chuyên môn và phẩm chất đạo đức nghề nghiệp cao - Về trình độ chuyên môn: Kiểm toán là một nghề, do vậy đòi hỏi kiểm toán viên nhà nước phải có trình độ chuyên môn và năng lực hoạt động tương xứng với lĩnh vực mà mình kiểm toán. - Về đạo đức nghề nghiệp: Kiểm toán viên nhà nước phải là người có đạo đức nghề nghiệp thích hợp: Liêm chính; độc lập, khách quan; trình độ, năng lực; kỹ năng chuyên môn; thận trọng nghề nghiệp và bảo mật. Thứ tư, hoạt động của đội ngũ kiểm toán viên nhà nước diễn ra thường xuyên, liên tục trên phạm vi rộng và mang tính phức tạp Do hoạt động kiểm toán phân tán trên địa bàn rộng lớn cả nước nên trung bình mỗi kiểm toán viên nhà nước mỗi năm phải đi công tác xa nhà, xa cơ quan dài ngày khoảng 6 đến 7 tháng. Điều này hàm chứa nhiều rủi ro về chuyên môn, phẩm chất đạo đức của Kiểm toán viên. 2.3. KHÁI NIỆM CHẤT LƯỢNG KIỂM TOÁN VIÊN NHÀ NƯỚC VÀ CHẤT LƯỢNG ĐỘI NGŨ KIỂM TOÁN VIÊN NHÀ NƯỚC 2.3.1. Khái niệm chất lượng kiểm toán viên nhà nước Đối với lĩnh vực kiểm toán nhà nước, do đặc thù nghề nghiệp kiểm toán, chất lượng kiểm toán viên nhà nước là tổng hợp những yếu tố về 9 phẩm chất và giá trị của mỗi kiểm toán viên nhà nước, bao gồm: Phẩm chất chính trị, phẩm chất đạo đức, trình độ chuyên môn, năng lực công tác, kỹ năng nghiệp vụ, khả năng hoàn thành nhiệm vụ. 2.3.2. Khái niệm chất lượng đội ngũ kiểm toán viên nhà nước Mỗi kiểm toán viên nhà nước không tồn tại và hoạt động một cách biệt lập mà phải được đặt trong một chỉnh thể thống nhất của cả đội ngũ kiểm toán viên nhà nước. Vì vậy, quan niệm về chất lượng đội ngũ kiểm toán viên nhà nước phải được đặt trong mối quan hệ biện chứng giữa chất lượng của từng kiểm toán viên nhà nước với chất lượng của cả đội ngũ kiểm toán viên nhà nước. Chất lượng của cả đội ngũ kiểm toán viên nhà nước không phải là sự tập hợp giản đơn về số lượng mà là sự tổng hợp sức mạnh của cả tập thể đội ngũ kiểm toán viên nhà nước. Sức mạnh này bắt nguồn từ năng lực, phẩm chất vốn có bên trong của mỗi kiểm toán viên nhà nước và nó được tăng lên gấp bội bởi tính thống nhất của tổ chức, của sự đào tạo bồi dưỡng và của kỷ luật nghiêm minh. Từ sự phân tích trên đây có thể nêu ra quan niệm chung về chất lượng đội ngũ kiểm toán viên nhà nước như sau: Chất lượng đội ngũ kiểm toán viên nhà nước là tổng thể các tiêu chuẩn được xác định như một chỉnh thể, toàn diện về cơ cấu, số lượng, độ tuổi, trình độ chuyên môn, phẩm chất chính trị, đạo đức, năng lực và kết quả hoàn thành nhiệm vụ của đội ngũ kiểm toán viên nhà nước trong việc thực hiện chức năng, nhiệm vụ của cơ quan Kiểm toán nhà nước. 2.4. CÁC YẾU TỐ CẤU THÀNH CHẤT LƯỢNG ĐỘI NGŨ KIỂM TOÁN VIÊN NHÀ NƯỚC Chất lượng đội ngũ kiểm toán viên nhà nước có thể được xem xét dưới hai góc độ sau: Thứ nhất, chất lượng của cả đội ngũ kiểm toán viên nhà nước với tính cách là một chỉnh thể, thể hiện ở cơ cấu đội ngũ được tổ chức khoa học, có tỷ lệ cân đối, hợp lý về số lượng, giới tính, độ tuổi, trình độ chuyên môn theo các chuyên ngành đào tạo và đây được xem là yếu tố định lượng. Thứ hai, chất lượng đội ngũ kiểm toán viên