Tóm tắt Luận văn Tìm hiểu hoạt động giúp việc gia đình và nhu cầu của người lao động đối với điều kiện sinh hoạt, làm việc và đào tạo chuyên môn

MỤC LỤC

PHẦN MỞ ĐẦU. 4

1. Lý do chọn đề tài: .4

2. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của đề tài: .6

2.1. Ý nghĩa lý luận:. 6

2.2. Ý nghĩa thực tiễn . 6

3. Mục đích nghiên cứu, câu hỏi nghiên cứu, nhiệm vụ nghiên cứu:.6

3.1. Mục đích nghiên cứu: . 6

3.2.Câu hỏi nghiên cứu:. 7

3.3. Nhiệm vụ nghiên cứu:. 7

4. Đối tượng, khách thể: .7

4.1. Đối tượng nghiên cứu: . 7

4.2. Khách thể nghiên cứu: . 7

5. Phạm vi nghiên cứu và thời gian nghiên cứu: .7

6. Phương pháp nghiên cứu: .8

6.1. Phân tích tài liệu thứ cấp:. 8

6.2. Phương pháp phỏng vấn sâu:. 9

6.3. Phương pháp thảo luận nhóm: . 9

6.4. Phương pháp quan sát:. 9

7. Giả thuyết nghiên cứu:.10

8. Khung lý thuyết: .11

PHẦN NỘI DUNG CHÍNH. 12

Chƣơng 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN . 12

1.1. Cơ sở lý luận :.12

1.1.1. Các lý thuyết tiếp cận:. 12

1.1.1.1. Lý thuyết phân công lao động:. 12

1.1.1.2. Lý thuyết trao đổi xã hội: . 13

1.1.1.3. Các lý thuyết liên quan tới di dân:. 15

1.1.2. Các khái niệm sử dụng trong nghiên cứu: . 17

1.1.2.1. Khái niệm "Gia đình":. 17

1.1.2.2. Khái niệm "Lao động", "Người lao động": . 17

1.1.2.3. Khái niệm "Dịch vụ giúp việc gia đình": . 18

1.1.2.4. Khái niệm “Người giúp việc gia đình”: . 18

1.1.2.5. Khái niệm “Hoạt động giúp việc gia đình”: . 19

1.1.2.6. Khái niệm “Nhu cầu”: . 19

1.1.2.7. Khái niệm “Chuyên môn”, “Đào tạo", "Đào tạo chuyên môn":. 203

1.2. Cơ sở thực tiễn:.21

1.2.1 Tổng quan vấn đề nghiên cứu:. 21

1.2.2. Tổng quan địa bàn nghiên cứu:. 25

Chƣơng 2: THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG GIÚP VIỆC GIA ĐÌNH TẠI

THÀNH PHỐ HÀ NỘI. 30

2.1. Một số đặc trưng nhân khẩu - xã hội của người giúp việc gia đình và hộ gia

đình thuê người giúp việc: .30

2.1.1. Nhóm người giúp việc gia đình: . 30

2.1.2. Hộ gia đình thuê người giúp việc:. 31

2.2. Thực trạng hoạt động giúp việc tại Hà Nội hiện nay:.33

2.2.1. Lý do lựa chọn nghề giúp việc và nguồn giới thiệu:. 33

2.2.2. Các loại hình công việc: . 36

2.2.3. Thù lao của người giúp việc gia đình: . 39

2.2.4. Tiền thưởng, phần thưởng và việc thoả mãn nhu cầu tinh thần của

người giúp việc: . 44

2.2.5. Điều kiện làm việc của người giúp việc: .

2.2.6. Kỹ năng của người giúp việc gia đình: .

2.2.7. Những lợi ích và khó khăn của hoạt động giúp việc gia đình:. .

Chƣơng 3: NHU CẦU CỦA NGƢỜI LAO ĐỘNG ĐỐI VỚI ĐIỀU KIỆN .

SINH HOẠT, LÀM VIỆC VÀ ĐÀO TẠO CHUYÊN MÔN . .

3.1. Nhu cầu của người giúp việc với điều kiện sinh hoạt: .

3.2. Nhu cầu của người giúp việc với điều kiện làm việc:

.3.2.1. Mức thù lao: . .

3.2.2. Thời gian làm việc: . .

3.2.3. Cách đối xử của người thuê và địa vị của người giúp việc:. .

3.2.4. Sự bảo đảm các quyền lợi, cam kết, hợp đồng: .

3.3. Nhu cầu của người giúp việc với đào tạo chuyên môn: .

3.3.1. Nội dung đào tạo: . .

3.3.2. Người chịu trách nhiệm đào tạo chuyên môn: .

PHẦN KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ . .4

1. Kết luận:. .

2. Khuyến nghị:. .

TÀI LIỆU THAM KHẢO . 46

PHỤ LỤC . .

pdf47 trang | Chia sẻ: lavie11 | Lượt xem: 522 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tóm tắt Luận văn Tìm hiểu hoạt động giúp việc gia đình và nhu cầu của người lao động đối với điều kiện sinh hoạt, làm việc và đào tạo chuyên môn, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
gười lao động": Lao động là hoạt động có mục đích, có ý thức của con người nhằm thay đổi những vật thể tự nhiên cho phù hợp với nhu cầu của mình hay của xã hội. Xã hội học coi lao động như là hành động xã hội có cấu trúc gồm các thành phần: mục đích lao động, đối tượng lao động, phương tiện lao động, điều kiện lao động, chủ thể lao động và xu hướng lao động. Các yếu tố này có mối liên hệ hữu cơ với nhau. Trong đó, vai trò quyết định với nghĩa là chủ động, tích cực "tác động, điều tiết, kiểm soát" toàn bộ quá trình lao động thuộc về con người xã hội với tất cả 18 các đặc điểm, phẩm chất người được hình thành và phát triển trong cuộc sống. [11, tr.122-123] Chủ thể lao động: là cá nhân, nhóm, tổ chức xã hội với các đặc điểm, phẩm chất được hình thành và phát triển trong quá trình xã hội hóa và trong hoạt động lao động. Chính chủ thể lao động với sự nỗ lực vật chất - tinh thần của họ đã gắn kết các yếu tố lao động thành một quá trình sản xuất. Đồng thời, thông qua lao động, con người không những cải tạo thế giới mà còn biến đổi chính bản thân mình. [11,tr.122-123] Như vậy, có thể định nghĩa rằng người lao động là các cá nhân thuộc các nhóm, tổ chức xã hội với các đặc điểm và phẩm chất riêng được hình thành và phát triển trong quá trình xã hội hóa và trong quá trình lao động. 1.1.2.3. Khái niệm "Dịch vụ giúp việc gia đình": Hiện nay chưa có một định nghĩa chung nhất về dịch vụ giúp việc gia đình dù cụm từ này được sử dụng trong rất nhiều văn bản và được chấp nhận trong xã hội. Trên cơ sở những đặc trưng của loại hình dịch vụ này, tác giả xin đưa ra cách hiểu của mình về dịch vụ giúp việc gia đình là loại hình dịch vụ thuộc khu vực kinh tế phi chính thức nhằm cung cấp nguồn lao động làm các công việc nội trợ hoặc chăm sóc các thành viên cho các gia đình có nhu cầu. Người được thuê giúp việc trong gia đình trực tiếp làm những công việc như đi chợ, chuẩn bị bữa ăn, dọn dẹp nhà cửa, trông trẻ, trông người già yếu và nhận lương theo thỏa thuận giữa người thuê và người giúp việc. Dịch vụ giúp việc gia đình còn có thể hiểu đơn giản là những công việc được làm bởi người không phải thành viên của gia đình. 1.1.2.4. Khái niệm “Người giúp việc gia đình”: "Người giúp việc gia đình, (người hầu hay người ở theo cách gọi trong các xã hội trước đây )là những người làm việc và thường chung sống cùng hộ gia đình với người thuê. Ở những hộ gia đình lớn, có thể có nhiều người giúp việc làm các công việc khác nhau, như một phần của hệ thống thứ bậc phức tạp. 19 Người giúp việc gia đình thường làm những công việc như nấu ăn, giặt là, dọn dẹp nhà cửa, đi chợ..., chăm sóc trẻ em. Tại nhiều nước, người giúp việc (phụ nữ) giữ vai trò như y tá chăm sóc người già và người khuyết tật. Người giúp việc (phụ nữ) thường được yêu cầu làm việc ít nhất 15 tiếng một ngày." [22] Trong xã hội Việt Nam phong kiến, người giúp việc gia đình thường được gọi