Tóm tắt Luận văn Hoàn thiện địa vị pháp lý của bị can, bị cáo là người chưa thành niên trong tố tụng hình sự Việt Nam

MỤC LỤC CỦA LUẬN VĂN

Trang

Trang phụ bìa

Lời cam đoan

Mục lục

Danh mục các từ viết tắt

Danh mục các bảng, biểu đồ

MỞ ĐẦU. 1

Chương 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ ĐỊA VỊ PHÁP LÝ CỦA

BỊ CAN, BỊ CÁO LÀ NGƯỜI CHƯA THÀNH NIÊN . 10

1.1. Khái niệm bị can, bị cáo là người chưa thành niên trong tố tụng

hình sự. 10

1.1.1. Khái niệm người chưa thành niên . 10

1.1.2. Khái niệm bị can là người chưa thành niên . 14

1.1.3. Khái niệm bị cáo là người chưa thành niên . 15

1.2. Khái niệm, cơ sở và ý nghĩa của việc quy định địa vị pháp lý

của bị can, bị cáo là người chưa thành niên trong tố tụng hình

sự Việt Nam . 16

1.2.1. Khái niệm địa vị pháp lý của bị can, bị cáo là người chưa thành

niên trong tố tụng hình sự . 16

1.2.2 Cơ sở của việc quy định địa vị pháp lý của người chưa thành niên

trong tố tụng hình sự . 18

1.2.3. Ý nghĩa của việc quy định địa vị pháp lý của bị can, bị cáo là

người chưa thành niên trong tố tụng hình sự . 24

1.3. Địa vị pháp lý của bị can, bị cáo là người chưa thành niên

trong tố tụng hình sự một số nước trên thế giới. 25

1.3.1. Trong tư pháp hình sự của Nhật Bản . 25

1.3.2. Trong tư pháp hình sự của Pháp. 29

1.3.3. Trong tố tụng hình sự của tiểu bang Victoria, Australia. 31

Chương 2: QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT

NAM VỀ ĐỊA VỊ PHÁP LÝ CỦA BỊ CAN, BỊ CÁO LÀ

NGƯỜI CHƯA THÀNH NIÊN . 33

2.1. Khái quát lịch sử pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam về địa vị

pháp lý của bị can, bị cáo là người chưa thành niên trước khi

ban hành Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003. 332

2.1.1. Quy định về địa vị pháp lý của bị can, bị cáo là người chưa thành

niên trước Cách mạng tháng 8-1945. 33

2.1.2. Quy định về địa vị pháp lý của bị can, bị cáo là người chưa thành

niên giai đoạn 1945 - 1988. 38

2.1.3. Quy định về địa vị pháp lý bị can, bị cáo là của người chưa thành

niên trong Bộ luật tố tụng hình sự năm 1988. 45

2.2. Quy định của pháp luật Việt Nam hiện hành về địa vị pháp lý

của bị can, bị cáo là người chưa thành niên . 49

2.2.1. Địa vị pháp lý của bị can là người chưa thành niên. 49

2.2.2. Địa vị pháp lý của bị cáo là người chưa thành niên. 66

Chương 3: THỰC TIỄN ÁP DỤNG VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN

CÁC QUY ĐỊNH VỀ ĐỊA VỊ PHÁP LÝ CỦA BỊ CAN, BỊ

CÁO LÀ NGƯỜI CHƯA THÀNH NIÊN. 87

3.1. Thực tiễn áp dụng các quy định của pháp luật về địa vị pháp

lý của bị can, bị cáo là người chưa thành niên . 87

3.1.1. Thực tiễn áp dụng các quy định về địa vị pháp lý của bị can, bị cáo

là người chưa thành niên . 87

3.1.2. Những bất cập, vướng mắc trong áp dụng những quy định của pháp

luật về địa vị pháp lý của bị can, bị cáo là người chưa thành niên. 95

3.2. Giải pháp hoàn thiện và nâng cao hiệu quả áp dụng các quy định về

địa vị pháp lý của bị can, bị cáo là người chưa thành niên. 104

3.2.1. Hoàn thiện các quy định của pháp luật tố tụng hình sự về địa vị

pháp lý của bị can, bị cáo là người chưa thành niên. 104

3.2.2. Giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng quy định về địa vị pháp lý

của bị can, bị cáo là người chưa thành niên. 107

KẾT LUẬN . 119

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO. 122

pdf26 trang | Chia sẻ: lavie11 | Lượt xem: 475 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tóm tắt Luận văn Hoàn thiện địa vị pháp lý của bị can, bị cáo là người chưa thành niên trong tố tụng hình sự Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ưa thành niên, từ đó rút ra nguyên nhân cơ bản của các tồn tại, hạn chế trong thực tiễn; - Trên cơ sở kết quả nghiên cứu lý luận và thực tiễn, luận văn đã đề xuất các định hướng và giải pháp hoàn thiện pháp luật thực định và nâng cao hiệu quả áp dụng về địa vị pháp lý của bị can, bị cáo là người chưa thành niên trong giai đoạn xây dựng Nhà nước pháp quyền và cải cách tư pháp hiện nay ở Việt Nam. Bên cạnh đó, luận văn sẽ là một tài liệu tham khảo cần thiết và bổ ích dành cho không chỉ các nhà lập pháp, mà còn cho các nhà nghiên cứu, các cán bộ giảng dạy pháp luật, các nghiên cứu sinh, học viên cao học và sinh viên thuộc chuyên ngành TTHS tại các cơ sở đào tạo luật. Kết quả nghiên cứu của luận văn còn phục vụ cho việc trang bị những kiến thức chuyên sâu cho các cán bộ thực tiễn đang công tác tại các Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án và cơ quan Thi hành án trong quá trình giải quyết vụ án hình sự được khách quan, có căn cứ và đúng pháp luật. 6. Kết cấu của luận văn Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của luận văn gồm 3 chương: Chương 1: Một số vấn đề chung về địa vị pháp lý của bị can, bị cáo là người chưa thành niên. Chương 2: Quy định của pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam về địa vị pháp lý của bị can, bị cáo là người chưa thành niên. Chương 3: Thực tiễn áp dụng pháp luật và giải pháp nhằm hoàn thiện các quy định về địa vị pháp lý của bị can, bị cáo là người chưa thành niên. 9 Chương 1 MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ ĐỊA VỊ PHÁP LÝ CỦA BỊ CAN, BỊ CÁO LÀ NGƯỜI CHƯA THÀNH NIÊN Trong chương này, tác giả tập trung phân tích khái niệm, cơ sở, ý nghĩa của việc quy định địa vị pháp lý của bị can, bị cáo là người chưa thành niên trong tố tụng hình sự. Bên cạnh đó, tác giả cũng phân tích địa vị pháp lý của bị can,bị cáo là người chưa thành niên trong pháp luật tố tụng hình sự ở một số nước trên thế giới, cụ thể là Nhật Bản, Pháp, Tiểu bang Victorya (Astralia). 