Tóm tắt Luận án Đảng bộ tỉnh Quảng Ninh lãnh đạo phát triển nguồn nhân lực từ năm 2005 đến năm 2015

Để phát triển NNL nhằm đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của sự nghiệp CNH, HĐH, Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh Quảng Ninh lần thứ XII (12/2005) đã đưa ra mục tiêu cụ thể phát triển NNL trong 5 năm từ 2005 đến 2010 là: Thực hiện có kết quả chương trình giải quyết việc làm, tạo nhiều việc làm mới, nhất là trong nông nghiệp và nông thôn. Phấn đấu đến năm 2010 tỷ lệ thời gian lao động ở nông thôn đạt 85%; giảm tỷ lệ lao động thất nghiệp ở khu vực thành thị xuống dưới 4,5%; bình quân mỗi năm tạo việc làm mới cho 2,4 vạn lao động. Thực hiện chuyển dịch mạnh mẽ cơ cấu lao động theo hướng tăng nhanh lao động khu vực phi nông nghiệp. Đến năm 2010 lao động khu vực nông, lâm, ngư nghiệp còn khoảng 30-35%, khu vực công nghiệp, xây dựng 30-32%, khu vực dịch vụ 35-38%. Có kế hoạch đào tạo và đào tạo lại đội ngũ cán bộ quản lý, khoa học kỹ thuật, công nhân kỹ thuật. Tỷ lệ lao động được đào tạo nghề đạt từ 30-35% vào năm 2010 và 35-40% vào năm 2020. Đa dạng hóa các loại hình đào tạo. Đào tạo công chức nhà nước các cấp, đào tạo các nhà doanh nghiệp.

doc24 trang | Chia sẻ: trungkhoi17 | Lượt xem: 383 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tóm tắt Luận án Đảng bộ tỉnh Quảng Ninh lãnh đạo phát triển nguồn nhân lực từ năm 2005 đến năm 2015, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ộ khác nhau. Trong lý luận về lực lượng sản xuất, con người được coi là lực lượng sản xuất hàng đầu, là yếu tố quan trọng nhất, quyết định sự vận động và phát triển của lực lượng sản xuất, quyết định quá trình sản xuất và do đó, quyết định đến năng suất lao động và tiến bộ xã hội. Ở đây, con người được xem xét từ góc độ là lực lượng lao động cơ bản của xã hội. Tổ chức Lao động quốc tế (ILO) đưa ra quan niệm về NNL như sau: Theo nghĩa rộng, NNL là nguồn cung cấp sức lao động cho sản xuất xã hội, cung cấp sức lực con người cho sự phát triển. Theo nghĩa hẹp, NNL là khả năng lao động của xã hội, là nguồn lực cho sự phát triển KT-XH, bao gồm các nhóm dân cư trong độ tuổi lao động, có khả năng tham gia vào quá trình lao động, sản xuất xã hội, tức là toàn bộ cá nhân có thể tham gia vào quá trình lao động, là tổng thể các yếu tố về thể lực, trí lực, tâm lực được huy động vào quá trình lao động Từ xem xét dưới các góc độ khác nhau có thể có những khái niệm khác nhau về NNL, theo tác giả, NNL là tổng hòa các yếu tố về số lượng, cơ cấu và chất lượng nhân lực (trí lực, thể lực, tâm lực) đã, đang và sẽ tạo ra năng lực, sức mạnh để huy động vào quá trình thúc đẩy phát triển KT-XH, đảm bảo quốc phòng, an ninh. Theo đó, số lượng NNL là tổng số người lao động đang và sẽ tham gia vào quá trình phát triển KT- XH. Một quốc gia nếu không có số lượng nhân lực lao động cần thiết thì không thể phát huy sức mạnh của NNL trong quá trình phát triển KT- XH. Chất lượng NNL là tổng hợp của nhiều yếu tố tạo nên nhưng được đặc trưng bởi các yếu tố cơ bản là: thể lực, trí lực và tâm lực của từng người lao động và cả cộng đồng nhân lực. Cơ cấu NNL là cơ cấu về dân số, độ tuổi, giới tính; cơ cấu lao động trong các ngành, các lĩnh vực; cơ cấu về trình độ học vấn, chuyên môn nghiệp vụ. Các yếu tố: số lượng, chất lượng, cơ cấu có mối quan hệ chặt chẽ với nhau, tạo thành NNL. Số lượng đông, chất lượng cao mà cơ cấu