bằng những cái tên như “con sen”, “thằng ở” với hàm ý khinh miệt, coi thường. Sau này, khi bộ phim Nhật Bản có tên “Oshin” được trình chiếu tại Việt Nam với nội dung chính xoay quanh cuộc đời của một người phụ nữ với tinh thần vượt khó khăn, từ vị trí của một người giúp việc gia đình thành một người thành đạt thì cụm từ “osin” xuất hiện và được dùng để chỉ người giúp việc trong gia đình. Đến nay, cách gọi này vẫn được chấp nhận trong xã hội. 1.1.2.5. Khái niệm “Hoạt động giúp việc gia đình”: Khái niệm “hoạt động giúp việc gia đình” được sử dụng trong đề tài này dùng để chỉ một lĩnh vực dịch vụ nhằm cung cấp nguồn lao động thực hiện các công việc chuyên biệt trong môi trường gia đình bao gồm những hoạt động như nội trợ, dọn dẹp nhà cửa, chăm sóc các thành viên, giúp các gia đình thực hiện tốt các chức năng của mình. Bên cạnh đó, nó còn bao gồm các yếu tố liên quan như mối quan hệ giữa người thuê và người lao động cả về mặt pháp luật và xã hội, mức độ hài lòng, khả năng đáp ứng cũng như các nhu cầu, mong muốn của các bên. 1.1.2.6. Khái niệm “Nhu cầu”: Nhà tâm lý học Abraham Maslow đã đưa ra học thuyết về nhu cầu trong bài viết "A theory of Human Motivation" (tạm dịch là học thuyết về động lực của con người) của mình năm 1943. Đây được coi là học thuyết đạt tới đỉnh cao trong việc nhận dạng các nhu cầu tự nhiên của con người nói chung và cho đến nay chưa có thuyết nào thay thế tốt hơn cho học thuyết này. A.Maslow đã chia các nhu cầu của con người thành hai nhóm: nhu cầu bậc thấp (bao gồm nhu cầu về thể chất và sinh lý và nhu cầu về an toàn và an ninh) và nhu cầu bậc cao (nhu cầu về quyền sở hữu và tình cảm, nhu cầu về sự kính mến và lòng tự trọng, nhu cầu được thể hiện mình). Theo đó, việc thoả mãn các nhu cầu bậc thấp sẽ giúp thoả mãn các nhu cầu bậc cao. 20 Và con người là thực thể xã hội, khác với các loài động vật khác, họ luôn hướng tới việc thoả mãn các nhu cầu của mình, nói cách khác, họ hành động theo nhu cầu. Việc được đáp ứng các nhu cầu từ thấp tới cao như một cái thang dẫn họ tới việc tự hoàn thiện mình và giúp ích cho xã hội. [12] Người giúp việc cũng là một nhóm đối tượng với những đặc trưng riêng, do vậy họ cũng có những nhu cầu riêng gắn với hoàn cảnh sống và làm việc của mình. Ở đây, chúng tôi cũng xem xét nhu cầu của người lao động theo hai nhóm nhu cầu bậc thấp, bao gồm các nhu cầu về đảm bảo điều kiện sinh hoạt (nơi ăn, chỗ ở, chăm sóc sức khỏe, nghỉ ngơi giải trí) và điều kiện làm việc và các nhu cầu bậc cao liên quan đến nhu cầu về địa vị trong gia đình chủ nhà và đào tạo chuyên môn để được nâng cao vị thế của mình. 1.1.2.7. Khái niệm “Chuyên môn”, “Đào tạo", "Đào tạo chuyên môn": Chuyên môn là một lĩnh vực lao động sản xuất hẹp mà ở đó, con người bằng năng lực thể chất và tinh thần của mình làm ra những giá trị vật chất (thực phẩm, lương thực, công cụ lao động) hoặc giá trị tinh thần (sách báo, phim ảnh, âm nhạc, tranh vẽ) với tư cách là những phương tiện sinh tồn và phát triển của xã hội. [13, tr.11] Đào tạo đề cập đến việc dạy các kỹ năng thực hành, nghề nghiệp hay kiến thức liên quan đến một lĩnh vực cụ thể, để người học lĩnh hội và nắm vững những tri thức, kĩ năng, nghề nghiệp một cách có hệ thống để chuẩn bị cho người đó thích nghi với cuộc sống và khả năng đảm nhận được một công việc nhất định. Khái niệm đào tạo thường có nghĩa hẹp hơn khái niệm giáo dục, đào tạo được dùng để đề cập đến giai đoạn sau, khi một người đã đạt đến một độ tuổi nhất định, có một trình độ nhất định. Có nhiều dạng đào tạo: đào tạo cơ bản và đào tạo chuyên sâu, đào tạo chuyên môn và đào tạo nghề, đào tạo lại, đào tạo từ xa, tự đào