1.1. Khái niệm bị can, bị cáo là người chưa thành niên trong tố tụng hình sự 1.1.1. Khái niệm người chưa thành niên Trong phần này, tác giả phân tích một số quy định của pháp luật quốc tế và pháp luật Việt Nam về khái niệm người chưa thành niên trên cơ sở độ tuổi. Từ những phân tích đó, tác giả đưa ra khái niệm: Người chưa thành niên trong tố tụng hình sự Việt Nam là người dưới mười tám tuổi chưa phát triển hoàn thiện về thể chất và tinh thần, chưa có đầy đủ các quyền và nghĩa vụ pháp lý như người đã thành niên. 1.1.2. Khái niệm bị can là người chưa thành niên Tại phần này, tác giả phân tích và nêu ra khái niệm về bị can và bị can là người chưa thành niên Theo quy định tại khoản 1 Điều 49 Bộ luật tố tụng hình sự (BLTTHS) thì bị can là người đã bị khởi tố về hình sự. Từ đó tác giả chỉ ra: bị can là người chưa thành niên là người từ đủ 14 tuổi đến dưới 18 tuổi bị khởi tố về hình sự và tham gia tố tụng từ khi có quyết định khởi tố bị can. 1.1.3. Khái niệm bị cáo là người chưa thành niên Tại phần này, tác giả phân tích và nêu ra khái niệm về bị cáo và bị cáo là người chưa thành niên. Về khái niệm bị cáo, theo quy định tại khoản 1 Điều 50 BLTTHS 2003 thì “bị cáo là người đã bị Tòa án quyết định đưa ra xét xử. Từ đó, tác giả chỉ ra: “Bị cáo là người chưa thành niên là người từ đủ 14 tuổi đến chưa đủ 18 tuổi thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội bị luật hình sự quy định là tội phạm và bị Tòa án quyết định đưa ra xét xử.” 1.2. Khái niệm, cơ sở và ý nghĩa của việc quy định địa vị pháp lý của bị can, bị cáo là người chưa thành niên trong tố tụng hình sự Việt Nam 1.2.1. Khái niệm địa vị pháp lý của bị can, bị cáo là người chưa thành niên trong tố tụng hình sự Trong nội dung này tác giả đưa ra định nghĩa về địa vị pháp lý và địa vị pháp lý của bị can, bị cáo là người chưa thành niên trên cơ sở những phân tích ở mục 1.1 nêu trên. 10 “Địa vị pháp lý của bị can, bị cáo là người chưa thành niên là tổng thể quyền và nghĩa vụ của bị can, bị cáo là người chưa thành niên trong quá trình tiến hành giải quyết các vụ án hình sự theo quy định của pháp luật tố tụng hình sự.” 1.2.2. Cơ sở của việc quy định địa vị pháp lý của người chưa thành niên trong tố tụng hình sự Trong phần này, tác giả nêu ra 3 cơ sở của việc quy định địa vị pháp lý của bị can, bị cáo là người chưa thành niên. Những cơ sở này bắt nguồn từ việc thực hiện các cam kết tại các điều ước quốc tế đa phương, và các văn bản quy phạm pháp luật của Việt Nam; Cụ thể là - Cơ sở thứ nhất là bắt nguồn từ việc bảo đảm thực hiện quyền con người. - Cơ sở thứ hai là dựa trên việc bảo đảm sự công bằng, bình đẳng đối với tất cả mọi người. - Cơ sở thứ ba là dựa trên bảo đảm giáo dục, ngăn ngừa tội phạm, nâng cao chất lượng, hiệu quả của hoạt động tố tụng hình sự. 1.2.3. Ý nghĩa của việc quy định địa vị pháp lý của bị can, bị cáo là người chưa thành niên trong tố tụng hình sự Việc quy định địa vị pháp lý của bị can, bị cáo là người chưa thành niên có ý nghĩa chính trị, xã hội, ý nghĩa pháp lý và ý nghĩa trên thực tiễn to lớn. Trong phạm vi luận văn thạc sỹ, tác giả xin được nêu ra ba ý nghĩa cơ bản như sau: Thứ nhất, việc quy định địa vị pháp lý của bị can, bị cáo là người chưa thành niên có ý nghĩa bảo đảm quyền con người, thể hiện tính nhân đạo sâu sắc trong pháp luật của nhà nước. Thứ hai, việc quy định địa vị pháp lý của bị can, bị cáo là người chưa thành niên trong tố tụng hình sự mang ý nghĩa pháp lý, tạo cơ sở cho hoạt động tố tụng đúng pháp luật, đảm bảo tranh tụng nhanh chóng, khách quan, xét xử đúng người, đúng tội, đúng pháp luật. Thứ ba, việc quy định địa vị pháp lý của bị can, bị cáo là người chưa thành niên trong tố tụng hình sự có ý nghĩa quan trọng trong việc tránh sự xâm hại từ phía các cơ quan tiến hành tố tụng, góp phần định hướng và chỉ đạo cho những người thực thi pháp luật, tránh sai sót, vi phạm nhân quyền, đảm bảo khách quan, thận trọng trong việc nhận thức vụ án hình sự một cách khoa học, không làm người vô tội, không bỏ lọt tội phạm. 1.3. Địa vị pháp lý của bị can, bị cáo là người chưa thành niên trong tố tụng hình sự một số nước trên thế giới Trong nội dung này, tác giả phân tích khái quát các quy định về chế định địa vị pháp lý của bị can, bị cáo là người chưa thành niên trong tố tụng hình sự