nhân lực không hợp lý thì hiệu quả phát huy NNL trong phát triển KT - XH sẽ hạn chế. Trong mối quan hệ biện chứng, các yếu tố này tác động, chi phối lẫn nhau, tạo thành sức mạnh tổng hợp của NNL đối với quá trình phát triển KT - XH. 2.1.1.2. Khái niệm phát triển nguồn nhân lực Hiện nay có nhiều cách hiểu khác nhau về phát triển NNL. Theo tác giả phát triển NNL là quá trình làm biến đổi về số lượng, chất lượng và cơ cấu NNL ngày càng đáp ứng tốt hơn yêu cầu phát triển KT - XH, đảm bảo quốc phòng, an ninh. Theo đó, sự lãnh đạo phát triển NNL là tác động của chủ thể lãnh đạo bằng những chủ trương, chính sách, định hướng lớn nhằm biến đổi về số lượng, chất lượng và cơ cấu NNL. Trong quá trình phát triển, sự tăng lên về số lượng nhân lực có ý nghĩa rất quan trọng, là cơ sở đáp ứng yêu cầu phát triển ngành nghề, lĩnh vực trong từng giai đoạn nhất định. Phát triển chất lượng nhân lực là sự tăng lên không ngừng về thể lực, trí lực và tâm lực của người lao động (vừa với tư cách là cá nhân, vừa với tư cách là cộng đồng, tập thể người lao động). Phát triển về cơ cấu là quá trình xây dựng cơ cấu NNL khoa học, hợp lý, làm cơ sở để phát triển về chất NNL, làm thay đổi cơ cấu về giới, độ tuổi, trình độ của nhân lực ở các vùng, miền, khu vực khác nhau một cách phù hợp nhằm huy động sức mạnh từ NNL này. Sự thay đổi về cơ cấu theo hướng khoa học và hợp lý là yếu tố góp phần quan trọng đảm bảo sự phát triển bền vững của NNL, góp phần phát triển bền vững nền kinh tế đất nước, địa phương. 2.1.2. Điều kiện tự nhiên, kinh tế, văn hóa - xã hội của tỉnh Quảng Ninh 2.1.2.1 Điều kiện tự nhiên Quảng Ninh là một tỉnh biên giới, miền núi và hải đảo, nằm ở phía Đông Bắc Việt Nam, là cửa ngõ giao thông quan trọng với nhiều cửa khẩu biên giới, với hệ thống cảng biển thuận tiện, nhất là cửa khẩu quốc tế Móng Cái, cảng nước sâu Cái Lân, Quảng Ninh có điều kiện giao thương thuận lợi với các nước Đông Bắc Á và các nước thuộc khu vực Tiểu vùng Mê Kông mở rộng, là điểm kết nối quan trọng của Khu vực mậu dịch tự do ASEAN - Trung Quốc. Là tỉnh có diện tích đất tự nhiên là 6.102km2, có đường biên giới trên bộ (118,8 km) và trên biển (gần 190 km) giáp với Trung Quốc, có ba cửa khẩu lớn (Móng Cái, Hoành Mô, Bắc Phong Sinh) tiếp giáp với vùng duyên hải Nam Trung Quốc rộng lớn; có đường bờ biển dài 250 km, có 2.077 hòn đảo lớn nhỏ, có trên 40.000 hécta bãi triều và hơn 20.000 hécta diện tích eo biển và vịnh. 2.1.2.2. Điều kiện kinh tế Quảng Ninh là tỉnh có tỷ trọng công nghiệp, dịch vụ chiếm tỷ lệ lớn trong cơ cấu kinh tế, tỷ trọng nông nghiệp gần như không đáng kể. Sau hơn 20 năm đổi mới, Quảng Ninh đã đạt được những thành tựu quan trọng, kinh tế tiếp tục phát triển toàn diện, duy trì tốc độ tăng trưởng cao, tiềm lực, quy mô nền kinh tế tăng mạnh. Giai đoạn 2005 - 2010, tăng trưởng kinh tế của tỉnh duy trì ở mức hợp lý, tốc độ tăng trưởng GDP bình quân 5 năm đạt 12,7%/năm (cả nước là 7%), cao gần gấp đôi so với bình quân chung cả nước và nằm trong nhóm các địa phương có tốc độ tăng trưởng cao nhất cả nước. Quy mô GDP giá hiện hành năm 2010 gấp 1,8 lần năm 2005. Tổng thu ngân sách nhà nước trên địa bàn 5 năm ước đạt 69.869 tỷ đồng, tăng bình quân 29,4%/năm, là một trong 6 địa phương có số thu ngân sách cao nhất toàn quốc. 2.1.2.3 Về văn hóa - xã hội Quảng Ninh là tỉnh có dân số không cao so với bình quân chung của cả nước, theo điều tra dân số