tạo... [13,tr.11] Đào tạo chuyên môn là hoạt động nhằm cung cấp kiến thức cũng như kỹ năng chuyên sâu thuộc một lĩnh vực nghề nghiệp cho người lao động. [13,tr.11] 21 1.2. Cơ sở thực tiễn: 1.2.1 Tổng quan vấn đề nghiên cứu: * Trên thế giới: Cùng với quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa diễn ra mạnh mẽ là sự phát triển của các loại hình dịch vụ, đặc biệt là dịch vụ phục vụ gia đình. Đối với dịch vụ giúp việc gia đình, Philippine là một trong những nước đứng đầu. Tác giả Parrenas trong một nghiên cứu của mình năm 2000 đã chỉ ra rằng, hiện nay ước tính có hơn 2,2 triệu người giúp việc gia đình trong tổng số 6,5 triệu người lao động Philipine làm việc ở hơn 100 nước trên thế giới. Đa số phụ nữ Philippine ra nước ngoài kiếm sống đều tốt nghiệp phổ thông và qua đào tạo nghề, hơn nữa, họ lại thông thạo tiếng Anh. Do đó, lao động của Philippnes làm nghề này có khả năng cạnh tranh rất lớn. Chính phủ Philipine coi xuất khẩu lao động bao gồm cả lao động nữ giúp việc gia đình như là một ngành kinh tế rất quan trọng của đất nước. Nguồn tiền gửi về gia đình hàng năm của riêng số phụ nữ làm nghề giúp việc gia đình ước tính khoảng 14-16 tỷ đô la Mỹ [ 16, tr.560-580] Theo báo cáo khảo sát của Viện Nghiên cứu Dân số và Xã hội của Đại học Mahidol, Thái Lan (2007), sự tăng trưởng kinh tế của Thái Lan trong hơn 30 năm qua cũng làm tăng mạnh mẽ số lượng các gia đình cần thuê người giúp việc gia đình. Trong những năm 1980, các gia đình chủ yếu thuê người giúp việc là người Thái. Bắt đầu từ những năm 1990, mức cung lao động giúp việc gia đình là người Thái bị giảm đi, do kinh tế phát triển và tâm lý xã hội ít coi trọng nghề lao động này, người lao động phổ thông ở Thái Lan có nhiều sự lựa chọn nghề nghiệp hơn. Sự thiếu hụt lao động giúp việc gia đình của xã hội Thái Lan đã thu hút những phụ nữ lao động nghèo từ các nước láng giềng là Myanma, Lào và Căm Pu Chia. Những năm gần đây, tham gia đội ngũ những người làm nghề giúp việc gia đình ở Thái Lan có cả phụ nữ Việt Nam đến chủ yếu từ một số tỉnh thuộc khu vực Bắc Trung bộ như Hà Tĩnh, Quảng Bình, Thừa Thiên Huế. Một nghiên cứu của Philip N.Cohen (Đại học Maryland College Park, 1998) về sự thay thế công việc nhà trong nền kinh tế dịch vụ cũng đã đánh giá sự tiêu 22 dùng dịch vụ giúp việc gia đình. Qua phân tích số liệu cuộc điều tra sự tiêu dùng tại Hoa Kỳ năm 1993, tác giả đã chỉ ra rằng việc sử dụng dịch vụ giúp việc gia đình và việc lựa chọn hình thức đi ăn bên ngoài đã giúp người phụ nữ giảm bớt gánh nặng công việc nhà. Tác giả đã đánh giá sự tác động của các yếu tố: vị trí của người phụ nữ trong hôn nhân (thu nhập, nghề nghiệp của người phụ nữ), địa vị kinh tế - xã hội của gia đình (mức sống, chủng tộc, thu nhập, nghề nghiệp, học vấn của người chồng) tới việc sử dụng dịch vụ giúp việc gia đình. Kết quả nghiên cứu đã cho thấy, nếu như mọi yếu tố khác là như nhau, những gia đình mà người phụ nữ có địa vị cao hơn cũng như những gia đình có địa vị kinh tế- xã hội cao hơn sử dụng dịch vụ giúp việc gia đình và đi ăn bên ngoài nhiều hơn. [5, tr.219-231] Qua tìm hiểu một số nghiên cứu nước ngoài về chủ đề dịch vụ giúp việc gia đình, có thể thấy chủ đề này đã được quan tâm tìm hiểu ở nhiều quốc gia trên các khía cạnh khác nhau. Đây sẽ là cơ sở khoa học cho việc tiếp cận, so sánh kết quả trong nghiên cứu tình hình thực tế Việt nam về thực trạng giúp việc gia đình, các yếu tố tác động đến thực trạng này, những vấn đề còn tồn tại. * Ở Việt Nam: Lao động giúp việc gia đình là một hoạt động kinh tế xã hội có từ lâu đời ở nước ta cũng như nhiều nước khác trên thế giới. Hoạt động giúp việc gia đình ở Việt Nam