nhà nước thể hiện thông qua chất lượng của từng bộ phận cấu thành là chất lượng của từng kiểm 10 toán viên nhà nước. Ở góc độ này, chất lượng của đội ngũ kiểm toán viên nhà nước được xác định thông qua chất lượng của từng kiểm toán viên nhà nước, như: Phẩm chất chính trị, đạo đức; trình độ năng lực và khả năng hoàn thành nhiệm vụ và đây được xem là yếu tố định tính. 2.5. CÁC TIÊU CHÍ ĐÁNH GIÁ CHẤT LƯỢNG ĐỘI NGŨ KIỂM TOÁN VIÊN NHÀ NƯỚC Để đánh giá chất lượng đội ngũ kiểm toán viên nhà nước phải dựa vào các tiêu chí sau: 2.5.1. Phẩm chất chính trị, phẩm chất đạo đức của mỗi kiểm toán viên nhà nước Đây là tiêu chí chung về phẩm chất chính trị, phẩm chất đạo đức để đánh giá chất lượng của kiểm toán viên nhà nước. 2.5.2. Số lượng và cơ cấu đội ngũ kiểm toán viên nhà nước Chất lượng của đội ngũ kiểm toán viên nhà nước với tính cách là một chỉnh thể thống nhất được thể hiện ở số lượng và cơ cấu của đội ngũ kiểm toán viên nhà nước. Số lượng kiểm toán viên nhà nước thể hiện sự đầy đủ về nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ kiểm toán. Cơ cấu đội ngũ kiểm toán viên nhà nước là mối quan hệ nội tại của đội ngũ kiểm toán viên nhà nước, thể hiện sự hài hòa, cân đối giữa các ngạch KTV nhà nước, giữa các ngành nghề đào tạo... 2.5.3. Năng lực của Kiểm toán viên nhà nước Đối với kiểm toán viên nhà nước, năng lực hoạt động được xác định bởi nhiều yếu tố, trong đó có các yếu tố cơ bản như: Trình độ văn hóa, trình độ chuyên môn, trình độ lý luận chính trị và tình trạng sức khỏe. 2.5.4. Khả năng hoàn thành nhiệm vụ của kiểm toán viên nhà nước Mức độ hoàn thành nhiệm vụ là một tiêu chí được đánh giá dựa trên sự xem xét tổng thể các tiêu chí khác từ phẩm chất chính trị, đạo đức lối sống cho đến việc thực hiện chức trách nhiệm vụ được giao... Việc KTV hoàn thành nhiệm vụ ở mức độ nào, chiếm tỷ lệ bao nhiêu phần trăm là một tiêu chí, một thước đo quan trọng trong việc đánh giá chất lượng đội ngũ KTV nhà nước. 11 2.6. CÁC YẾU TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN CHẤT LƯỢNG ĐỘI NGŨ KIỂM TOÁN VIÊN NHÀ NƯỚC Các yếu tố ảnh hưởng đến chất lượng đội ngũ kiểm toán viên nhà nước bao gồm tổng thể các yếu tố khách quan và chủ quan; trong đó, yếu tố chủ quan thuộc về cơ quan Kiểm toán nhà nước, bao gồm: 2.6.1. Yếu tố tuyển dụng Tuyển dụng công chức là việc tuyển người làm việc trong biên chế cơ quan nhà nước thông qua thi tuyển hoặc xét tuyển. Đây là khâu rất quan trọng ảnh hưởng tới chất lượng và hiệu quả hoạt động của đội ngũ công chức nói chung và đội ngũ kiểm toán viên nhà nước nói riêng. 2.6.2. Yếu tố đào tạo, bồi dưỡng Đào tạo, bồi dưỡng là quá trình trang bị cho kiểm toán viên nhà nước những kiến thức cần thiết để giúp họ hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao. KTNN cần xây dựng kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng cho từng ngạch kiểm toán viên nhà nước; trong từng ngạch lại có kế hoạch cụ thể cho từng chuyên ngành chuyên sâu khác nhau bảo đảm tính thiết thực và hiệu quả. 2.6.3. Yếu tố sử dụng, quản lý, đánh giá Đây là bước quan trọng nhất trong