của Nhật Bản, Pháp, và tiểu bang Victorya của Úc. Việc phân tích này được tác giả chia thành các mục cụ thể sau: 1.3.1. Trong tư pháp hình sự của Nhật Bản 1.3.2. Trong tư pháp hình sự của Pháp 11 1.3.3. Trong tố tụng hình sự của tiểu bang Victoria, Australia Qua việc nghiên cứu pháp luật tố tụng hình sự về địa vị pháp lý của người chưa thành niên theo pháp luật của Nhật bản, Pháp và Úc có thể những quy định của những quốc gia này có nhiều điểm tương đồng với pháp luật của Việt Nam. Sở dĩ nói như vậy là vì pháp luật của Việt Nam nói chung và pháp luật tố tụng hình sự của Việt Nam nói riêng chịu nhiều ảnh hưởng của pháp luật của những quốc gia này. Những điểm tương đồng về mô hình pháp luật dân chủ, tiến bộ, bình đẳng, công khai, công bằng. Ba quốc gia này cũng là ba đại diện tiêu biểu của hệ thống Comman Law, Civil law mà có nhiều đặc điểm gần gũi với Việt Nam. Tuy nhiên, qua so sánh với pháp luật tố tụng của những quốc gia này, pháp luật tố tụng hình sự của Việt Nam còn nhiều hạn chế, thiếu sót. Đây cũng là những hạn chế mà Pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam cần khắc phục trong thời gian tới để đảm bảo việc giải quyết vụ án được đúng đánh, tránh oan,sai. Chương 2 QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM VỀ ĐỊA VỊ PHÁP LÝ CỦA BỊ CAN, BỊ CÁO LÀ NGƯỜI CHƯA THÀNH NIÊN 2.1. Khái quát lịch sử pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam về địa vị pháp lý của bị can, bị cáo là người chưa thành niên trước khi ban hành BLTTHS năm 2003 Trong phần này, tác giả nghiên cứu lịch sử lập pháp nói chung và lịch sử lập pháp về người chưa thành niên phạm tội nói riêng dựa trên lịch sử dân tộc Việt Nam qua các thời kỳ: thời kỳ trước Cách mạng tháng 8 năm 1945, thời kỳ từ năm 1945-1988, thời kỳ hiện nay. Mỗi một thời kỳ đều có những thành tựu lập pháp nhất định cần được nghiên cứ làm rõ. 2.1.1. Quy định về địa vị pháp lý của bị can, bị cáo là người chưa thành niên trước Cách mạng tháng 8-1945 Qua nghiên cứu pháp luật Việt Nam thời kỳ này cho thấy có thể chia làm 2 giai đoạn, giai đoạn thứ nhất là thời kỳ phong kiến với hai bộ luật tiêu biểu là Quốc triều hình luật và Hoàng việt luật lệ; giai đoạn thứ hai là thời kỳ thực dân pháp xâm lược đến trước Cách mạng tháng 8. Pháp luật thời kỳ phong kiến chủ trương đức trị, tức là lấy giáo lý đạo đức hướng về mục đích trau dồi nhân cách làm phương tiện cải hóa, cai trị. Tuy nhiên, nhà vua cũng thấy được tầm quan trọng đặc biệt của pháp luật trong việc trị nước, nên ông cũng chủ trương pháp huy những điểm mạnh của pháp trị. Những quy định đối với người chưa thành niên phạm tội trong Bộ luật Hồng Đức thể hiện rõ nét chính sách hình sự của nhà nước phong kiến Hậu Lê: nghiêm nhưng độ lượng. Trong bộ luật Hồng Đức, khái niệm về người chưa 12 thành niên cũng như quyền và nghĩa vụ của người chưa thành niên phạm tội chưa được cụ thể và mang tình hệ thống như pháp luật hiện hành, tuy nhiên nó cũng tạo cơ sở cho việc áp dụng thống nhất các quy định của pháp luật khi xử lý đối tượng phạm tội là người chưa thành niên. Trong thời kỳ thực dân Pháp xâm lược, có 3 BLTTHS khác nhau được áp dụng tại Bắc kỳ, Trung kỳ và Nam kỳ. Trong đó, theo Điều 20 và Điều 31 của BLTTHS tại Bắc kỳ đã phân loại NTGTT thành: bị can, bị cáo, người làm chứng, người bị hại. Bộ luật Bắc kỳ không quy định rõ khi nào người bị buộc tội mang tư cách bị can, khi nào có tư cách bị cáo. Mà ngay trong giai đoạn xét xử thì tư cách tố tụng của người bị buộc tội vẫn là bị can. Nhưng quy định trên cũng thể hiện được quyền của người bị buộc tội đó là quyền tham gia phiên tòa, được tiến hành tranh luận tại phiên tòa và được quyền kháng cáo. 2.1.2. Quy định về địa vị pháp lý của bị can, bị cáo là người chưa thành niên