Tóm tắt Luận văn Tội cố ý làm trái quy định của nhà nước về quản lý kinh tế gây hậu quả nghiêm trọng trong luật hình sự Việt Nam

ách mạng tháng Tám năm 1945 thành công đã khai sinh ra nước Việt nam

dân chủ cộng hòa, nước ta đã phải đương đầu với rất nhiều khó khăn, thử thách do

giặc đói, giặc dốt, giặc ngoại xâm và đặc biệt nền kinh tế kiệt quệ sau chiến tranh.

Lợi dụng những khó khăn trước mắt về kinh tế, nhiều hành vi tội phạm kinh tế

trong thời kỳ này xuất hiện ngày càng nhiều như; nạn buôn lậu, buôn bán hàng

cấm, làm bạc giả xảy ra rất phức tạp. Trong đó có cả một số cán bộ của các cơ

quan nhà nước, nhà máy công, sở cũng lợi dụng biển thủ công quỹ, nhận hối lộ

Sau khi giành được độc lập, Đảng và Nhà nước ta, mà đứng đầu là Chủ tịch

Hồ Chí Minh đã khẳng định chính sách pháp luật trong nhà nước dân chủ nhân

dân; "Trước chúng ta đã bị quân chủ chuyên chế cai trị, rồi đến chế độ thực dân

không kém phần chuyên chế, nên nước ta không có Hiến pháp. Nhân dân ta không

được hưởng quyền tự do dân chủ. Chúng ta phải có một Hiến pháp dân chủ" [24,tr. 6]. Nhất quán chủ trương đó, Nhà nước ta đã cho ra đời bản Hiến pháp đầu tiên

của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa và các chính sách pháp luật phù hợp với tình

hình thực tế của từng giai đoạn lịch sử góp phần bảo vệ nền độc lập của dân tộc,

bảo vệ lợi ích của giai cấp công nhân và nhân dân lao động, xây dựng đất nước ổn

định và phát triển.