quy trình sử dụng công chức, vì bố trí sắp xếp công chức một cách hợp lý sẽ vừa phát huy tốt những phẩm chất năng lực của người công chức đối với công việc, lại vừa tạo nên bầu không khí tâm lý lành mạnh tốt đẹp trong từng tập thể lao động. 2.6.4. Yếu tố chế độ, chính sách, đãi ngộ Chế độ, chính sách đối với kiểm toán viên nhà nước là một trong những nhân tố có ý nghĩa quyết định đến chất lượng đội ngũ kiểm toán viên nhà nước. Chế độ, chính sách đãi ngộ ưu tiên đóng vai trò quan trọng trong việc giữ chân kiểm toán viên nhà nước giỏi đồng thời động viên khuyến khích tài năng, sáng tạo, nhiệt tình, trách nhiệm của mỗi kiểm toán viên nhà nước. 2.6.5. Yếu tố khen thưởng và kỷ luật Đây là yếu tố không thể thiếu trong việc động viên, khích lệ đồng thời duy trì nề nếp làm việc và kỷ luật, kỷ cương công vụ trong hoạt động của cơ quan Kiểm toán nhà nước. 12 2.7. KINH NGHIỆM CỦA MỘT SỐ QUỐC GIA TRONG VIỆC NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG ĐỘI NGŨ KIỂM TOÁN VIÊN NHÀ NƯỚC VÀ BÀI HỌC KINH NGHIỆM CHO VIỆT NAM Trên cơ sở nghiên cứu kinh nghiệm xây dựng đội ngũ kiểm toán viên nhà nước của một số nước tiêu biểu trên thế giới (Nhật, Úc, Hàn Quốc, Canada) trên các mặt tuyển dụng, đào tạo bồi dưỡng, sử dụng và chế độ đãi ngộ, luận án đã rút ra một số bài học kinh nghiệm có thể vận dụng ở Việt Nam, đó là: Một là, các nước đều rất chú trọng khâu tuyển dụng công chức vào cơ quan Kiểm toán nhà nước, bởi vì đây chính là khâu đầu tiên quyết định chất lượng và hiệu quả hoạt động của kiểm toán viên nhà nước. Hai là, phải đặc biệt chú ý đến việc bồi dưỡng nghiệp vụ, cả lý luận và thực tiễn, cho đội ngũ nhân viên kiểm toán của cơ quan Kiểm toán nhà nước thông qua các chương trình đào tạo nội bộ, tại trường đại học hay chương trình đào tạo quốc tế. Ba là, để đảm bảo có được đội ngũ kiểm toán viên nhà nước chất lượng cao thì mức lương phải tương xứng với những yêu cầu đặc biệt của nghề này. Bốn là, hoạt động kiểm toán vừa đòi hỏi đội ngũ kiểm toán viên nhà nước về cả trình độ chuyên môn và đạo đức nghề nghiệp; vừa đòi hỏi phải có cơ chế kiểm soát chất lượng và quản lý đạo đức nghề nghiệp chặt chẽ. 13 Chương 3 THỰC TRẠNG CHẤT LƯỢNG ĐỘI NGŨ KIỂM TOÁN VIÊN NHÀ NƯỚC VIỆT NAM 3.1. THỰC TRẠNG CƠ CẤU TỔ CHỨC VÀ KẾT QUẢ HOẠT ĐỘNG CỦA CƠ QUAN KIỂM TOÁN NHÀ NƯỚC VIỆT NAM 3.1.1. Thực trạng cơ cấu tổ chức của cơ quan Kiểm toán nhà nước Việt Nam Ở Việt Nam, cơ quan Kiểm toán nhà nước được thành lập và hoạt động theo Nghị định số 70/CP ngày 11 tháng 7 năm 1994 của Chính phủ về việc thành lập cơ quan Kiểm toán nhà nước, Quyết định số 61/TTg ngày 24 tháng 1 năm 1995 của Thủ tướng Chính phủ về việc ban hành Điều lệ tổ chức và hoạt động của cơ quan Kiểm toán nhà nước. Sau 20 năm hoạt động, đến nay cơ quan Kiểm toán nhà nước đã trở thành một thiết chế hiến định độc lập. Địa vị pháp lý của cơ quan Kiểm toán nhà nước, Tổng Kiểm toán nhà nước được quy định tại Điều 118 của Hiến pháp nước Cộng hòa XHCN Việt Nam. Hiện nay cơ quan Kiểm toán nhà nước đã có bộ máy tổ chức tập trung thống nhất với 32 đơn vị trực thuộc, gồm: 8 đơn vị tham mưu, 8 đơn vị Kiểm toán nhà nước chuyên ngành, 13 đơn vị Kiểm toán nhà nước khu vực, 3 đơn vị sự nghiệp. 