trong khoảng 20 năm trở lại đây trở nên phổ biến và phát triển so với giai đoạn trước đó là do có nhiều gia đình có điều kiện kinh tế khá hơn hẳn so với thời kỳ kinh tế bao cấp, cũng như sự dư thừa lao động phổ thông ở khu vực nông thôn dưới tác động của công cuộc cải cách kinh tế. Một yếu tố cơ bản khác thúc đẩy loại hình dịch vụ này phát triển là chính sách của Nhà nước ta cho phép và khuyến khích phát triển dịch vụ khu vực kinh tế tư nhân và phi chính thức. Yếu tố thứ ba là việc mở rộng những hình thức quản lý về mặt hộ khẩu hay đăng ký tạm trú tạo điều kiện để những người lao động nông thôn được tự do ra thành phố tìm việc làm. Tác giả Mai Huy Bích trong bài viết “Người làm thuê việc nhà và tác động của họ đến gia đình trong thời kỳ đổi mới kinh tế - xã hội” đã nghiên cứu lao động làm thuê việc nhà của những người phụ nữ nghèo, ít học từ nông thôn ra thành thị. 23 Tác giả đã phân tích một số điểm tích cực và tiêu cực của hình thức lao động này. Đó là nhu cầu thuê mướn lao động làm việc nhà nhưng điều này chưa được đáp ứng vì người ta ra thành phố tìm việc làm khác chứ không phải để làm giúp việc gia đình. Sự xuất hiện của loại hình giúp việc gia đình đã và đang khẳng định vai trò, tầm quan trọng của công việc gia đình. Trước đây những công việc gia đình do người vợ, người mẹ làm, thường không được tính đến, còn nếu thuê người làm thì phải mất từ 300.000 đến 500.000 đồng/tháng với cơm nuôi và chỗ ở. Điều này đã làm lay chuyển mạnh mẽ quan niệm thịnh hành lâu nay cho rằng việc nhà là loại hình lao động chỉ tạo ra giá trị sử dụng chứ không tạo ra lời lãi, không được trả công, không sinh lợi. [4] Năm 2005, Viện Khoa học Dân số, Gia đình và Trẻ em đã thực hiện đề tài nghiên cứu khoa học cấp Bộ “Nghiên cứu nhu cầu dịch vụ gia đình Việt Nam trong thời kỳ đổi mới”. Đề tài được tiến hành thành 2 giai đoạn dành cho khảo sát tại 2 địa bàn là thành thị và nông thôn và được áp dụng nhiều phương pháp khác nhau trong đó có thu thập thông tin bằng bảng hỏi và phỏng vấn sâu. Dịch vụ gia đình được đề cập tới trong đề tài này rất rộng, bao gồm 6 lĩnh vực từ y tế, chăm sóc sức khỏe; chăm sóc học tập của con cái; nội trợ và sinh hoạt gia đình; phương tiện đi lại tới giải trí văn hóa tinh thần. Trong đó, mảng hoạt động giúp việc gia đình được xếp vào nhóm các dịch vụ phục vụ công việc nội trợ và sinh hoạt gia đình. Đề tài đã chỉ ra rằng các gia đình hiện nay đã có nhu cầu sử dụng dịch vụ giúp việc gia đình. Đồng thời cũng tìm hiểu thêm về lý do lựa chọn dịch vụ, đánh giá chất lượng dịch vụ và những yếu tố tác động đến việc sử dụng người giúp việc gia đình. Tuy nhiên, do phạm vi nghiên cứu của đề tài rộng nên hoạt động giúp việc gia đình mới chỉ được đề cập như một trong các khía cạnh nhỏ của loại hình dịch vụ gia đình. Mặt khác, đề tài mới chỉ nghiên cứu từ góc độ gia đình – đối tượng thụ hưởng dịch vụ mà ít quan tâm tới đối tượng cung cấp dịch vụ. [21] Một nghiên cứu khác của tác giả Lê Việt Nga năm 2005 đã thực hiện thu thập thông tin từ cả ba đối tượng liên quan trực tiếp đến hoạt động này là người lao động, chủ hộ gia đình thuê người giúp việc và người làm nghề môi giới hoạt động 24 này. Nghiên cứu này bước đầu chỉ ra những tác động của việc thuê người giúp việc tới gia đình sử dụng dịch vụ, một số khó khăn trở ngại của các bên liên quan trong hoạt động này. Kết quả nghiên cứu cũng chỉ ra nhu cầu về thuê người giúp việc hiện nay ở Hà Nội là rất lớn. Nghiên cứu của Lê Việt Nga chỉ dựa trên một qui mô mẫu nghiên cứu khá nhỏ bao gồm 20 phỏng sâu người làm thuê, 20 người sử dụng lao động và 5 cán bộ giới thiệu việc làm. Nghiên cứu chỉ mới tập trung vào một