pdf17 trang | Chia sẻ: lavie11 | Lượt xem: 413 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tóm tắt Luận văn Tội cố ý làm trái quy định của nhà nước về quản lý kinh tế gây hậu quả nghiêm trọng trong luật hình sự Việt Nam, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT NGUYỄN VĂN MINH TỘI CỐ Ý LÀM TRÁI QUY ĐỊNH CỦA NHÀ NƯỚC VỀ QUẢN LÝ KINH TẾ GÂY HẬU QUẢ NGHIÊM TRỌNG TRONG LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM luËn v¨n th¹c sÜ luËt häc Hµ néi - 2007 ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT NGUYỄN VĂN MINH TỘI CỐ Ý LÀM TRÁI QUY ĐỊNH CỦA NHÀ NƯỚC VỀ QUẢN LÝ KINH TẾ GÂY HẬU QUẢ NGHIÊM TRỌNG TRONG LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM Chuyên ngành : Luật hình sự Mã số : 60 38 40 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC Người hướng dẫn khoa học: TSKH.PGS Lê Cảm Hµ néi - 2007 MỞ ĐẦU 1. Lý do lựa chọn đề tài Sự nghiệp đổi mới do Đảng ta tổ chức và thực hiện, đã thu được những thắng lợi rất quan trọng trên tất cả các lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội... Khủng hoảng kinh tế từng bước được đẩy lùi thay vào đó là sự phát triển ổn định về mọi mặt. Bộ máy nhà nước ngày càng được hoàn thiện theo hướng nâng cao chất lượng, hiệu lực quản lý nhà nước đối với toàn xã hội. Đời sống cán bộ công nhân, viên chức nhà nước và nhân dân lao động từng bước được cải thiện. Tuy nhiên bên cạnh những thuận lợi, những thành tựu đạt được trong sự nghiệp đổi mới, chúng ta còn không ít những khó khăn, tiêu cực trong xã hội. Cùng với sự phát triển của nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa, tình hình kinh tế xã hội nước ta có những bước phát triển mạnh mẽ. Bên cạnh những mặt tích cực, năng động do nền kinh tế thị trường mang lại, thì mặt trái của cơ chế thị trường cũng tác động đến đời sống xã hội, do đó, tình hình vi phạm pháp luật cũng trở nên đa dạng và phức tạp hơn, đặc biệt là những tội phạm kinh tế nói chung và tội cố ý làm trái quy định của nhà nước về quản lý kinh tế gây hậu quả nghiêm trọng nói riêng. Theo thống kê của Bộ Công an, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Tòa án dân nhân tối cao tội phạm kinh tế mặc dù chỉ chiếm 12% - 15% trong tổng số tội phạm xảy ra trên toàn quốc nhưng thiệt hại về kinh tế chiếm đa số trong tổng số thiệt hại về tài chính do tội phạm gây ra [57, tr. 131]. Tội phạm kinh tế, nhất là nhóm tội phạm tham nhũng, cố ý làm trái quy định của nhà nước về quản lý kinh tế gây hậu quả nghiêm trọng có chiều hướng gia tăng cả về số lượng cũng như quy mô và tính chất. Thực tiễn đấu tranh và phòng chống tội phạm đối các vụ án trong quản lý kinh tế - xã hội trong những năm qua cho thấy các cơ quan tiến hành tố tụng đã có nhiều tiến bộ tích cực nhưng do các loại tội phạm này thường có quy mô, tính chất phức tạp, nó liên quan đến rất nhiều các ban ngành và đoàn thể cho nên vấn đề đấu tranh, phòng chống tội phạm kinh tế luôn là vấn đề nóng trong xã hội. Nhiều vụ việc đã được phát hiện và xử lý kịp thời, góp phần quan trọng vào công tác đấu tranh và phòng chống tội phạm kinh tế nói chung và tội cố ý làm trái quy định của Nhà nước về quản lý kinh tế nói riêng. Nhưng bên cạnh đó vẫn còn rất nhiều trường hợp đã được chia nhỏ để chuyển sang xử lý hành chính nhằm trốn tránh bị xử lý trách nhiệm hình sự 2. Tình hình nghiên cứu Tội cố ý làm trái quy định của Nhà nước về quản lý kinh tế gây hậu quả nghiêm trọng cũng đã được một số tác giả nghiên cứu và làm rõ. Điển hình như TS. Bùi Minh Thanh