3.1.2. Thực trạng về kết quả hoạt động của cơ quan Kiểm toán nhà nước Những kiến nghị của cơ quan Kiểm toán nhà nước trong từng cuộc kiểm toán ngày càng đa dạng, cụ thể và có chất lượng được Quốc hội, Chính phủ, các Bộ, ngành, địa phương sử dụng ngày càng nhiều trong xem xét, giám sát, phê chuẩn dự toán, quyết toán NSNN và thực hiện chính sách, pháp luật; các đơn vị được kiểm toán khắc phục những yếu kém, bất cập, hoàn thiện hệ thống kiểm soát nội bộ, nâng cao hiệu lực, hiệu quả sử dụng tài chính, tài sản công. Trong 5 năm gần đây, hầu hết ngân sách các bộ, cơ quan trung ương, các tỉnh, thành phố, các tập đoàn kinh tế nhà nước đều được kiểm toán ít nhất 2 năm một lần, các thành phố lớn được kiểm toán hàng năm. Trong hoạt động kiểm toán, cơ quan Kiểm toán nhà nước 14 đã tiến hành đồng thời 03 loại hình kiểm toán, trong đó tỷ trọng loại hình kiểm toán hoạt động đang dần được tăng lên. Tổng hợp kết quả kiểm toán 20 năm qua, cơ quan Kiểm toán nhà nước đã thực hiện hàng nghìn cuộc kiểm toán ngân sách trung ương, địa phương, tổng công ty, tập đoàn, các tổ chức tài chính - ngân hàng và các chương trình mục tiêu quốc gia; phát hiện và kiến nghị xử lý tài chính 147.580 tỷ đồng, trong đó tăng thu NSNN 29.148 tỷ đồng, giảm chi NSNN 22.365 tỷ đồng. 3.1.3. Đánh giá về thành tựu, hạn chế của cơ quan Kiểm toán nhà nước trong việc xây dựng cơ cấu tổ chức và thực hiện nhiệm vụ kiểm toán 3.1.3.1. Về thành tựu đạt được: Thứ nhất, về các văn bản pháp lý làm căn cứ cho tổ chức và hoạt động kiểm toán của cơ quan Kiểm toán nhà nước. Cùng với Luật kiểm toán Nhà nước, Luật Thực hành tiết kiệm, chống lãng phí, Luật Phòng, chống tham nhũng,...cũng đã thể chế nhiều nội dung liên quan đến trách nhiệm của cơ quan Kiểm toán nhà nước. Trong phạm vi thẩm quyền, Tổng Kiểm toán nhà nước đã ban hành nhiều văn bản quy phạm pháp luật để quản lý, điều hành hoạt động kiểm toán theo hướng công khai, minh bạch. Uỷ ban Thường vụ Quốc hội đã phê duyệt Chiến lược phát triển Kiểm toán nhà nước đến năm 2020. Đặc biệt, Hiến pháp năm 1992 sửa đổi có hiệu lực từ 01/01/2014 đã bổ sung Điều 118 để Hiến định địa vị pháp lý của cơ quan Kiểm toán nhà nước và Tổng Kiểm toán nhà nước. Thứ hai, về tổ chức bộ máy và nguồn nhân lực của cơ quan Kiểm toán nhà nước. So với 4 đơn vị trực thuộc và 60 công chức, kiểm toán viên từ ngày đầu thành lập, đến nay cơ quan Kiểm toán nhà nước đã có bước tiến vượt bậc với cơ cấu tổ chức hoàn thiện, mô hình quản lý tập trung thống nhất với gần 2.000 công chức, kiểm toán viên được đào tạo bài bản và có bản lĩnh chính trị, đạo đức nghề nghiệp. Thứ ba, hoạt động kiểm toán của cơ quan Kiểm toán nhà nước ngày càng có uy tín trước Đảng, Nhà nước và nhân dân đối với việc góp phần làm lành mạnh nền tài chính quốc gia; tham gia ý kiến trong quá trình xây dựng dự toán ngân sách nhà nước. 15 3.1.3.2. Về hạn chế, bất cập Thứ nhất, quy mô hoạt động kiểm toán của cơ quan Kiểm toán nhà nước còn hạn chế so với yêu cầu kiểm