giai đoạn 1945 - 1988 Trong giai đoạn này, công tác xây dựng pháp luật nói chung, cũng như pháp luật hình sự và tố tụng hình sự nói riêng, đặc biệt là quy định về quyền và nghĩa vụ của bị can, bị cáo là người chưa thành niên không được quy định một cách có hệ thống, mà nằm rải rác ở các văn bản khác nhau. Thậm chí vấn đề về người chưa thành niên phạm tội còn được quy định, đề cập trong các báo cáo tổng kết có tính chất hướng dẫn chuyên môn nghiệp vụ của ngành Tòa án. Nhìn lại quá trình lập pháp cho tới thời điểm trước năm 1988, có thể thấy việc bảo đảm địa vị pháp lý của NCTN trong TTHS qua các văn bản pháp luật còn tương đối mờ nhạt. Các quy định của pháp luật về vấn đề này còn chưa thật chặt chẽ, thiếu đồng bộ dẫn tới nhiều khó khăn cho quá trình áp dụng. Những tàn dư của tư tưởng Nho giáo vẫn tồn tại dai dẳng trong ý thức xã hội, cùng với những khó khăn về điều kiện kinh tế, xã hội của đất nước những năm trong và ngay sau chiến tranh đã dẫn tới những hạn chế trong nhận thức chung của xã hội về địa vị pháp của NCTN nói chung và bảo đảm quyền của NCTN trong TTHS nói riêng. 2.1.3. Quy định về địa vị pháp lý bị can, bị cáo là của người chưa thành niên trong BLTTHS năm 1988 BLTTHS 1988 là Bộ luật tố tụng hình sự đầu tiên của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Trong đó có quy định "Thủ tục đặc biệt" tại Chương XXXI- phần VII là sự kế thừa và phát triển pháp luật tố tụng hình sự dành cho người chưa thành niên phạm tội của Nhà nước ta từ Cách mạng tháng Tám đến khi ban hành bộ luật, với tinh thần đổi mới, đặc biệt, nguyên tắc, đường lối xử lý người chưa thành niên phạm tội không ngừng được hoàn thiện và phát triển để việc xử lý người chưa thành niên phạm tội chủ yếu nhằm giáo dục, giúp đỡ họ sửa chữa sai lầm, phát triển lành mạnh và trở thành công dân có ích cho xã hội. 13 Các quy định về thủ tục tố tụng đối với NCTN trong BLTTHS năm 1988 được đánh giá là tiến bộ tuy còn nhiều bất cập trong quá trình áp dụng.Trong Bộ luật này, địa vị pháp lý của bị can, bị cáo là người chưa thành niên đã được bảo đảm trên nhiều khía cạnh, phần nào đáp ứng đực yêu cầu của việc điều tra, truy tố, xét xử những vụ án hình sự trong bối cảnh xã hội lúc bấy giờ. Tuy nhiên, bên cạnh đó thì vẫn còn rất nhiều những bất cập cần được sửa đổi, bổ sung, loại bỏ để chế định này hoàn thiện hơn. Đây cũng là tiền đề để cho sự ra đời của BLTTHS năm 2003. 2.2. Quy định của pháp luật Việt Nam hiện hành về địa vị pháp lý của bị can, bị cáo là người chưa thành niên Bộ luật tố tụng hình sự được Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam khoá XI, kỳ họp thứ 4 thông qua ngày 26-11-2003 và có hiệu lực kể từ ngày 01-7-2004 (sau đây gọi tắt là BLTTHS năm 2003) đã dành toàn bộ Chương XXXII - Phần thứ bảy để quy định về thủ tục tố tụng đối với người chưa thành niên trên cơ sở kế thừa những quy định của BLTTHS 1988 đồng thời có một số bổ sung, sửa đổi để hoàn thiện hơn các quy định về thủ tục tố tụng áp dụng trong trường hợp người phạm tội là người chưa thành niên. Ở phần này, tác giả phân tích những quy định của pháp luật hiện hành về tổng thể quyền và nghĩa vụ của bị can, bị cáo là người chưa thành niên, từ đó đưa ra những nhận xét, đánh giá. 2.2.1. Địa vị pháp lý của bị can là người chưa thành niên Trong phần này, tác giả phân tích và trình bày về quyền và nghĩa vụ của bị can của người chưa thành niên trên cơ sở pháp luật hiện hành. Quyền của bị can là người chưa thành niên bao gồm các quyền sau: Quyền được biết mình bị khởi tố về tội gì; Quyền trình bày lời khai; Quyền được giải thích về quyền và nghĩa vụ; Quyền đưa ra tài liệu, đồ vật, yêu cầu; Quyền đề nghị thay đổi người tiến hành tố tụng, người giám định, người phiên dịch; Quyền tự bào chữa hoặc nhờ người