với đề tài "Đấu tranh phòng, chống vi phạm pháp luật trong lĩnh vực kinh tế ở Việt Nam hiện nay" Nhà xuất bản Công an nhân dân, 2004; Thạc sĩ Nguyễn Mai Bộ với công trình nghiên cứu "Pháp luật hình sự về các tội xâm phạm trật tự quản lý kinh tế" Nhà xuất bản Tư pháp, 2004. Ngoài ra, còn một số bài viết khác của các tác giả đăng trên các tạp chí Kiểm sát, tạp chí Tòa án, tạp chí Luật học đề cập đến loại tội phạm này. Nhưng cho đến nay, chưa có tác giả nào đề cập một cách toàn diện và riêng rẽ. Vì vậy, việc tiếp tục nghiên cứu về đề tài "Tội cố ý làm trái quy định của Nhà nước về quản lý kinh tế gây hậu quả nghiêm trọng" có ý nghĩa quan trọng cả về lý luận và thực tiễn. 3. Mục đích, nhiệm vụ, đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn * Mục đích Làm rõ khái niệm, đặc điểm pháp lý, nội dung kết quả của việc đấu tranh của tội cố ý làm trái quy định của Nhà nước về quản lý kinh tế gây hậu quả nghiêm trọng hiện nay. Trên cơ sở đó để có thể đề xuất một số giải pháp nhằm góp phần hoàn thiện quy định của pháp luật về "Tội cố ý làm trái quy định của nhà nước về quản lý kinh tế gây hậu quả nghiêm trọng". * Nhiệm vụ - Làm rõ được nội dung phạm vi của khái niệm tội cố ý làm trái quy định của nhà nước về quản lý kinh tế gây hậu quả nghiêm trọng. - Nghiên cứu quy định của pháp luật hình sự Việt Nam hiện hành về tội cố ý làm trái quy định của Nhà nước về quản lý kinh tế gây hậu quả nghiêm trọng và thực tiễn áp dụng các quy phạm của tội này trong những năm gần đây, tìm ra những mặt làm được và hạn chế. * Đối tượng, phạm vi nghiên cứu luận văn Luận văn tập trung nghiên cứu sự hình thành và phát triển của các quy phạm về tội cố ý làm trái quy định của nhà nước về quản lý kinh tế gây hậu quả nghiêm trọng trong luật hình sự Việt Nam từ trước đến nay. 4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu Cơ sở lý luận của luận văn là: Quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam, của Nhà nước ta về đấu tranh phòng chống tội phạm nói chung trong tình hình mới. Phương pháp nghiên cứu của khóa luận dựa vào chủ nghĩa duy vật lịch sử và chủ nghĩa duy vật biện chứng. Phương pháp phân tích tổng hợp, phương pháp thực tiễn thống kê để làm sáng tỏ nội dung nghiên cứu của đề tài. 5. Ý nghĩa của việc nghiên cứu khóa luận Trên cơ sở phân tích những vấn đề lý luận và thực tiễn của tội cố ý làm trái quy định của nhà nước về quản lý kinh tế gây hậu quả nghiêm trọng. Luận văn phản ánh rõ sự hình thành và phát triển các quy định pháp luật hình sự về loại tội phạm này, khái niệm, đặc điểm pháp lý, phạm vi và lĩnh vực phạm tội. Trên cơ sở đó có thể đề xuất những kiến nghị nhằm hoàn thiện quy định của pháp luật hình sự về tội cố ý làm trái quy định của nhà nước về quản lý kinh tế gây hậu quả nghiêm trọng trong tình hình mới. 6. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của Luận văn gồm 3 chương: Chương 1: Sự hình thành và phát triển của các quy phạm về tội cố ý làm trái quy định của nhà nước về quản lý kinh tế gây hậu quả nghiêm trọng Chương 2: Nhận thức chung về tội cố ý làm trái quy định của nhà nước về quản lý kinh tế gây hậu quả nghiêm trọng Chương 3: Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện quy định của pháp luật hình sự về tội cố ý làm trái quy định của nhà nước về quản lý kinh tế gây hậu quả nghiêm trọng. Chương 1 SỰ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN CỦA CÁC QUY PHẠM VỀ TỘI CỐ Ý LÀM TRÁI QUY ĐỊNH CỦA NHÀ NƯỚC VỀ QUẢN LÝ KINH TẾ TRONG LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM 1.1. SỰ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN CỦA CÁC QUY PHẠM VỀ TỘI CỐ Ý LÀM TRÁI QUY ĐỊNH CỦA NHÀ NƯỚC VỀ QUẢN LÝ KINH TẾ TRƯỚC PHÁP ĐIỂN HÓA LẦN THỨ NHẤT NĂM 1985 Quá trình hình thành và phát triển của các quy phạm về tội cố ý làm trái quy định của Nhà nước về quản lý kinh tế gắn liền với sự phát triển của các chính sách pháp luật của đất nước. Sự hình thành và phát triển của các quy phạm pháp luật về tội cố ý làm trái các quy định của Nhà nước về quản lý kinh tế có thể được tìm hiểu qua từng thời kỳ, giai đoạn cụ thể sau đây. 1.1.1. Thời kỳ từ năm 1945 đến năm 1954 Cách mạng tháng Tám năm 1945 thành công đã khai sinh ra nước Việt nam dân chủ cộng hòa, nước ta đã phải đương đầu với rất nhiều khó khăn, thử thách do giặc đói, giặc dốt, giặc ngoại xâm và đặc biệt nền kinh tế kiệt quệ sau chiến tranh. Lợi dụng những khó khăn trước mắt về kinh tế, nhiều hành vi tội phạm kinh tế trong thời kỳ này xuất hiện ngày càng nhiều như; nạn buôn lậu, buôn bán hàng cấm, làm bạc giả xảy ra rất phức tạp. Trong đó có cả một số cán bộ của các cơ quan nhà nước, nhà máy công, sở cũng lợi dụng biển thủ công quỹ, nhận hối lộ Sau khi giành được độc lập, Đảng và Nhà nước ta, mà đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định chính sách pháp luật trong nhà nước dân chủ nhân dân; "Trước chúng ta đã bị quân chủ chuyên chế cai trị, rồi đến chế độ thực dân không kém phần chuyên chế, nên nước ta không có Hiến pháp. Nhân dân ta không được hưởng quyền tự do dân chủ. Chúng ta phải có một Hiến pháp dân chủ" [24, tr. 6]. Nhất quán chủ trương đó, Nhà nước ta đã cho ra đời bản Hiến pháp đầu tiên của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa và các chính sách pháp luật phù hợp với tình hình thực tế của từng giai đoạn lịch sử góp phần bảo vệ nền độc lập của dân tộc, bảo vệ lợi ích của giai cấp công nhân và nhân dân lao động, xây dựng đất nước ổn định và phát triển. Nhưng do thời kỳ này chúng ta vừa giành được độc lập, trước mắt chúng ta đang còn rất nhiều việc cần phải thực hiện ngay như; phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội Do vậy, việc ban hành các chính sách pháp luật vẫn còn nhiều hạn chế, trong đó có các nguyên nhân chủ quan và khách quan. Xét về nguyên nhân chủ quan, vừa giành được chính quyền về tay nhân dân. Bộ máy nhà nước ta thời kỳ này còn non trẻ. Mặt khác, đội ngũ cán bộ nước ta thời kỳ này còn nhiều hạn chế về trình độ chuyên môn nhất là về kỹ thuật lập pháp. Tuy nhiên, do tình hình hết sức khẩn trương không thể ban hành kịp các văn bản quy phạm pháp luật nói chung, văn bản quy phạm pháp luật hình sự cần thiết nói riêng nên ngày 10/10/1945, Nhà nước ta đã ban hành Sắc lệnh số 47-SL cho tạm thời giữ các luật lệ cũ, trong đó có Bộ "Luật hình An Nam", Bộ "Hoàng Việt hình luật" và Bộ "Hình luật pháp tu chính" với điều kiện không trái với nguyên tắc độc lập của nước Việt Nam và chính thể dân chủ cộng hòa [30, tr. 190]. Xét về nguyên nhân khách quan, sau khi giành được chính quyền, Đảng và Nhà nước ta ra sức củng cố và giữ vững an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội. Được thể hiện bằng hành động cụ thể, chống thù trong giặc ngoài. Do vậy mà công tác ban hành các chính sách pháp luật chưa được chú trọng. Trong giai đoạn này, Chính phủ đã ban hành một số sắc lệnh quan trọng làm cơ sở pháp lý cho công tác phòng ngừa, đấu tranh chống tội phạm kinh tế như Sắc lệnh số 26/SL ngày 25/2/1946 về trừng trị tội phá hoại cộng sản; Sắc