tra, kiểm soát các đối tượng sử dụng ngân sách, tiền và tài sản nhà nước theo chức năng, nhiệm vụ được giao, nhất là lĩnh vực kiểm toán NSNN. Hiện nay, hàng năm cơ quan Kiểm toán nhà nước mới kiểm toán được 60% số tỉnh, thành phố trực thuộc Trung - ương và khoảng 60% số bộ, cơ quan Trung ương, nhưng trong mỗi tỉnh (bộ) chỉ kiểm toán được 50% số huyện (đơn vị dự toán trực thuộc bộ) và mỗi huyện chỉ kiểm toán được 2 đến 3 xã, quy mô chọn mẫu trong từng cuộc kiểm toán cũng còn rất hạn chế. Thứ hai, chất lượng kiểm toán và tiến độ kiểm toán còn khoảng cách so với yêu cầu của Luật kiểm toán Nhà nước, chưa giải đáp thích đáng các vấn đề bức xúc về những hiện tượng tiêu cực cũng như hiệu quả quản lý, sử dụng ngân sách, tiền và tài sản nhà nước. Thứ ba, hiệu lực kiểm toán chưa cao, việc thực hiện các kết luận, kiến nghị kiểm toán, nhất là việc xử lý trách nhiệm các tổ chức, cá nhân đối với các sai phạm chưa đầy đủ, nghiêm minh và kịp thời. Hoạt động kiểm toán chưa phát hiện được nhiều vụ việc tham nhũng để kiến nghị xử lý theo pháp luật. 3.2. THỰC TRẠNG CHẤT LƯỢNG ĐỘI NGŨ KIỂM TOÁN VIÊN CỦA CƠ QUAN KIỂM TOÁN NHÀ NƯỚC VIỆT NAM 3.2.1. Thực trạng về phẩm chất chính trị và phẩm chất đạo đức của kiểm toán viên nhà nước Đa số kiểm toán viên nhà nước có phẩm chất đạo đức tốt, chấp hành nghiêm chỉnh đường lối chủ trương của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước, có tinh thần trách nhiệm cao, ý thức cầu tiến, ham học hỏi nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ, có ý thức tu dưỡng, rèn luyện, có ý thức tổ chức kỷ luật, chấp hành tốt quy định của pháp luật, nội quy, quy chế và kỷ luật công tác của ngành. Tuy nhiên, trên thực tế đã cho thấy một bộ phận kiểm toán viên nhà nước có biểu hiện suy thoái về tư tưởng, đạo đức, thiếu gương mẫu trong tu dưỡng, rèn luyện đạo đức nghề nghiệp, nhũng nhiễu, vòi vĩnh, gây phiền hà cho đơn vị được kiểm toán; một số kiểm toán viên nhà nước đã có hành vi vi phạm pháp luật đã bị xử lý kỷ 16 luật về đáng, chính quyền, thậm chí bị xử lý về hình sự đã ảnh hưởng đến uy tín của ngành. 3.2.2. Thực trạng về số lượng và cơ cấu của đội ngũ kiểm toán viên nhà nước Đến ngày 30/12/2014 tổng số cán bộ, công chức, viên chức của cơ quan Kiểm toán nhà nước là 1.856 người; trong đó, số công chức giữ ngạch kiểm toán viên là: 1.541 (chiếm 83%). - Về cơ cấu kiểm toán viên theo bậc: kiểm toán viên cao cấp: 12 người (0,77%), kiểm toán viên chính: 310 người (20,1%), kiểm toán viên: 954 người (61,9%), kiểm toán viên dự bị: 265 người (17,1%). - Về cơ cấu kiểm toán viên theo chuyên ngành đào tạo: Kinh tế: 862 người (55,9%); kỹ thuật: 576 người (37,4%); các chuyên ngành khác: 103 người (6,7%). - Về cơ cấu kiểm toán viên theo giới tính: Kiểm toán viên là nam giới: 1002 người (65,7%); Kiểm toán viên là nữ giới: 539 người (34,3%). - Về cơ cấu kiểm toán viên theo độ tuổi: Từ 30 tuổi trở xuống: 362 người (23,5%); từ 30 tuổi đến dưới 50 tuổi: 1017 người (65,9%); từ 50 trở lên: 162 người (10,5%). 