khác bào chữa; Quyền được nhận các quyết định, văn bản tố tụng; Quyền khiếu nại quyết định, hành vi tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng; Quyền đặc thù ưu tiên dành cho bị can là người chưa thành niên như Quyền ưu tiên được điều tra, truy tố thân thiện, phù hợp với tâm lý, Quyền ưu tiên được giải quyết vụ án nhanh chóng, kịp thời, Quyền ưu tiên được bảo đảm giữ bí mật thông tin cá nhân của người chưa thành niên, Quyền ưu tiên được áp dụng các biện pháp ngăn chặn phi giam giữ. Nghĩa vụ của bị can,bị can phải có một đơn giấy triệu tập của Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát; trong trường hợp vắng mặt không có lí do chính đáng thì có thể bị áp giải; nếu bỏ trốn thì bị truy nã. 2.2.2. Địa vị pháp lý của bị cáo là người chưa thành niên Cũng tương tự như địa vị pháp lý của bị can là người chưa thành niên, 14 trong phần này, tác giả phân tích và nêu lên quyền và nghĩa vụ của người chưa thành niên, cụ thể như sau: Quyền của bị cáo là người chưa thành niên bao gồm Quyền được nhận các quyết định, văn bản tố tụng; Quyền được giải thích về quyền và nghĩa vụ; Quyền được tham gia phiên tòa; Quyền được yêu cầu thay đổi người tiến hành tố tụng, người giám định, người phiên dịch theo quy định của pháp luật; Quyền tự bào chữa hoặc nhờ người khác bào chữa; Quyền đưa ra tài liệu, đồ vật, yêu cầu; Quyền trình bày ý kiến, tranh luận tại phiên tòa; Quyền nói lời sau cùng trước khi nghị án; Quyền kháng cáo bản án, quyết định của Tòa án; Quyền khiếu nại hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng; Các quyền đặc thù theo hướng ưu tiên dành cho người chưa thành niên khi tham gia tố tụng hình sự như quyền ưu tiên được xét xử phù hợp với tâm lý, lứa tuổi, quyền có sự tham gia của đại diện gia đình,quyền ưu tiên về chế độ giam giữ, chấp hành hình phạt Nghĩa vụ của bị cáo, bị cáo phải có mặt theo giấy triệu tập của Tòa án, trong trường hợp vắng mặt không có lí do chính đáng thì có thể bị áp giải, nếu bỏ trốn thì bị truy nã (Khoản 3 Điều 50 Bộ Luật TTHS). Chương 3 THỰC TIỄN ÁP DỤNG VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN CÁC QUY ĐỊNH VỀ ĐỊA VỊ PHÁP LÝ CỦA BỊ CAN, BỊ CÁO LÀ NGƯỜI CHƯA THÀNH NIÊN 3.1. Thực tiễn áp dụng các quy định của pháp luật về địa vị pháp lý của bị can, bị cáo là người chưa thành niên Tại phần này, tác giả khẳng định sau hơn 10 năm thi hành BLTTHS năm 2003, Bộ luật này đã góp phần giúp các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng năm rõ được quyền và nghĩa vụ của mình khi tham gia vào quá trình giải quyết vụ án hình sự, từ đó giúp cho quá trình giải quyết vụ án được đúng pháp luật. Tuy nhiên, thực tiễn vẫn còn nhiều bất cập cần phải khắc phục để hoàn thiện địa vị pháp lý của bị can, bị cáo là người chưa thành niên. Để nêu lên thực tiễn áp dụng các quy định của pháp luật về địa vị pháp lý của bị can, bị cáo là người chưa thành nên, tác giả tập trung vào thực tiễn áp dụng các quy định về địa vị pháp lý của bị can, bị cáo là người chưa thành niên và những bất cập, vướng mắc trong áp dụng những quy định của pháp luật về địa vị pháp lý của bị can, bị cáo là người chưa thành niên 3.1.1. Thực tiễn áp dụng các quy định về địa vị pháp lý của bị can, bị cáo là người chưa thành niên Để đánh giá về thực tiễn áp dụng các quy định về địa vị pháp lý của bị can, 15 bị cáo là người chưa thành niên, tác giả dựa vào số liệu thống kê của Vụ thống kê tổng hợp Tòa án nhân dân tối cao về việc xét xử những vụ án có bị can, bị cáo là người chưa thành niên trong giai đoạn 5 năm từ năm 2009 đến 2013. Những số liệu được đề cập đến trong luận văn này bao gồm số liệu xét xử những vụ án và bị cáo là người chưa thành niên, nhân thân bị cáo là người chưa thành niên, hình phạt áp dụng đối với bị