lệnh 223/SL ngày 17/11/1946 quy định truy tố các tội hối lộ, biển thủ công quỹ. Trong một loạt các hành vi phạm tội trên, có chứa đựng một phần nào hành vi cố ý làm trái quy định của Nhà nước về quản lý kinh tế mà sau này được quy định thành một tội riêng. Hành vi cố ý làm trái quy định của nhà nước về quản lý kinh tế trong giai đoạn này chưa được quy định cụ thể trong các văn bản chính sách, pháp luật của Nhà nước một cách cụ thể, riêng biệt mà nó được đan xen cùng với một số tội phạm khác. Các tội phạm nói chung, tội phạm kinh tế nói riêng trong thời kỳ này được xử lý chủ yếu dựa vào quan điểm đường lối chính sách của Đảng và Nhà nước lúc bấy giờ. Tóm lại, trong thời kỳ này, sự phát triển của hệ thống pháp luật nói chung vẫn còn thiếu và yếu, trong đó sự hình thành và phát triển của các quy phạm của tội cố ý làm trái quy định của Nhà nước về quản lý kinh tế chưa cụ thể và thiếu rõ ràng. Các quy phạm này mới chỉ đề cập về loại hành vi của tội cố ý làm trái, giai đoạn này vẫn chưa có tiêu chí cụ thể. Càng về các thời kỳ sau này tội cố ý làm trái các quy định của Nhà nước về quản lý kinh tế ngày càng được quy định rõ ràng và cụ thể hơn. 1.1.2. Thời kỳ từ 1954 đến năm 1975 Sau chiến thắng Điện Biên Phủ, Hiệp định Giơnevơ được ký kết. Nước ta tạm thời bị chia cắt làm hai miền với hai chế độ chính trị khác nhau. Ở miền Bắc, dưới sự lãnh đạo của Đảng và Nhà nước, toàn thể nhân dân ta bước vào thời kỳ mới khắc phục hậu quả sau chiến tranh, phục hồi kinh tế, ổn định trật tự xã hội và đời sống nhân dân. Trong giai đoạn này, Đảng và Nhà nước ta đã ban hành một loạt các chính sách pháp luật, trong đó có những quy phạm để trừng trị và răn đe những hành vi cố ý làm trái quy định của Nhà nước về quản lý kinh tế. 1- Những nhiệm vụ mà Chính phủ đã đề ra: hàn gắn vết thương chiến tranh, khôi phục lại nên kinh tế quốc dân, làm giảm bớt khó khăn về đời sống của nhân dân phù hợp với tình hình đất nước ta, phù hợp với nguyện vọng của mọi tầng lớp nhân dân, phù hợp cho công cuộc đấu tranh cho hòa bình thống nhất, độc lập dân chủ của nhân dân ta. Phương châm khôi phục kinh tế, khôi phục và phát triển nông nghiệp, khôi phục công nghiệp và thương nghiệp đều hướng về dân sinh phục vụ cho sản xuất của nhân dân, phục vụ cho công cuộc kiến thiết của nước nhà (Nghị quyết kinh tế 1955 của Quốc hội) Ngày 15/6/1956 của Chủ tịch nước đã ban hành Sắc lệnh số 267-SL về trừng trị những âm mưu, hành động phá hoại hoặc làm thiệt hại đến tài sản của Nhà nước, của Hợp tác xã và của nhân dân, làm cản trở việc thực hiện chính sách, kế hoạch xây dựng kinh tế và văn hóa "Sự nghiệp xây dựng kinh tế và văn hóa của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa nhằm phục vụ lợi ích của toàn dân. Kẻ nào phá hoại sự nghiệp ấy là làm hại nhân dân. Để góp phần vào việc bảo vệ sự nghiệp xây dựng kinh tế và văn hóa, nay ban hành sắc lệnh này nhằm trừng trị những âm mưu, hành động phá hoại hoặc làm thiệt hại đến tài sản của Nhà nước, của hợp tác xã và của nhân dân, làm cản trở việc thực hiện chính sách, kế hoạch xây dựng kinh tế và văn hóa" (Sắc lệnh số 267) Điều 4 của Sắc lệnh 267 ngày 15/6/1956 còn quy định như sau: Kẻ nào vì mục đích phá hoại mà làm cản trở việc thực hiện chính sách, kế hoạch kinh tế và văn hóa của nhà nước bằng bất cứ cách nào như: tuyên truyền chống phá chính sách, chống kế hoạch, phao đồn tin bịa đặt gây sự nghi ngờ hoang mang trong quần chúng, hành động chống chính sách, chống kế hoạch, không làm hoặc làm sai công việc