thời điểm 1/4/2009, dân số Quảng Ninh là 1.144.988 người đứng thứ 30/63 tỉnh thành trong toàn quốc, đứng thứ 6 trong vùng đồng bằng sông Hồng. Với 22 dân tộc khác nhau, trong đó, có 5 dân tộc có dân số trên 1.000 người, tỉnh Quảng Ninh là “nơi hội tụ, giao thoa, thống nhất trong đa dạng của nền văn minh Sông Hồng”, các dân tộc phân bố đều trên lãnh thổ của Tỉnh, có tinh thần đoàn kết, chung sống hòa thuận tạo điều kiện thuận lợi trong việc cố kết cộng đồng dân cư của toàn tỉnh. 2.1.3. Thực trạng nguồn nhân lực ở Quảng Ninh trước năm 2005 Theo thống kê, năm 2005 dân số tỉnh Quảng Ninh là 1.096.112 người đứng thứ 30/63 tỉnh, thành trong toàn quốc, đứng thứ 6 trong vùng đồng bằng sông Hồng, có 702.121 người trong độ tuổi lao động, chiếm 64,1%, số lao động có việc làm 533.730 người đạt 76%. Đây là nguồn lực quan trọng góp phần phát triển KT-XH của tỉnh. Sự gia tăng cả về số lượng và chất lượng NNL đóng vai trò quyết định, đưa KT-XH của tỉnh phát triển nhanh, cơ cấu kinh tế chuyển dịch mạnh theo hướng tăng tỷ trọng công nghiệp, dịch vụ, giảm tỷ trọng nông nghiệp, điều đó đưa đến sự thay đổi quan trọng trong cơ cấu và chất lượng NNL. Tuy nhiên, NNL ở Quảng Ninh trước năm 2005 cũng bộc lộ nhiều điểm hạn chế: Công tác quy hoạch chưa theo kịp tiến trình phát triển, quản lý quy hoạch còn yếu, điều chỉnh quy hoạch chưa kịp thời. Đặc biệt là quy hoạch phát triển NNL chưa được chú ý đúng mức. Nhu cầu việc làm đối với lực lượng lao động trẻ trong tỉnh đang bức xúc, còn có tình trạng sinh viên đã tốt nghiệp đại học, nhưng chưa tìm kiếm được việc làm; việc bố trí công tác cho số sinh viên này thường gặp khó khăn do chất lượng và ngành nghề đào tạo không phù hợp với nhu cầu sử dụng của các đơn vị (đây là biểu hiện của công tác hướng nghiệp chưa tốt). Sự phối hợp giữa các ngành, đoàn thể từ tỉnh đến cơ sở trong công tác giải quyết việc làm và dạy nghề chưa được phát huy, hiệu quả thấp. Việc đào tạo ở một số lĩnh vực còn trong tình trạng tự phát, thiếu quy hoạch và chưa sát nhu cầu sử dụng; cơ cấu đào tạo và sử dụng còn mất cân đối giữa các ngành, các vùng; chất lượng đào tạo, bồi dưỡng còn thấp; tỷ lệ đào tạo giữa các ngành khoa học tự nhiên, kỹ thuật với khoa học xã hội chưa hợp lý so với định hướng phát triển và cơ cấu kinh tế của tỉnh. Vấn đề đào tạo sau đại học cũng trong tình trạng tự phát, thiếu quy hoạch và chưa thực sự xuất phát từ nhu cầu sử dụng. 2.1.4. Yêu cầu của thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa tích cực chủ động hội nhập quốc tế và chủ trương của Đảng về phát triển nguồn nhân lực 2.1.4.1. Yêu cầu của thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa tích cực chủ động hội nhập quốc tế Thực tiễn của nước ta và các nước đi trước đã chứng minh, quá trình CNH, HĐH diễn ra với tốc độ nhanh hay chậm, hiệu quả cao hay thấp phụ thuộc vào nhiều yếu tố nhưng trước hết tuỳ thuộc vào chất lượng NNL, bởi nền kinh tế thế giới đã phát triển theo hướng kinh tế tri thức, yếu tố tri thức đã chiếm tỷ trọng lớn trong giá trị sản phẩm, tỷ lệ lao động giản đơn trong sản phẩm chỉ còn 1/10, trí tuệ được coi là thước đo trình độ CNH và động lực của quá trình phát triển. Vì vậy, Việt Nam cũng như tất cả các nước trên thế giới đều quan tâm tới việc đầu tư phát triển NNL. 2.1.4.2. Chủ trương của Đảng về phát triển nguồn nhân lực Xuất phát từ nhận thức khách quan, trên nền tảng của chủ nghĩa Mác - Lênin, từ khi ra đời, để thực hiện sứ mệnh lãnh đạo cách mạng Việt Nam, Đảng Cộng sản Việt Nam luôn nhận thức rõ vai trò quan trọng của vấn đề con người. Tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII (1996), lần đầu tiên thuật ngữ “nguồn lực con người” được sử dụng trong văn kiện của Đảng: “Lấy việc phát huy nguồn lực con người làm yếu tố cơ bản cho sự phát triển nhanh và bền vững”. Sự nghiệp CNH, HĐH được Đại hội VIII của Đảng khẳng định với tính chất là chiến lược thì vấn đề phát triển NNL càng được chú trọng. Đại hội khẳng định: “Nâng cao dân trí, bồi dưỡng và phát huy nguồn lực to lớn của con người Việt Nam là nhân tố quyết định thắng lợi của công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại”. Tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX (2001), vấn đề “nguồn lực con người” tiếp tục được Đảng ta khẳng định, trong đó nhấn mạnh “phát huy nguồn lực con người - yếu tố cơ bản để phát triển xã hội, tăng trưởng kinh tế nhanh và bền vững” . Tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X (2006), Đảng đã chỉ rõ để thực hiện thắng lợi công cuộc đẩy mạnh CNH, HĐH gắn với kinh tế tri thức phải phát triển NNL chất lượng cao, tức là chuyển hướng chiến lược phát triển NNL theo chiều rộng sang chiều sâu, coi trọng và gia tăng nhanh chất lượng của NNL: “phát triển nhanh nguồn nhân lực chất lượng cao, nhất là chuyên gia đầu ngành. Chú trọng phát hiện, bồi dưỡng, trọng dụng nhân tài; nhanh chóng xây dựng cơ cấu nguồn nhân lực hợp lý về ngành nghề, trình độ đào tạo, dân tộc, vùng miền”. 2.2. Chủ trương của Đảng bộ tỉnh Quảng Ninh về phát triển nguồn nhân lực (2005 - 2010) 2.2.1. Quan điểm phát triển nguồn nhân lực của Đảng bộ tỉnh Quảng Ninh Một là, phát triển và nâng cao chất lượng NNL là một trong những khâu đột phá, là nhân tố quyết định sự phát triển KT-XH tỉnh, là trách nhiệm của cả hệ thống chính trị và nhân dân các dân tộc tỉnh Quảng Ninh, nhằm huy động nguồn lực toàn xã hội để xây dựng, phát triển NNL của tỉnh có chất lượng, đáp ứng tốt yêu cầu trước mắt và lâu dài. Hai là, phát triển NNL có trọng tâm, trọng điểm, tập trung đào tạo lao động chất lượng cao, gắn với bồi dưỡng, tập huấn thường xuyên làm khâu đột phá; nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý, công chức, viên chức, lao động đáp ứng yêu cầu sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế. Ba là, có chính sách, cơ chế hợp lý phát triển, bồi dưỡng, thu hút cán bộ chuyên môn, khoa học, công nghệ có trình độ cao về công tác tại tỉnh; ưu tiên các ngành, lĩnh vực đáp ứng yêu cầu phát triển KT-XH của tỉnh. Đào tạo đội ngũ lao động có tay nghề cao, có năng lực cạnh tranh tìm việc làm, gắn với các chương trình phát triển KT-XH của tỉnh, đặc biệt chú ý đào tạo công nhân lành nghề cho các khu, cụm công nghiệp và lao động xuất khẩu. 2.2.2. Mục tiêu phát triển nguồn nhân lực Để phát triển NNL nhằm đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của sự nghiệp CNH, HĐH, Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh Quảng Ninh lần thứ XII (12/2005) đã đưa ra mục tiêu cụ thể phát triển NNL trong 5 năm từ 2005 đến 2010 là: Thực hiện có kết quả chương trình giải quyết việc làm, tạo nhiều việc làm mới, nhất là trong nông nghiệp và nông thôn. Phấn đấu đến năm 2010 tỷ lệ thời gian lao động ở nông thôn đạt 85%; giảm tỷ lệ lao động thất nghiệp ở khu vực thành thị xuống dưới 4,5%; bình quân mỗi năm tạo