cáo là người chưa thành niên. Qua việc phân tích những số liệu nêu trên, tác giả rút ra được một số nhận xét, đánh giá sau: - Tình hình tội phạm vị thành niên ngày càng gia tăng cả về số lượng và mức độ nghiêm trọng - Bị can, bị cáo là người chưa thành niên thường có nhân thân xấu như bỏ học, lang thang... - Về hình phạt áp dụng đối với bị can, bị cáo là người chưa thành niên, chính sách hình sự của Đảng và Nhà nước ta trong việc xử lý đối với người chưa thành niên phạm tội là nhân đạo, bên cạnh mục đích trừng trị còn nhằm giáo dục, giúp đỡ họ sửa chữa sai lầm, phát triển lành mạnh và trở thành công dân có ích cho xã hội nên bị can, bị cáo là người chưa thành niên có thể áp dụng các biện pháp tư pháp hoặc miễn trách nhiệm hình sự để đưa về gia đình, cơ quan tổ chức giám sát. Tuy nhiên, trong thực tế xét xử, do vị thành niên phạm tội đa phần phạm vào các tội phạm nghiêm trọng, đặc biệt nghiêm trọng (cướp, cướp giật, giết người) nên thường bị xử án tù (ít trường hợp được hưởng án treo). Bên cạnh số liệu thực tế thu thập được, tác giả còn dựa trên thực tiễn quá trình giải quyết vụ án hình sự đối với vụ án có bị can, bị cáo là người chưa thành niên để nêu ra những tồn tại, hạn chế trong việc áp dụng những quy định của pháp luật về địa vị pháp lý của bị can, bị cáo là người chưa thành niên, trong đó có một số vấn đề chính sau: Về người tiến hành tố tụng, chúng ta chưa có một đội ngũ điều tra viên, kiểm sát viên, thẩm phán về người chưa thành niên. Việc tiến hành tố tụng đối với bị can, bị cáo là người chưa thành niên tùy theo từng địa phương, theo sự phân công mà điều tra viên, kiểm sát viên, thẩm phán nào đó trực tiếp tiền hành giải quyết vụ án theo thẩm quyền. Về hình thức tổ chức phiên toà, Phần lớn các vụ án có người chưa thành niên là bị cáo được tiến hành xét xử công khai. Trên thực tế, do chưa có hướng dẫn cụ thể về những tiêu chí để quyết định việc xét xử kín hay xét xử công khai nên có không ít trường hợp tương tự thì Toà án này cho rằng cần phải xét xử kín, Toà án khác lại cho rằng cần xét xử công khai.. Về sự có mặt của người tham gia tố tụng, trên thực tế còn nhiều vướng mắc trong việc cha mẹ, đại diện gia đình tham gia phiên tòa xét xử người chưa thành niên. Việc tham gia của đại diện gia đình, thầy cô giáo, nhà trường, đoàn 16 thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh, do chưa có hướng dẫn cụ thể, chi tiết, nên khi thực hiện thì các Toà án vẫn còn nhiều lúng túng, bất cập. Nhiều Toà án địa phương đang gặp những trường hợp các em là người chưa thành niên phạm tội ở nơi rất xa gia đình, quê hương, xa nơi học tập, lao động và thường trú; khi đã thụ lý vụ án Toà án đã nhiều lần mời đại diện gia đình, nhà trường, Đoàn thanh niên cộng sản; nhưng không ai đến Toà án và cũng chẳng có hồi âm, đã làm cho nhiều Toà án rất lúng túng, không biết xử lý thế nào. Về bảo đảm quyền bào chữa, theo quy định của pháp luật thì đối với bị can, bị cáo là người chưa thành niên, nếu họ (hoặc người đại diện hợp pháp của họ) không lựa chọn người bào chữa thì cơ quan tiến hành tố tụng phải yêu cầu Đoàn luật sư phân công văn phòng luật sư cử người bào chữa cho họ hoặc đề nghị Ủy ban Mặt trận tổ quốc Việt Nam, tổ chức thành viên của Mặt trận cử người bào chữa cho thành viên của tổ chức mình. Tuy nhiên, trên thực tế có không nhiều các Luật sư nổi tiếng, có kinh nghiệm tham gia bào chữa cho bị can, bị cáo theo yêu cầu của các cơ quan tiến hành tố tụng, không ít trường hợp Luật sư tham gia bào chữa mang tính hình thức. Thực tế này một phần là do trình độ và trách nhiệm nghề nghiệp của một bộ phận Luật sư, một phần là do còn thiếu các chế tài cụ thể để áp dụng xử lý đối với những Luật sư không làm hết trách nhiệm của mình, không chấp hành đúng yêu