mình phụ trách, làm gián đoạn công việc thường xuyên; kìm hãm sự phát triển của một bộ phận, một ngành hoạt động, gây mâu thuẫn, chia rẽ nội bộ công nhân viên, cán bộ, xã viên hoặc chia rẽ nhân dân và cán bộ sẽ bị phạt từ 5 năm đến 20 năm tù. Quy phạm này một lần nữa phản ánh quan điểm của Nhà nước ta trong việc trừng trị những hành vi gây thiệt hại đến tài sản của Nhà nước, Hợp tác xã và của nhân dân. Sau khi chúng ta thực hiện kế hoạch 5 năm lần thứ nhất (1960- 1965) và nhất là từ khi đế quốc Mỹ gây ra chiến tranh phá hoại ở miền Bắc nước ta, công tác tổ chức và quản lý kinh tế, việc xây dựng và thi hành các chế độ, thể lệ về quản lý kinh tế có phần bị buông lỏng; công tác giáo dục và phát động quần chúng đông đảo tham gia bảo vệ của công làm chưa tốt. Việc trừng trị những hành động nhằm xâm hại tài sản xã hội chủ nghĩa cũng thiếu nghiêm minh và kịp thời. Những hiện tượng tiêu cực như tham ô, trộm cắp, lãng phí tài sản của Nhà nước và của Hợp tác xã chưa được ngăn chặn một cách có hiệu quả, được thể hiện qua một số vụ án cụ thể trong thời kỳ đó. Ví dụ 1: Vụ Nguyễn Hữu Cờ và đồng bọn tham ô, cố ý làm trái. Ngày 17/7/1960 Nguyễn Hữu Cờ và đồng bọn tham ô ở nhà máy in Tiến Bộ, Hà Nội, lợi dụng những sở hở về quản lý kinh tế của giám đốc nhà máy, Nguyễn Huy Cờ (nhân viên kế toán) đã cấu kết với Trương Công Nhận và Trần Văn Pha (nhân viên cung ứng) hoạt động tham ô, cố ý làm trái. Những hoạt động phạm tội của Cờ và đồng bọn lại được Trần Cao Tưởng (Phó phòng tài vụ) bao che, nên hiện tượng vi phạm kéo dài, gây thiệt hại cho Nhà nước số tiền 92.517 đồng. Tổng kết trong 2 năm 1961 - 1962 đã phát hiện 55 vụ gây thiệt hại về kinh tế bắt 503 tên tội phạm [37, tr. 237-239]. Ví dụ 2: Vụ Trần Công Khanh cố ý làm sai chế độ quản lý kinh tế tài chính của Nhà nước. Thông qua công tác nghiệp vụ, lực lượng bảo vệ kinh tế đã phát hiện Trần Công Khanh cùng đồng bọn cố ý làm sai chế độ quản lý kinh tế tài chính của Nhà nước, gây thiệt hại nghiêm trọng đến tài sản của Nhà nước, tài sản nhân dân. Trần Công Khanh, nguyên là đại tá, nguyên Cục trưởng Cục Thủy văn - Bộ Thủy lợi. Từ tháng 10/1964, Khanh đã cùng đồng bọn can tội lừa đảo, cố ý làm sai trái chính sách, chế độ quản lý kinh tế, tài chính của Nhà nước và còn dùng tiền và hàng hóa để hối lộ một số cán bộ ở các Bộ, Ngành trong vụ án có 12 bị can [37, tr. 244]. Nhà nước ta đã ban hành nhiều văn bản pháp luật trừng trị những âm mưu và hành động phá hoại hoặc làm thiệt hại đến tài sản của Nhà nước, của Hợp tác xã và của nhân dân. Cũng trong thời kỳ này, với sự điều chỉnh văn bản pháp luật cho phù hợp với tình hình mới, ngày 21/10/1970, Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã thông qua Pháp lệnh trừng trị các tội xâm phạm tài sản xã hội chủ nghĩa. Tại Điều 12 Pháp lệnh quy định tội cố ý làm trái nguyên tắc, chính sách, chế độ, thể lệ về kinh tế, tài chính gây thiệt hại đến tài sản xã hội chủ nghĩa như sau: "Kẻ nào lợi dụng chức vụ, quyền hạn cố ý làm trái nguyên tắc, chính sách, chế độ và thể lệ về kinh tế tài chính, gây thiệt hại đến tài sản xã hội chủ nghĩa thì bị phạt". Theo các khung hình phạt của điều luật, thì tội này có hình phạt tù từ 6 đến 20 năm. Đặc biệt hành vi cố ý làm trái trong giai đoạn này chủ yếu là hành vi làm trái những nguyên tắc, chính sách, chế độ quản lý kinh tế. Những nguyên tắc, chính sách, chế độ quản lý kinh tế được Nhà nước đặt ra nhằm đảm bảo cho mọi hoạt động kinh tế của Nhà nước đi đúng đường lối kinh tế, kinh doanh xã