100% kiểm toán viên nhà nước có trình độ đại học trở lên, một số kiểm toán viên nhà nước có trình độ thạc sỹ, tiến sỹ, nhiều kiểm toán viên nhà nước có từ 2 đến 3 bằng đại học được đào tạo ở trong nước và nước ngoài. Tuy nhiên, đội ngũ kiểm toán viên nhà nước còn thiếu về số lượng, cơ cấu giữa các ngành nghề và giữa các cấp bậc chưa phù hợp, cụ thể: - Về số lượng: Số lượng kiểm toán viên của cơ quan Kiểm toán nhà nước chưa tương xứng với yêu cầu công việc và chức năng, nhiệm vụ được giao và còn quá mỏng so với các nước trong khu vực và trên thế giới: Việt Nam có dân số hơn 90 triệu người, nhưng cơ quan Kiểm toán nhà nước chỉ có 1.541 kiểm toán viên (bằng 0,18%o), trong khi Trung Quốc có: 80.000 kiểm toán viên (bằng 0,59%o so với tổng dân số và gấp gần 3,3 lần so với Việt Nam); Ấn độ: 65.000 (bằng 0,52%o so với tổng dân số và gấp gần 3 lần so với Việt Nam); Thái Lan: 2.300 (bằng 0,35%o so với tổng dân số và 17 gấp gần 2 lần so với Việt Nam); Malaixia: 3.500 (bằng 1,2%o so với tổng dân số và gấp gần 6 lần so với Việt Nam)... - Về cơ cấu chuyên môn được đào tạo: Cơ cấu ngành nghề chuyên môn của đội ngũ kiểm toán viên nhà nước vẫn còn thiên về lĩnh vực tài chính - kế toán; các ngành nghề khác như: xây dựng, kiến trúc, giao thông, thuỷ lợi, luật, một số ngành kỹ thuật khác vẫn còn thiếu so với yêu cầu khi mà trong giai đoạn hiện nay cơ quan Kiểm toán nhà nước tập trung nhiều vào kiểm toán các dự án đầu tư xây dựng cơ bản, các chương trình mục tiêu quốc gia, thực hiện các cuộc kiểm toán hoạt động. - Về cơ cấu bậc kiểm toán viên nhà nước: Cơ cấu giữa các bậc kiểm toán viên nhà nước chưa phù hợp, số lượng kiểm toán viên dự bị chiếm quá nhiều, kiểm toán viên chính và kiểm toán viên cao cấp chiếm tỷ lệ thấp, nghĩa là còn có tình trạng thừa kiểm toán viên ở bậc này, thiếu kiểm toán viên ở bậc khác. 3.2.3. Thực trạng về năng lực của kiểm toán viên nhà nước Về trình độ chuyên môn: Kiểm toán viên nhà nước chủ yếu được đào tạo tại các trường đại học công lập của Nhà nước, như: Học viện Tài chính, Học viện Ngân hàng, Đại học Kinh tế quốc dân, Đại học quốc gia, Đại học Xây dựng, Đại học Thủy lợi, Đại học Bách khoa,... Kết quả khảo sát cho thấy 100% kiểm toán viên nhà nước có trình độ đại học trở lên, trong đó, có 01 giáo sư, 05 phó giáo sư, 27 tiến sỹ, 406 thạc sỹ, nhiều kiểm toán viên có hai bằng đại học; mỗi năm số kiểm toán viên có trình độ đào tạo sau đại học ngày càng tăng cao. Về trình độ lý luận chính trị và đạo đức nghề nghiệp: Đến nay, 100% kiểm toán viên nhà nước có trình độ trung cấp lý luận chính trị; trong đó, có 320 người chiếm tỷ lệ 22,6% có trình độ cao cấp hoặc cử nhân chính trị. Về tình trạng sức khỏe: Kiểm toán viên nhà nước có độ tuổi phổ biến từ 30 tuổi đến 40 tuổi (chiếm 72%). Với cơ cấu độ tuổi như vậy, kiểm toán viên nhà nước đang ở giai đoạn đỉnh cao về thể lực và nhiệt huyết công tác. Về kỹ năng làm việc: Đa số các kiểm toán viên nhà nước có kỹ năng xây dựng chương trình kiểm toán, kỹ năng thu thập và đánh giá các bằng chứng kiểm toán, đưa ra ý kiến đánh giá, xác nhận về nội dung kiểm toán 18 được phân công thực hiện. kiểm toán viên nhà nước giữ vai trò trưởng