việc làm mới cho 2,4 vạn lao động. Thực hiện chuyển dịch mạnh mẽ cơ cấu lao động theo hướng tăng nhanh lao động khu vực phi nông nghiệp. Đến năm 2010 lao động khu vực nông, lâm, ngư nghiệp còn khoảng 30-35%, khu vực công nghiệp, xây dựng 30-32%, khu vực dịch vụ 35-38%. Có kế hoạch đào tạo và đào tạo lại đội ngũ cán bộ quản lý, khoa học kỹ thuật, công nhân kỹ thuật. Tỷ lệ lao động được đào tạo nghề đạt từ 30-35% vào năm 2010 và 35-40% vào năm 2020. Đa dạng hóa các loại hình đào tạo. Đào tạo công chức nhà nước các cấp, đào tạo các nhà doanh nghiệp. 2.2.3. Nhiệm vụ, giải pháp phát triển nguồn nhân lực Trên cơ sở mục tiêu phát triển NNL trong 5 năm 2005 - 2010, Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh Quảng Ninh lần thứ XII (12/2005) đã xác định rõ nhiệm vụ và giải pháp phát triển NNL trong giai đoạn 2005 - 2010: Thứ nhất, phát triển và nâng cao chất lượng, hiệu quả giáo dục - đào tạo một cách toàn diện để đáp ứng nhu cầu học tập của nhân dân, nâng cao dân trí và góp phần đào tạo NNL cho sự nghiệp CNH, HĐH Thứ hai, đẩy mạnh xã hội hóa trong lĩnh vực giáo dục đào tạo. Củng cố và hiện đại hóa cơ sở vật chất các trường dạy nghề, trung học, cao đẳng hiện có theo hướng tập trung quy mô lớn vào một số đầu mối. Phát triển mạnh các dịch vụ giáo dục - đào tạo, phấn đấu để Quảng Ninh trở thành một trong những trung tâm đào tạo NNL của Vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ. Có chính sách khuyến khích để thành lập Trường đại học và xây dựng các cơ sở giáo dục - đào tạo chất lượng cao trên địa bàn tỉnh. Thứ ba, tiếp tục thực hiện và bổ sung chính sách ưu đãi thu hút nhân tài về công tác tại tỉnh và hỗ trợ khuyến khích cán bộ, công chức học tập nâng cao trình độ. Thứ tư, có cơ chế khuyến khích phát triển hệ thống dạy nghề, đa dạng hóa các loại hình dạy nghề, đổi mới, sắp xếp lại các cơ sở dạy nghề và trung tâm giới thiệu việc làm theo hướng hiện đại hóa để học sinh khi ra trường thích ứng được yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hóa... Thực hiện chuyển dịch mạnh mẽ cơ cấu lao động. Thực hiện chuyển dịch mạnh mẽ cơ cấu lao động theo hướng tăng nhanh lao động ở khu vực phi nông nghiệp. Thứ năm, cơ cấu lại đội ngũ cán bộ, công chức và tiếp tục đào tạo, bồi dưỡng theo yêu cầu nâng cao chất lượng cả về phẩm chất đạo đức và năng lực công tác để đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong điều kiện hội nhập. Xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức thực sự là công bộc của dân... Thứ sáu, hàng năm phải có kế hoạch khảo sát, đánh giá đúng thực trạng và nhu cầu nhân lực ở các ngành, địa phương, đơn vị, các khu công nghiệp để xây dựng kế hoạch đào tạo phù hợp, bồi dưỡng NNL sát với nhu cầu thực tiễn. 2.3. Đảng bộ tỉnh Quảng Ninh chỉ đạo phát triển nguồn nhân lực (2005 - 2010) 2.3.1. Xây dựng quy hoạch phát triển nguồn nhân lực Nhận thức rõ vai trò của công tác quy hoạch nói chung, đặc biệt là quy hoạch phát triển NNL, ngày 15-8-2005, UBND tỉnh đã ban hành Quyết định số 2872/QĐ-UBND phê duyệt “Quy hoạch phát triển nguồn lao động Quảng Ninh thời kỳ 2005-2010 và định hướng tới năm 2020”, trên cơ sở đánh giá đúng thực trạng nguồn lao động từ năm 1996 đến năm 2004, dự báo nhu cầu sử dụng và khả năng cung cấp nguồn lao động đến năm 2010 từ đó xây dựng quy hoạch phát triển NNL phù hợp, tỉnh Quảng Ninh xác định mục tiêu chung phát triển NNL Quảng Ninh giai đoạn 2005-2010 và định hướng 2020. 