hội chủ nghĩa, mà nhà nước đã hoạch định, bảo đảm cho mọi hoạt động kinh tế được cân đối, có kế hoạch. Hai mặt đó có mối quan hệ với nhau và tác động qua lại. Người làm kinh tế tùy theo từng thẩm quyền, cương vị ở lĩnh vực nào nhất thiết phải tôn trọng và thi hành đúng những quy định về quản lý kinh tế trên lĩnh vực đó. Hiện tại chúng ta đang đứng trước một thực tế là; cơ chế quản lý kinh tế đang từng bước được hoàn thiện và củng cố theo yêu cầu của. DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO CÁC VĂN BẢN, NGHỊ QUYẾT CỦA ĐẢNG 1. Đảng Cộng sản Việt Nam (1982), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ V, Nxb Sự thật, Hà Nội. 2. Đảng Cộng sản Việt Nam (1987), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI, Nxb Sự thật, Hà Nội. 3. Đảng Cộng sản Việt Nam (1991), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII, Nxb Sự thật, Hà Nội. 4. Đảng Cộng sản Việt Nam (1996), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII, Nxb Sự thật, Hà Nội. 5. Đảng Cộng sản Việt Nam (2001), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nxb Sự thật, Hà Nội. 6. Đảng Cộng sản Việt Nam (2006), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb Sự thật, Hà Nội. CÁC VĂN BẢN PHÁP LUẬT CỦA NHÀ NƯỚC 7. Hiến pháp 1946, 1959, 1980, 1992 nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (1995), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 8. Quốc hội (1985), Bộ luật hình sự, Hà Nội. 9. Quốc hội (1999), Bộ luật hình sự, Hà Nội CÁC TÀI LIỆU THAM KHẢO KHÁC 10. "Agribank thua lỗ gần 500 tỷ đồng do cố ý làm trái" (2006), Báo điện tử Dân trí, ngày 16/10. 11. Báo Điện tử Vietnamnet (2006), ngày 10/8. 12. Báo Điện tử Vietnamnet (2007), ngày 31/5. 13. Nguyễn Mai Bộ (2004), Pháp luật hình sự về các tội xâm phạm trật tự quản lý kinh tế, Nxb Tư pháp, Hà Nội. 14. Lê Văn Cảm (2005), Những vấn đề cơ bản trong khoa học luật hình sự phần chung, (Sách chuyên khảo), Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội. 15. Đàm Minh Châu (2000), "Từ góc độ chống tội phạm kinh tế 6 tháng đầu năm 2000", Báo Thương Mại, (13). 16. Minh Châu (2001), "Nhìn lại năm 2000 từ góc độ chống tội phạm kinh tế", Báo Thương mại, (1). 17. Đấu tranh chống và phòng ngừa tội tham ô, cố ý làm trái và hối lộ trong cơ chế thị trường (1993), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 18. Nguyễn Ngọc Hòa (2004), Các yếu tố cấu thành tội phạm lý luận và thực tiễn, Nxb Tư pháp, Hà Nội. 19. Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh (2006), Giáo trình quản lý học đại cương, Hà Nội. 20. Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh (2006), Phòng, chống tội phạm trong giai đoạn hiện nay ở nước ta, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội. 21. Nguyễn Mạnh Khánh (1997), "Bàn thêm về vấn đề đấu tranh phòng và chống tham nhũng", Nhà nước và pháp luật, (11). 22. "Khởi tố thêm hai quan chức "dính" vụ Rusalka" (2006), Vietnamnet, ngày 10/8. 23. C. Mác - Ph. Ăngghen (1963), Toàn tập, tập 23, Nxb Sự thật, Hà Nội. 24. Hồ Chí Minh (1984), Toàn tập, tập 4, Nxb Sự thật, Hà Nội. 25. Nhà nước và pháp luật Việt Nam trước thềm thế kỷ XXI (2002), Nxb Công an nhân dân, Hà Nội. 26. Trần Phàn (1991), "Vì sao tội tham ô, nhận hối lộ, cố ý làm trái ít được phát hiện và xử lý", Kiểm sát, (6). 27. Phòng chống tội phạm trong giai đoạn hiện nay ở nước ta (2006), Nxb Công an nhân dân, Hà Nội. 28. Đinh Văn Quế (2006), Bình luận khoa học Bộ luật hình sự phần các tội phạm, Nxb Thành phố Hồ Chí Minh. 29. Vũ Minh Tâm (2000), "Tình hình chống bôn lậu và gian lận thương mại", Thương mại, (5). 