đoàn, phó trưởng đoàn kiểm toán, tổ trưởng tổ kiểm toán có khả năng xây dựng và tổ chức thực hiện kế hoạch kiểm toán của đoàn kiểm toán, của tổ kiểm; có khả năng phân tích, tổng hợp và xử lý những vấn đề khó khăn, phức tạp trong hoạt động kiểm toán. Tuy nhiên, trình độ chuyên môn của đội ngũ kiểm toán viên nhà nước nhìn chung còn bất cập so với yêu cầu nhiệm vụ ngày càng tăng của cơ quan Kiểm toán nhà nước. Trình độ chuyên môn của đội ngũ kiểm toán viên nhà nước không đồng đều; số lượng kiểm toán viên nhà nước đạt trình độ kiểm toán quốc tế còn rất ít. Trình độ tin học, ngoại ngữ của đội ngũ kiểm toán viên nhà nước còn bất cập so với yêu cầu hội nhập quốc tế về lĩnh vực kiểm toán nhà nước. 3.2.4. Thực trạng về mức độ hoàn thành nhiệm vụ của đội ngũ kiểm toán viên nhà nước Nhìn chung, chất lượng kiểm toán viên nhà nước và đội ngũ kiểm toán viên nhà nước còn nhiều hạn chế mặc dù hầu hết có kinh nghiệm thực tiễn, nhưng chưa được đào tạo một cách cơ bản và đầy đủ về nhiệm vụ kiểm toán và các kiến thức cần thiết của nền kinh tế thị trường, cũng như trình độ phân tích tổng hợp, ngoại ngữ, tin học; kiến thức về quản lý nhà nước và thủ tục hành chính còn yếu. 3.2.5. Đáng giá thực trạng các yếu tố ảnh hưởng đến chất lượng đội ngũ kiểm toán viên nhà nước 3.2.5.1. Thành công và những ưu điểm chủ yếu - Về công tác tuyển dụng: Cơ quan Kiểm toán nhà nước đã xây dựng và thực hiện Đề án tuyển dụng kiểm toán viên nhà nước; kết quả là giai đoạn 2009-2014, cơ quan Kiểm toán nhà nước đã tuyển dụng được 495 người, trong đó thu hút được 23 nhân tài là sinh viên xuất sắc, thủ khoa từ các trường đại học trong nước và nước ngoài. - Về công tác quy hoạch: Cơ quan Kiểm toán nhà nước đã hoàn thành công tác quy hoạch cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp của cơ quan Kiểm toán nhà nước giai đoạn 2005 - 2010, giai đoạn 2011 - 2016 và giai đoạn 2016 - 2021. 19 - Về công tác đề bạt, bổ nhiệm: Trên cơ sở công tác quy hoạch cán bộ, cơ quan Kiểm toán nhà nước đã đề nghị và được Ủy ban Thường vụ Quốc hội ra nghị quyết bổ nhiệm 05 Phó Tổng Kiểm toán nhà nước; Tổng Kiểm toán nhà nước bổ nhiệm hàng trăm lãnh đạo cấp vụ, cấp phòng và bổ nhiệm hơn 1.000 kiểm toán viên nhà nước, nhằm đáp ứng yêu cầu phát triển của ngành và tiến trình cải cách hành chính. - Về công tác luân chuyển, chuyển đổi vị trí công tác: Tổng số kiểm toán viên nhà nước các cấp thực hiện luân chuyển, điều động và chuyển đổi vị trí công tác tính đến nay là 173 người (năm 2012 là 89, năm 2013 là 64 người, 6 tháng năm 2014 là 20 người). Hiện nay đang xây dựng Đề án điều động, luân chuyển và chuyển đổi vị trí công tác giai đoạn 2014 - 2017 để thực hiện trong giai đoạn 2014 - 2017 theo Chiến lược phát triển cơ quan Kiểm toán nhà nước giai đoạn 2013 - 2017. - Về công tác đào tạo, bồi dưỡng: Đào tạo được thực hiện qua nhiều hình thức: lý thuyết trên lớp, tham gia thực hiện một số cuộc kiểm toán, mời giảng v

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdftt_chat_luong_doi_ngu_kiem_toan_vien_cua_kiem_toan_nha_nuoc_2591_1917153.pdf
Tài liệu liên quan