số khía cạnh trong công việc của người lao động ở trong gia đình có sử dụng dịch vụ. [15] Khảo sát của Dương Kim Hồng được tiến hành năm 2007 là một nghiên cứu có liên quan trực tiếp nhất đến nội dung nghiên cứu của đề tài này. Khảo sát này đã phần nào phản ánh được thực trạng hoạt động giúp việc gia đình ở hai thành phố lớn nhất nước ta là Hà Nội và Tp. Hồ Chí Minh. Tác giả của nghiên cứu này đã chỉ ra hai loại hình cơ bản trong hoạt động giúp việc gia đình là người lao động ở ngay trong nhà của gia chủ và người lao động thuê nhà trọ ở ngoài. Tuy nhiên, hạn chế của nghiên cứu này là chỉ chủ yếu lấy ý kiến của những người là chủ hộ gia đình có thuê người giúp việc và phỏng vấn một vài người giúp việc. Có 300 phiếu được phát ra và dưới hình thức là phỏng vấn trực tiếp, gửi qua đường bưu điện và email. Do vậy, ít thu được những thông tin phản ánh trực tiếp tâm trạng, hoàn cảnh và những nguyện vọng của người lao động giúp việc gia đình. [10] Các nghiên cứu liên quan nêu trên đã phần nào cung cấp những thông tin về các loại hình giúp việc gia đình hiện có nhưng chưa phân tích sâu về điều kiện làm việc, điều kiện sinh hoạt của người lao động cũng như nhu cầu được đào tạo chuyên môn của họ. Nhằm có đầy đủ luận cứ về mặt khoa học và thực tiễn cho việc đề xuất các kiến nghị về quản lý các hoạt động dịch vụ giúp việc gia đình, đề tài nghiên cứu này sẽ tập trung vào tìm hiểu đặc điểm loại hình giúp việc gia đình, các nhu cầu của người lao động đối với điều kiện sinh hoạt, điều kiện làm việc và đào tạo chuyên môn. 25 1.2.2. Tổng quan địa bàn nghiên cứu: Hà Nội là trái tim của đất nước, có vị trí và địa thế thuận lợi, là trung tâm chính trị, kinh tế, vǎn hoá, thương mại, giao dịch quốc tế, du lịch, khoa học và đầu mối giao thông quan trọng của Việt Nam. Hà Nội có diện tích 3.324,92 km2, dân số 6.448.837 nghìn người, trong đó dân số sống ở khu vực thành thị là 2.632.087 nghìn người, nông thôn là 3.816.750 nghìn người. Mật độ dân số bình quân hiện nay là 1.926 nghìn người/km2 [19]. Hà Nội nằm ở đồng bằng Bắc bộ, tiếp giáp với các tỉnh: Thái Nguyên, Vĩnh Phúc ở phía bắc; phía nam giáp Hà Nam và Hoà Bình; phía đông giáp các tỉnh Bắc Giang, Bắc Ninh và Hưng Yên; phía tây giáp tỉnh Hoà Bình và Phú Thọ. Thành phố Hà Nội có 10 quận gồm: Hoàn Kiếm, Ba Ðình, Ðống Ða, Hai Bà Trưng, Tây Hồ, Thanh Xuân, Cầu Giấy, Long Biên, Hoàng Mai, Hà Đông; 1 thị xã: Sơn Tây; và 18 huyện bao gồm: Ðông Anh, Sóc Sơn, Thanh Trì, Từ Liêm, Gia Lâm, Ba Vì, Chương Mỹ, Đan Phượng, Hoài Đức, Mỹ Đức, Phú Xuyên, Phúc Thọ, Quốc Oai, Thạch Thất, Thanh Oai, Thường Tín, Ứng Hoà và Mê Linh. Đề tài đã chọn 3 quận: Ba Đình, Cầu Giấy, Đống Đa là những quận đại diện cho mức độ phát triển đô thị khác nhau trong khu vực nội thành Hà Nội để tiến hành điều tra về người giúp việc gia đình. Trong mỗi quận, nhóm nghiên cứu lựa chọn 2 phường để tiến hành thu thập thông tin phục vụ đề tài. Có 6 phường được chọn, cụ thể là: quận Ba Đình: phường Vĩnh Phúc, phường Quan Thánh; quận Đống Đa: phường Cát Linh, phường Láng Thượng; quận Cầu Giấy: phường Nghĩa Tân, phường Trung Hoà. Sau đây là vài nét khái quát về tình hình phát triển kinh tế, văn hoá, xã hội và trật tự an ninh trên địa bàn 3 quận: Quận Ba Đình có diện tích: 9,248 km2, dấn số: 225,282 người, với mật độ dân số trung bình: 24.360 người/km2. Ba Đình là quận nằm ở trung tâm của thủ đô Hà Nội, phía bắc giáp quận Tây Hồ, phía nam giáp quận Đống Đa, phía đông giáp sông Hồng, đông nam giáp quận Hoàn Kiếm, phía tây giáp quận Cầu Giấy. Quận có 14 phường: Ngọc Hà, Đội Cấn, Cống Vị, Quán Thánh, Phúc Xá, Nguyễn Trung 26 Trực, Trúc Bạch, Điện Biên, Thành