30. Tập luật lệ về tư pháp (1957), Bộ Tư pháp xuất bản, Hà Nội. 31. "Tiếp tục làm rõ hành vi cố ý làm trái của Nguyễn Việt Tiến" (2007), Website của Thanh tra Chính phủ, ngày 02/8. 32. "Tham ô, cố ý làm trái gây thiệt hại 10 tỷ đồng" (2007), Website của Thanh tra Chính phủ, ngày 11/8. 33. Bùi Minh Thanh (2004), Đấu tranh phòng, chống vi phạm pháp luật trong lĩnh vực kinh tế ở Việt Nam hiện nay, (Sách chuyên khảo), Nxb Công an nhân dân, Hà Nội. 34. Thanh tra Nhà nước (2000), Báo cáo kết quả công tác chống quan liêu, tham nhũng thông qua công tác thanh tra, Hà Nội. 35. Thời báo Kinh tế Việt Nam (2005), ngày 17/11. 36. Thời Báo kinh tế Việt Nam (2006), ngày 22/9. 37. Lê Thế Tiệm - Trần Văn Thảo (2005), 60 năm đấu tranh bảo vệ trật tự an toàn xã hội của lực lượng cảnh sát nhân dân Việt Nam, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội. 38. Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội (1970), Thông báo vụ án cố ý làm trái nguyên tắc, chính sách, chế độ thể lệ quản lý kinh tế, Hà Nội. 39. Tòa án nhân dân tỉnh Hưng Yên (2007), Báo cáo tổng kết công tác Tòa án tỉnh Hưng Yên 6 tháng đầu năm 2007, Hưng Yên 40. Tòa án nhân dân tối cao (2001), Báo cáo công tác ngành tòa án năm 2000 và phương hướng nhiệm vụ công tác tòa án năm 2001, Hà Nội. 41. Tòa án nhân dân tối cao (2002), Báo cáo công tác ngành tòa án năm 2001 và phương hướng nhiệm vụ công tác tòa án năm 2002, Hà Nội. 42. Tòa án nhân dân tối cao (2003), Báo cáo công tác ngành tòa án năm 2002 và phương hướng nhiệm vụ công tác tòa án năm 2003, Hà Nội. 43. Tòa án nhân dân tối cao (2004), Báo cáo công tác ngành tòa án năm 2003 và phương hướng nhiệm vụ công tác tòa án năm 2004, Hà Nội. 44. Tòa án nhân dân tối cao (2005), Báo cáo công tác ngành tòa án năm 2004 và phương hướng nhiệm vụ công tác tòa án năm 2005, Hà Nội. 45. Tội phạm ở Việt Nam - Thực trạng, nguyên nhân và giải pháp (1994), Nxb Công an nhân dân, Hà Nội. 46. Trường Đại học Kinh tế Quốc dân (1997), Giáo trình quản lý nhà nước về kinh tế, Hà Nội. 47. Trường Đại học Luật Hà Nội (2000), Giáo trình luật hình sự Việt Nam, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội. 48. Trung tâm biên soạn từ điển Bách khoa Việt Nam (1995), Từ điển Bách Khoa Việt Nam, Hà Nội. 49. Từ điển tiếng Việt (2001), Nxb Giáo dục, Hà Nội. 50. Phùng Thế Vắc - Trần Văn Luyện (2001), Bình luận khoa học Bộ luật hình sự năm 1999 (Phần các tội phạm), Nxb Công an nhân dân, Hà Nội. 51. Viện kiểm sát nhân dân tối cao (1993), Báo cáo của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao trước Quốc hội khóa IX, kỳ họp thứ 3, ngày 08/6, Hà Nội. 52. Viện kiểm sát nhân dân tối cao (2000), Báo cáo số 01/VP ngày 02/1 về tổng kết công tác kiểm sát năm 1999, Hà Nội. 53. Võ Khánh Vinh (1999), Giáo trình tội phạm học, Trung tâm đào tạo từ xa thuộc Đại học Huế. 54. Trần Đăng Vinh (2007), "Một số giải pháp trước mắt nhằm tăng cường hiệu quả công tác đấu tranh phòng, chống tham nhũng ở nước ta trong giai đoạn hiện nay", Nhà nước và pháp luật, (4). 55. "Xử Phúc thẩm vụ án ở Đồ Sơn nhiều khuất tất đã được làm rõ" (2006), Thời Báo Kinh tế Việt Nam, ngày 10/10. 56. Nguyễn Xuân Yêm (2001), Tội phạm học hiện đại và phòng ngừa tội phạm, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội. 57. Nguyễn Xuân Yêm (2005), Tội phạm kinh tế thời mở cửa, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfv_l0_01232_8133_2009465.pdf
Tài liệu liên quan