2.3.2. Đào tạo, bồi dưỡng phát triển nguồn nhân lực 2.3.2.1. Đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ, công chức trong các cơ quan hành chính sự nghiệp Nhận thức rõ vị trí, vai trò của đội ngũ cán bộ cơ sở trong hệ thống chính trị (HTCT) giữ vai trò quyết định năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của tổ chức cơ sở đảng, quản lý của chính quyền. Các cấp uỷ, chính quyền trong tỉnh đã tập trung chỉ đạo và đầu tư xây dựng đội ngũ cán bộ. Ngay sau Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XII, Ban chấp hành (BCH) Đảng bộ tỉnh đã ban hành Chương trình hành động số 06-CTr/TƯ ngày 25-9-2006 thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc và Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XII trong đó xác định nhiệm vụ: Thực hiện có hiệu quả chương trình cải cách hành chính, thực hiện nghiêm quy trình và công khai các thủ tục hành chính trong giải quyết công việc của cơ quan Nhà nước để nhân dân biết, thực hiện và giám sát việc thực hiện Đề cao vai trò, hiệu lực quản lý nhà nước ở các cấp, các ngành, Từng bước hiện đại hoá bộ máy hành chính theo hướng áp dụng công nghệ quản lý tiên tiến và tin học hoá. 2.3.2.2. Đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực chuyên môn kỹ thuật * Nguồn nhân lực ngành công nghiệp - xây dựng Sau 20 năm thực hiện đường lối đổi mới, với sự phát triển mạnh mẽ của một số ngành công nghiệp Trung ương trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh (than, đóng tàu), sự phát triển nhiều ngành nghề mới của công nghiệp địa phương và các cơ sở sản xuất có sự đầu tư của nước ngoài đã đặt ra yêu cầu về bổ sung NNL ngày càng lớn. Trước đòi hỏi của một tỉnh trọng điểm kinh tế, có ngành công nghiệp - xây dựng phát triển mạnh, yêu cầu phát triển NNL chuyên môn kỹ thuật, nhất là công nhân lành nghề ở Quảng Ninh trở thành một yêu cầu mang ý nghĩa quan trọng,vì vậy, công tác trên luôn được Đảng bộ tỉnh Quảng Ninh quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo bằng các nghị quyết, các chương trình hành động, và giám sát thông qua các báo cáo tổng kết hàng năm. * Nguồn nhân lực du lịch - dịch vụ Tỉnh Quảng Ninh với vị trí địa lý thuận lợi, nguồn tài nguyên thiên nhiên phong phú; văn hóa đa dạng. Đặc biệt có Vịnh Hạ Long - hai lần được UNESCO công nhận là Di sản thiên nhiên thế giới và được vinh danh là Kỳ quan thiên nhiên mới của thế giới, cùng với Vịnh Bái Tử Long tạo nên quần thể với 2.077 đảo đất, đá là nguồn tài nguyên du lịch nổi bật, đặc sắc vào bậc nhất cả nước và trên thế giới; có danh thắng Yên Tử và hơn 600 di tích lịch sử danh lam thắng cảnh. Đây là tài nguyên vô giá và tiềm năng lớn để Quảng Ninh phát triển các loại hình du lịch, hướng đến phát triển ngành công nghiệp văn hóa - giải trí; trở thành trung tâm du lịch quốc tế và trọng điểm du lịch hàng đầu quốc gia. * Nguồn nhân lực ngành nông, lâm, ngư nghiệp Để chuẩn bị NNL bước vào thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII (1996) của Đảng Cộng sản Việt Nam đã chỉ rõ: Để đưa sự nghiệp CNH, HĐH đến thắng lợi, cần phải phát triển mạnh GD&ĐT, phát huy nguồn lực con người với tư cách là yếu tố cơ bản, nguồn lực nội sinh cho sự phát triển nhanh và bền vững... Nâng cao dân trí, bồi dưỡng và phát huy nguồn lực to lớn của con người Việt Nam là nhân tố quyết định thắng lợi của công cuộc CNH, HĐH. Việc đảm bảo phát triển