Công, Giảng Võ, Kim Mã, Ngọc Khánh, Liễu Giai, Vĩnh Phúc. Về kinh tế: Tổng thu ngân sách nhà nước trên địa bàn quận năm 2008 đạt 2.410 tỷ đồng. Tốc độ tăng giá trị sản xuất công nghiệp ngoài quốc doanh ước đạt 12%, tốc độ tăng giá trị sản xuất các ngành dịch vụ ước đạt 15%. Giá trị giải ngân các nguồn vốn ước được 43 tỷ đồng, đạt 90% kế hoạch. Chi ngân sách đảm bảo thực hiện các nhiệm vụ kinh tế, văn hoá - xã hội, an ninh - quốc phòng trên địa bàn từ quận đến phường và các nhiệm vụ đột xuất; ước tổng chi ngân sách được 240,8 tỷ đồng, đạt 99% kế hoạch. Về văn hoá - xã hội: hoạt động của các cụm văn hoá thể thao, các câu lạc bộ sức khoẻ ngoài trời, bóng đá, bóng bàn, cầu lông... phát triển mạnh. Quận đã tổ chức các lễ hội đảm bảo nếp sống văn minh nơi thờ tự, an toàn, lành mạnh, tiết kiệm. Công tác giáo dục - đào tạo đạt được kết quả tốt, tỷ lệ học sinh được xét tốt nghiệp trung học cơ sở đạt 99,7% (tỷ lệ khá, giỏi là 62%), tỷ lệ học sinh được xét tốt nghiệp tiểu học đạt 100% (tỷ lệ khá, giỏi là 88%). Trong năm qua, quận đã phối hợp tổ chức cho vay vốn quỹ quốc gia với tổng số tiền ước được 7,3 tỷ đồng, góp phần giải quyết việc làm cho gần 700 lao động. Công tác dân số, gia đình và trẻ em đạt kết quả tốt. Mức giảm tỷ lệ sinh là 0,08%o, mức giảm tỷ lệ sinh con thứ 3 trở lên là 0,02%. Thực hiện tốt các chiến dịch truyền thông, chăm sóc sức khoẻ sinh sản và tư vấn pháp lý cho học sinh. Tiếp tục thực hiện mô hình truyền thông khu dân cư đặc thù và mô hình cung cấp thông tin, dịch vụ chăm sóc sức khoẻ sinh sản cho dân di cư, mô hình chăm sóc sức khoẻ sinh sản tuổi vị thành niên, triển khai mô hình phòng chống tai nạn thương tích cho trẻ em. Về trật tự an ninh: trong năm qua, quận đã tiến hành điều tra khám phá 199 vụ phạm pháp hình sự, trong đó điều tra khám phá 10 vụ trọng án; phát hiện, xử lý 46 vụ phạm pháp kinh tế, 215 vụ phạm pháp về ma tuý; xử lý hình sự 01 đối tượng lợi dụng khiếu kiện thường xuyên gây rối trật tự công cộng; kiểm tra trên 2.000 lượt 27 cơ sở kinh doanh dịch vụ có điều kiện về an ninh trật tự, xử lý 59 cơ sở vi phạm. Địa bàn quận là nơi tập trung các cơ quan trung ương, do đó nhiệm vụ đảm bảo tuyệt đối an toàn các hoạt động của Đảng, Nhà nước, các đoàn khách quốc tế, các hội nghị quốc tế diễn ra trên địa bàn quận được thực hiện tốt. Phối hợp giải quyết các trường hợp tập trung đông người, khiếu kiện không đúng quy định tại các cơ quan Trung ương, nhà riêng các đồng chí lãnh đạo Đảng, Nhà nước. - Quận Cầu Giấy được lập năm 1996, có diện tích: 12,04 km2, dân số: 147.000 người, với mật độ dân số trung bình: 12.209 người/km2. Quận có 8 phường: Nghĩa Đô, Quan Hoa, Dịch Vọng, Dịch Vọng Hậu, Trung Hoà, Nghĩa Tân, Mai Dịch, Yên Hoà. Về kinh tế: Thu ngân sách quận 6 tháng đầu năm 2009 đạt 535,5 tỷ đồng tăng 15% so với năm 2008, trong đó thu thuế đạt 302,6 tỷ đồng, thu xây dựng đạt 145,8 tỷ đồng. Hoạt động thương mại - dịch vụ trên địa bàn quận đạt 13.130,7 tỷ đồng tăng 43% so với cùng kỳ năm 2008. Trong đó khu vực kinh tế cá thể đạt 1.842,8 tỷ đồng, kinh tế hỗn hợp đạt 10.918,7 tỷ đồng, kinh tế tư nhân đạt 369,3 tỷ đồng. Giá trị sản xuất công nghiệp ngoài quốc doanh đạt 139 tỷ đồng, trong đó khối các công ty trách nhiệm hữu hạn tư nhân đạt 58,7 tỷ đồng; khối các công ty cổ phần đạt 53 tỷ đồng; khối doanh nghiệp tư nhân đạt 227 triệu đồng; khối kinh tế tập thể đạt 250 triệu đồng; hộ cá thể đạt 26,8 tỷ đồng. Về văn hoá - xã hội: Giáo dục và đào tạo được thực hiện một cách toàn diện, chất lượng giáo dục được nâng cao, tỷ lệ học sinh xếp loại giỏi ở bậc tiểu học đạt 84,12%; bậc THCS đạt 41,7%. Công tác y tế, dân số và kế hoạch hoá gia đình