cầu của Toà án. Về quyền đưa ra chứng cứ, không ít người trong cơ quan bảo vệ pháp luật chưa thấy hết tầm quan trọng của việc bảo đảm thực hiện đúng quyền này, dẫn đến vi phạm một cách nghiêm trọng như không kiểm tra, xem xét thật khách quan những chứng cứ hay yêu cầu mà bị can, bị cáo đưa ra, mà thường là vội vàng bác bỏ khi thấy không phù hợp với hướng điều tra của mình. Về cách thức tổ chức phiên toà, hiện nay, ở nước ta chưa có các phòng xét xử, cách bài trí sắp xếp riêng nào để tiến hành tố tụng đối với người chưa thành niên phạm tội. 3.1.2. Những bất cập, vướng mắc trong áp dụng những quy định của pháp luật về địa vị pháp lý của bị can, bị cáo là người chưa thành niên Trong nội dung này, tác giả tập trung vào một số bất cập vướng mắc của BLTTHS hiện hành về thuật ngữ “người chưa thành niên phạm tội”, đối tượng chứng minh, sự có mặt của bị cáo tại phiên tòa, “đại diện gia đình” và sự có mặt của đại diện gia đình của bị cáo, về sự tham gia tố tụng của người bào chữa, về bắt, tạm giữ, tạm giam và giám sát người chưa thành niên. 3.2. Giải pháp hoàn thiện và nâng cao hiệu quả áp dụng các quy định về địa vị pháp lý của bị can, bị cáo là người chưa thành niên Trên cơ sở những phân tích ở trên tác giả xin được đưa ra một số giải pháp nhằm hoàn thiện địa vị pháp của bị can, bị cáo là người chưa thành niên và nâng cao hiệu quả áp dụng pháp luật tố tụng hình sự trong thực tiễn giải quyết vụ án có bị can, bị cáo là người chưa thành niên. 17 3.2.1. Hoàn thiện các quy định của pháp luật tố tụng hình sự về địa vị pháp lý của bị can, bị cáo là người chưa thành niên - Bổ sung khái niệm bị can, bị cáo là người chưa thành niên Bộ luật tố tụng hình sự cần bổ sung 1 điều luật về khái niệm "Bị can, bị cáo là người chưa thành niên", trong đó có quy định về độ tuổi, là người thực hiện hành vi phạm tội và bị Tòa án xét xử để làm cơ sở áp dụng các thủ thủ tục đặc biệt trong việc xét xử đối với người chưa thành niên theo quy định tại Chương XXXII - Bộ luật tố tụng hình sự. - Về sửa đổi bổ sung Điều 303 BLTTHS Đề nghị sửa đổi, bổ sung quy định tại Điều 303 của BLTTHS; bởi lẽ, theo quy định tại khoản 1 Điều này thì người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi có thể bị bắt, tạm giữ, tạm giam trong trường hợp phạm tội rất nghiêm trọng do cố ý hoặc phạm tội đặc biệt nghiêm trọng. Theo quy định tại Điều 12 của BLHS, thì người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi chỉ bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội phạm rất nghiêm trọng do cố ý hoặc tội phạm đặc biệt nghiêm trọng, không bị truy cứu trách nhiệm về tội phạm khác. Như vậy, nếu giữ nguyên nội dung của khoản 1 Điều 303 của BLTTHS thì chúng tôi cho là không cần thiết vì chỉ trong trường hợp người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi phạm tội rất nghiêm trọng do cố ý hoặc phạm tội đặc biệt nghiêm trọng mới đặt ra vấn đề xem xét trách nhiệm hình sự đối với họ mà thôi. Đối với khoản 2 của Điều 303, chúng tôi đề nghị cân nhắc và bổ sung quy định trong trường hợp bị can, bị cáo bỏ trốn và có lệnh truy nã thì người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi có thể bị bắt để áp dụng biện pháp ngăn chặn không phụ thuộc vào tội phạm mà họ đã thực hiện (có thể là biện pháp tạm giữ, tạm giam, có thể là biện pháp khác do cơ quan tiến hành tố tụng quyết định). - Về người bào chữa, tác giả đưa ra đề xuất cụ thể về tiêu chuẩn, tư cách cửa người bào chữa cho bị can, bị cáo là NCTN. Về đại diện gia đình, đề nghị có hướng dẫn cụ thể về “đại diện của gia đình bị cáo” quy định

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdflhs_vu_thi_phuong_thanh_hoan_thien_dia_vi_phap_li_cua_bi_can_bi_cao_la_nguoi_chua_thanh_nien_trong_t.pdf
Tài liệu liên quan