cân đối NNL, trong đó, chú trọng đào tạo NNL chất lượng cao và đặc biệt là đào tạo NNL trong nông nghiệp, nông thôn phục vụ mục tiêu thực hiện thành công sự nghiệp CNH, HĐH. 2.3.3. Đổi mới cơ chế chính sách khuyến khích thu hút nguồn nhân lực Cùng với việc chú trọng phát triển NNL của tỉnh, xuất phát từ thực tế Quảng Ninh là tỉnh công nghiệp dịch vụ phát triển, song dân số ít, nên NNL tại chỗ không thể đáp ứng được yêu cầu phát triển ngày càng cao của tất cả các ngành kinh tế. Chính vì vậy, thu hút NNL là giải pháp hàng đầu để nâng cao chất lượng NNL, phục vụ sự nghiệp CNH, HĐH của tỉnh. Thực hiện chủ trương trên, Đảng bộ tỉnh Quảng Ninh đã chỉ đạo ban hành những chính sách mạnh nhằm khuyến khích, thu hút NNL. Chương 3 ĐẢNG BỘ TỈNH QUẢNG NINH LÃNH ĐẠO ĐẨY MẠNH PHÁT TRIỂN NGUỒN NHÂN LỰC TỪ NĂM 2010 ĐẾN NĂM 2015 3.1. Yêu cầu mới và chủ trương đẩy mạnh phát triển nguồn nhân lực của Đảng bộ tỉnh Quảng Ninh (2010 - 2015) 3.1.1. Yêu cầu mới đối với phát triển nguồn nhân lực của tỉnh Quảng Ninh (2010-2015) 3.1.1.1. Tình hình thế giới và trong nước Trên thế giới, xu thế toàn cầu hoá tiếp tục diễn ra nhanh chóng, xoay quanh tâm điểm là xây dựng và phát triển nền kinh tế tri thức. Trong những năm đầu thế kỷ XXI, kinh tế tri thức được chọn làm chiến lược phát triển của các quốc gia, cả những nước phát triển và đang phát triển. Đến năm 2010, sau hơn 20 năm thực hiện đường lối đổi mới, Việt Nam đã đạt những thành tựu to lớn có ý nghĩa lịch sử, có những bước tăng trưởng vượt bậc và từng bước hội nhập sâu rộng với thế giới và khu vực. Trong bối cảnh tình hình thế giới và Việt Nam có những thay đổi nhanh chóng, đòi hỏi chủ trương, chính sách của Đảng phải phù hợp với tình hình mới. Vấn đề phát triển NNL cũng trở nên cấp thiết hơn. 3.1.1.2. Yêu cầu mới về phát triển nguồn nhân lực ở Quảng Ninh Kinh tế Quảng Ninh trong giai đoạn 2005-2010 từng bước phát triển ổn định và tốc độ tăng trưởng duy trì ở mức cao. So với tốc độ phát triển chung của cả nước, giai đoạn 2005-2010 kinh tế Quảng Ninh phát triển ổn định với tốc độ tăng trưởng duy trì ở mức cao. Tuy nhiên, so với yêu cầu đặt ra, tốc độ và chất lượng kinh tế của Quảng Ninh chưa như mong muốn, chưa tương xứng với tiềm năng, thế mạnh của địa phương, NNL của Quảng Ninh chưa đáp ứng được yêu cầu phát triển trong giai đoạn mới. 3.1.1.3. Quan điểm, mục tiêu, phương hướng của Đảng về phát triển nguồn nhân lực * Quan điểm mới của Đảng về phát triển nguồn nhân lực Thực hiện được mục tiêu phát triển con người mà Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011) đề ra, Đảng ta nhấn mạnh: “Phát huy tối đa nhân tố con người, coi con người là chủ thể, nguồn lực chủ yếu và là mục tiêu của sự phát triển”. Quan điểm này là sự tiếp nối tư tưởng nhất quán của Đảng, coi con người là chủ thể và là nguồn lực quan trọng nhất quyết định sự phát triển xã hội và sự nghiệp cách mạng Việt Nam. Mọi quá trình phát triển KT-XH phải hướng tới mục tiêu nhân văn cao cả là vì con người. Quan điểm về phát triển NNL, nhất là NNL của thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước, hội nhập quốc tế được Đảng thể hiện sâu sắc với quyết tâm chính trị cao và sự đồng thuận rộng lớn của toàn xã hội. Đó là những định hướng để NNL của đất nước phát triển nhanh, lành mạnh, đúng hướng. 