thực hiện tốt, công tác xã hội được quan tâm, quận đã hỗ trợ giải quyết việc làm cho 2.500 lao động, tỷ lệ hộ nghèo giảm. Các hoạt động thông tin tuyên truyền văn hoá, văn nghệ, thể dục thể thao triển khai sâu rộng đảm bảo phục vụ tốt các nhiệm vụ chính trị. Về trật tự an ninh: tình hình an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội tiếp tục được giữ vững và ổn định. Đẩy mạnh công tác đấu tranh phòng chống tội phạm trên 28 mọi lĩnh vực, tuyên truyền phổ biến giáo dục pháp luật với 42 hội nghị thu hút 4.120 người tham gia. Công tác hoà giải ở cơ sở đã hoà giải được 162/196 vụ việc đạt tỷ lệ 82,65%. Quản lý đô thị, vệ sinh môi trường được triển khai có hiệu quả, giải quyết các khiếu nại, tố cáo của công dân trên địa bàn được đảm bảo. - Quận Đống Đa có diện tích 9.96 km², dân số 352.000 người, với mật độ dân số trung bình 35,341 người/km2, là một quận đông dân số nhất trong các quận, huyện của Hà Nội. Phía bắc giáp quận Ba Đình, phía đông bắc giáp quận Hoàn Kiếm, phía đông giáp quận Hai Bà Trưng, phía nam giáp quận Thanh Xuân, phía tây giáp quận Cầu Giấy. Đống Đa, có 21 phường: Văn Miếu, Quốc Tử Giám, Hàng Bột, Nam Đồng, Trung Liệt, Khâm Thiên, Phương Liên, Cát Linh, Văn Chương, Phương Mai, Khương Thượng, Ngã Tư Sở, Láng Thượng, Ô Chợ Dừa, Quang Trung, Thổ Quan, Trung Phụng, Kim Liên, Trung Tự, Thịnh Quang, Láng Hạ. - Về kinh tế: Năm 2008 thu ngân sách đạt 843,64 tỷ đồng, tăng 29,2% so với kết quả thực hiện năm 2007, có 10/10 khoản thu đạt và vượt kế hoạch. Thuế công thương nghiệp, dịch vụ ngoài quốc doanh chiếm 72,38% tổng thu, tăng 48,5% so với năm 2007. Quận đã hoàn thành vượt mức công tác thu ngân sách và tạo chuyển biến tốt về kinh tế với tốc độ tăng trưởng khá cao. Trong 6 tháng đầu năm 2009 tổng thu ngân sách nhà nước đạt 573,8 tỷ đồng. Giá trị sản xuất công nghiệp ngoài quốc doanh đạt 772,6 tỷ đồng tăng 7,25% so với cùng kỳ năm trước, tăng chủ yếu ở ngành sản xuất chế biến thực phẩm, sản xuất thiết bị điện. - Về văn hoá - xã hội: Triển khai kế hoạch tu bổ tôn tạo các di tích lịch sử văn hoá và khoanh vùng bảo vệ di tích Lăng Hoàng Cao Khải, đón nhận Bằng xếp hạng di tích lịch sử Đình Thịnh Quang. Vận động được trên 90% nhân dân tại các tuyến phố treo cờ tổ quốc trong các dịp lễ, tết, 98% hộ gia đình đăng ký gia đình văn hoá, 95% tổ dân phố đăng ký tổ dân phố văn hoá. - Về trật tự an ninh: Năm 2008, công tác đấu tranh xử lý tội phạm được tăng cường, đã phát hiện xử lý 72 vụ vi phạm các quy định về trật tự quản lý kinh tế, thu nộp ngân sách Nhà nước 1,5 tỷ đồng; phạm pháp hình sự xẩy ra 515 vụ, giảm 115 29 vụ so với năm 2007, đã khám phá 380 vụ đạt tỷ lệ 83,3%. Quận đã cơ bản giải quyết dứt điểm đơn thư tồn đọng, kịp thời phát hiện và xử lý dịch bệnh, giữ vững an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội. 30 Chƣơng 2: THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG GIÚP VIỆC GIA ĐÌNH TẠI THÀNH PHỐ HÀ NỘI 2.1. Một số đặc trƣng nhân khẩu - xã hội của ngƣời giúp việc gia đình và hộ gia đình thuê ngƣời giúp việc: 2.1.1. Nhóm người giúp việc gia đình: 2.1.1.1. Tuổi: Số liệu cho thấy độ tuổi của người giúp việc trong gia đình (sau đây xin gọi là người giúp việc) có khoảng cách khá rộng, từ 14 đến 64 tuổi, trong đó tỷ lệ người trong độ tuổi thanh niên (14-28) chiếm 36.2%, tỷ lệ người trung niên (32-49) chiếm 37.3% và người thuộc độ tuổi từ 50 đến 64 chiếm 26.5%. Tỷ lệ trẻ em (14-16 tuổi) tham gia làm giúp việc gia đình là 6.7%. 2.1.1.2. Giới tính: Với đặc thù hoạt động của nghề giúp việc gia đình là những

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfv_l2_01833_4718_2003122.pdf
Tài liệu liên quan