3.1.2. Chủ trương của Đảng bộ tỉnh Quảng Ninh đẩy mạnh phát triển nguồn nhân lực (2010-2015) 3.1.2.1. Quan điểm Một là, phát triển nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao là một khâu đột phá quyết định nhằm thực hiện đổi mới mô hình tăng trưởng, tái cấu trúc nền kinh tế và chuyển đổi phương thức phát triển từ “nâu” sang “xanh” để đến năm 2015, Quảng Ninh cơ bản thành tỉnh công nghiệp, dịch vụ theo hướng hiện đại và đến năm 2020 trở thành tỉnh dịch vụ, công nghiệp. Phát triển nguồn nhân lực phải đảm bảo hài hòa về cơ cấu và cân đối theo ngành, vùng, miền, nhất là ngành (lĩnh vực) trọng điểm, có lợi thế và những vùng, miền là động lực phát triển của tỉnh. Hai là, đào tạo, phát triển nguồn nhân lực phải được coi là nhiệm vụ trọng tâm và thường xuyên của các cấp ủy Đảng, chính quyền, các thành phần kinh tế và toàn xã hội. Phát triển nguồn nhân lực phải phục vụ mục tiêu, định hướng và yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội, đảm bảo quốc phòng an ninh và xây dựng hệ thống chính trị của tỉnh; Ba là, ưu tiên đào tạo, phát triển nguồn nhân lực tại chỗ bao gồm: đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức, công nhân kỹ thuật. Tập trung đào tạo, phát triển nguồn nhân lực là cán bộ lãnh đạo, quản lý, công chức hành chính Nhà nước, chú trọng nhân lực khoa học - công nghệ trình độ cao, cán bộ quản lý, kinh doanh giỏi và công nhân kỹ thuật lành nghề, nhân viên giỏi góp phần nâng cao sức cạnh tranh của nền kinh tế; Bốn là, đẩy mạnh xã hội hóa công tác đào tạo, bồi dưỡng, phát triển nguồn nhân lực.Xây dựng đội ngũ công chức hành chính theo hướng chuyên nghiệp hóa. Đào tạo, bồi dưỡng phải gắn với quy hoạch, nhu cầu sử dụng, lấy đào tạo nghề, đào tạo lao động kỹ thuật chất lượng cao làm làm khâu đột phá trong đào tạo phát triển nguồn nhân lực của tỉnh. 3.1.2.2. Mục tiêu Hệ thống nhân lực phát triển đầy đủ toàn diện đáp ứng nhu cầu phát triển KT-XH của tỉnh với các mục tiêu: (1) Tỉnh Quảng Ninh sẽ là một điểm đến cho sinh viên giỏi và những người lao động tay nghề cao từ trong và ngoài nước; (2) Khả năng tuyển dụng chuyên nghiệp và công tác tuyển dụng dựa vào năng lực lao động; (3) Nâng cao nhận thức, chất lượng GD&ĐT các cấp học, trong đó quan tâm phát triển đào tạo nghề, làm tăng khả năng tuyển dụng và nhu cầu đối với các học viên tốt nghiệp hệ nghề; (4) Giải quyết những hạn chế và từng bước đào tạo nhân lực trình độ cao đáp ứng nhu cầu của các doanh nghiệp, giảm tỷ lệ thất nghiệp và tăng năng suất lao động của lực lượng lao động; (5) Đẩy mạnh tính năng động trong xã hội và khuyến khích quá trình học tập suốt đời của người dân; (6) Tạo ra một đội ngũ lao động có tay nghề và chất lượng cao để thu hút các nhà đầu tư; (7) Nâng cao năng suất lao động, tăng tính cạnh tranh và hiệu quả, dẫn đến những kết quả khả quan cho cả người sử dụng lao động cũng như mức lương tốt hơn cho người lao động. 3.1.2.3. Nhiệm vụ, giải pháp phát triển nguồn nhân lực Nhằm đẩy mạnh phát triển NNL trong bối cảnh tình hình mới hoàn thành các mục tiêu đề ra, Đại hội đại biểu lần thứ XIII (2010) của Đảng bộ tỉnh, xác định phương hướng, nhiệm vụ phát triển NNL giai đoạn từ năm 2010 đến năm 2015 là: Tập trung củng cố và hiện đại hoá cơ sở vật chất các trường dạy nghề, trung học, cao đẳng, đại học và phân hiệu trường đại học hiện có. Tạo điều kiện thuận lợi nhất về cơ sở vật ch

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doctom_tat_luan_an_dang_bo_tinh_quang_ninh_lanh_dao_phat_trien.doc
Tài liệu liên quan